Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Tục ngữ người việt và tục ngữ người hán về văn hóa ứng xử trong gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 94 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DING ZHENG DONG

TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VÀ TỤC NGỮ NGƯỜI HÁN
VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DING ZHENG DONG

TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VÀ TỤC NGỮ NGƯỜI HÁN
VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý


THÁI NGUYÊN - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Tục ngữ người Việt và tục ngữ người Hán về
văn hóa ứng xử trong gia đình” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý. Các nội dung nêu trong luận văn là
kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một cơng trình nào khác.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan. Các
thơng tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn

DING ZHENG DONG

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học
trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý, người
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tơi xin được bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người
thân, đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều
kiện giúp tơi hồn thành tốt khố học này.
Thái Ngun, tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn


DING ZHENG DONG

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7
7. Bố cục luận văn ............................................................................................... 8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỤC NGỮ VÀ VĂN HÓA ...... 9
1.1. Khái quát chung về tục ngữ ......................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm tục ngữ ..................................................................................... 9
1.1.2. Khái quát nội dung, nghệ thuật của tục ngữ ............................................ 13
1.2. Khái niệm ứng xử và văn hóa ứng xử ....................................................... 20
1.2.1. Khái niệm về văn hóa .............................................................................. 20
1.2.2. Văn hóa ứng xử ....................................................................................... 21
1.3. Văn hóa ứng xử trong gia đình .................................................................. 22
1.3.1. Gia đình truyền thống của người Việt ..................................................... 22
1.3.2. Gia đình truyền thống của người Hán ..................................................... 27
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31

Chương 2. TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VỀ VĂN HĨA ỨNG XỬ TRONG
GIA ĐÌNH................................................................................................. 32
2.1. Tổng hợp và phân loại các kiểu quan hệ ứng xử trong gia đình ............... 32
2.2. Các kiểu quan hệ ứng xử và ví dụ minh họa ............................................. 32

iii


2.2.1. Quan hệ ứng xử cha mẹ - con cái ............................................................ 32
2.2.2. Quan hệ ứng xử vợ - chồng ..................................................................... 44
2.2.3. Quan hệ ứng xử anh, chị, em ................................................................... 49
2.2.4. Các quan hệ họ hàng gia tộc khác ........................................................... 52
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 56
Chương 3. TỤC NGỮ NGƯỜI HÁN VỀ VĂN HĨA ỨNG XỬ TRONG
GIA ĐÌNH................................................................................................. 57
3.1. Tổng hợp và phân loại các kiểu quan hệ ứng xử trong gia đình ............... 57
3.2. Các kiểu quan hệ ứng xử và ví dụ minh họa ............................................. 57
3.2.1. Quan hệ ứng xử cha mẹ - con cái ............................................................ 57
3.2.2. Quan hệ ứng xử vợ - chồng ..................................................................... 71
3.2.3. Quan hệ ứng xử anh, chị, em ruột ........................................................... 76
3.2.4. Các quan hệ họ hàng gia tộc khác ........................................................... 77
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 81
KẾT LUẬN....................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 84

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các kiểu quan hệ ứng xử trong gia đình ................................................32

Bảng 3.1: Các kiểu quan hệ ứng xử trong gia đình ................................................57

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ và văn hố có quan hệ mật thiết với nhau. Hệ thống ngơn ngữ của
một dân tộc, trong đó tục ngữ là một bộ phận cấu thành, khơng những truyền tải văn
hố của dân tộc đó, xét về góc độ lịch sử, cịn là tinh hoa về văn hố của dân tộc.
Tục ngữ Việt cũng như tục ngữ Hán đều mang đậm tính nhân văn. Nó phản ánh một
cách sâu sắc và tồn diện cuộc sống văn hố xã hội của dân tộc Việt và dân tộc Hán.
Tục ngữ là kết tinh trí tuệ của quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ, là sự tổng kết
kinh nghiệm sản xuất và cuộc sống xã hội của quảng đại quần chúng, và còn là sự
thể hiện sâu sắc, sinh động văn hoá của dân tộc Việt và dân tộc Hán. Vị trí địa lý và
lịch sử giao lưu văn hoá lâu đời của nhân dân hai nước Việt - Trung khiến cho tục
ngữ Việt và tục ngữ Hán trong sự phát triển và hình thành của mình đã có sự ảnh
hưởng, giao thoa lẫn nhau. Do đó nghiên cứu tục ngữ Việt và tục ngữ Hán là việc
làm có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu văn hoá dân tộc hai nước, việc đối chiếu tục
ngữ Hán và Việt có giá trị tham khảo quan trọng.
Trong bức tranh thể loại văn học dân gian của Việt Nam và Trung Quốc, tục
ngữ giữ một vai trò quan trọng, dung chứa nhiều nội dung tư tưởng, cũng như những
giá trị, kinh nghiệm của đời sống.Tục ngữ khơng chỉ được tìm hiểu ở phương diện
giá trị phản ánh đời sống, nhận thức, ở những đúc kết kinh nghiệm về tự nhiên, về
xã hội mà còn được khai thác ở nhiều góc độ khác. Với nội dung phong phú, bao
quát nhiều lĩnh vực, với cấu trúc đặc thù, nhiều loại hình, tục ngữ khơng chỉ là đối
tượng nghiên cứu của ngành văn học dân gian, như quan niệm của một số tác giả
trước đây, mà trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác như
triết học, dân tộc học, tâm lý học, xã hội học...Tuy thế cho đến nay việc tìm hiểu
nghiên cứu thể loại này có nhiều điều có thể tiếp tục, nhất là những nghiên cứu có

yếu tố so sánh để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong tư duy thể loại,
trong nội dung nghệ thuật thể hiện. Đây cũng là một lý do mang tính cấp thiết khiến
cho chúng tôi quyết tâm theo đuổi nghiên cứu đề tài.

1


Tiếp nối các cơng trình nghiên cứu đi trước, chúng tơi quan tâm nghiên cứu
nét đẹp về văn hóa ứng xử trong gia đình được thể hiện qua tục ngữ Việt và tục ngữ
Hán. Thơng qua cơng trình nghiên cứu này, chúng tơi mong muốn được góp một
phần cơng sức vào việc so sánh, tìm ra một số nét tương đồng và khác biệt giữa tục
ngữ hai nước Việt - Trung. Chúng tôi cũng hy vọng, luận văn bảo vệ thành công sẽ
là một tài liệu tham khảo tin cậy, có giá trị cho những người muốn tiếp tục nghiên
cứu, tìm hiểu tục ngữ Việt và tục ngữ Hán trong mối quan hệ đối sánh.
Sẽ có nhiều điểm tương đồng, khác biệt trong con đường tiếp thu thể loại tục
ngữ, vẻ đẹp của văn hóa thể hiện ở tục ngữ có nhiều điều lý thú, đây là điều cịn bỏ
ngỏ đối với giới nghiên cứu thể loại Văn học dân gian, chúng tơi mong muốn có
thêm những đánh giá, nhận định rõ hơn toàn diện hơn về sự tương đồng và khác
biệt này.
Bản thân tôi là một người Trung Quốc, tơi u mến đất nước, văn hóa và con
người Việt Nam. Thực hiện đề tài nghiên cứu này, tôi hy vọng được đi sâu tìm hiểu
về văn học, văn hóa nói chung. Những nghiên cứu của chúng tơi ở một phương diện
nào đó là chiếc cầu nối cho tình hữu nghị giữa hai quốc gia trong thời kỳ hội nhập,
toàn cầu hóa hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Việt Nam
Việc sưu tầm biên soạn tục ngữ ở Việt Nam cũng xuất hiện từ rất sớm. Chỉ
tính trong khoảng 40 năm nửa đầu thế kỉ XX, khá nhiều sách về tục ngữ được biên
soạn, xuất bản. Cuốn sách biên soạn tục ngữ in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là “Tục
ngữ cổ ngữ gia ngôn”, tác giả là Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1896. Ngồi ra có

thể kể đến một số sách khác như “Nam ngạn chích cẩm” của Phạm Quang Sán
(1918), “Việt Nam ngạn ngữ phương ngôn thư” của Nguyễn Văn Lễ (1931)...
Những cuốn sách này chủ yếu dừng lại ở mức thu thập, biên soạn, có sách xuất hiện
thêm phần chú giải tục ngữ.
Sau giải phóng, đất nước hồn tồn thống nhất, các cơng trình sưu tầm và
nghiên cứu Văn học dân gian ở Việt Nam nở rộ, trong đó có tục ngữ. Chúng ta có

2


thể kể đến những cơng trình nghiên cứu về tục ngữ như: “Tục ngữ Việt Nam” của
nhóm Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri; “Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc
và thi pháp” của Nguyễn Thái Hịa, “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam” của tác
giả Phan Thị Đào và nhiều cơng trình nghiên cứu tục ngữ đăng trong các tạp chí:
Ngơn ngữ, Văn hố dân gian, Văn học cùng một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về
tục ngữ trong mấy năm gần đây. Ở Việt Nam, có thể thấy cách tiếp cận nghiên cứu
tục ngữ theo các khuynh hướng sau:
- Tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ theo quan điểm ngữ pháp chức năng:
Quan điểm phân tích cú pháp tục ngữ theo mơ hình đề thuyết đầu tiên có thể
kể đến tác giả Cao Xuân Hạo trong “Ngữ pháp chức năng tiếng Việt”. Theo ơng,
mơ hình đề thuyết có thể phân nhỏ thành câu một bậc và câu nhiều bậc. Ơng dùng
biểu đồ hình cây biểu diễn cấu trúc cú pháp tiếng Việt trong đó bao gồm cấu trúc
cú pháp tục ngữ Việt. Tiếp đó là các nhà nghiên cứu: Nguyễn Đức Dương, Hoàng
Diệu Minh cùng có quan điểm như nhà nghiên cứu Cao Xuân Hạo. Tuy nhiên, nhà
nghiên cứu Hồng Diệu Minh cịn chỉ ra rằng, chúng ta có thể hiểu tục ngữ trong
mối quan hệ giữa ba bình diện: Kết học, Nghĩa học và Dụng học. Đó là mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức, mục đích và phương tiện của tục ngữ.
- Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ góc độ cấu trúc logic - ngữ nghĩa:
Đi theo hướng khảo sát, phân tích tục ngữ từ góc độ logic, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đức Dân gợi mở hướng nghiên cứu cấu trúc tục ngữ theo quan điểm logic

- ngữ nghĩa. Tác giả đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho thấy rằng tục ngữ có những
cấu trúc đặc thù ít thấy ở câu thông thường. Bằng những cấu trúc logic - ngữ nghĩa
khái quát, tác giả chứng minh rằng một số câu tục ngữ tuy dùng những phương thức
biểu đạt ngôn ngữ khác nhau nhưng lại có cấu trúc logic như nhau.
Gần đây, Nguyễn Quý Thành trong luận án tiến sĩ “Cấu trúc cú pháp - ngữ
nghĩa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân tộc khác” tập
trung nghiên cứu cấu trúc cú pháp tục ngữ xuất phát từ đặc điểm nội dung khái quát
nhất của tục ngữ để tìm hiểu các cấu trúc đặc thù một cách có hệ thống.

3


- Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ các kiểu khn hình tục ngữ:
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hịa trong “Tục ngữ Việt Nam - cấu trúc và thi
pháp” đã phân tích cú pháp tục ngữ theo những yếu tố hình thức của tục ngữ: vần,
nhịp, kiến trúc sóng đơi. Về ngữ nghĩa tục ngữ, tác giả cho rằng một phần gắn với
quan hệ cú pháp và phần khác gắn liền với cảnh huống giao tiếp cụ thể, tương đương
với kết cấu vừa bề mặt, vừa bề sâu thường thấy của một câu tục ngữ.
- Tiếp cận nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghĩa:
Tục ngữ đặc biệt phong phú trong lĩnh vực đúc kết kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm sản xuất. Nhiều câu tục ngữ có tính khái qt cao, mang đậm nét triết lí,
thậm chí có những câu tục ngữ cịn được coi như chân lí, là kim chỉ nam soi rọi và
dẫn dắt con người trong lĩnh vực đối nhân xử thế. Nghiên cứu tục ngữ theo xu hương
này tiêu biểu có các tác giả: Chu Xuân Diên, Hoàng Văn Hành, Trần Mạnh Thường,
Hoàng Tiến Tựu và Bùi Mạnh Nhị... Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu với các cơng
trình của mình cũng chưa có sự đồng thuận trong cách nhìn về ngữ nghĩa của tục
ngữ.
2.2. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Trung Quốc
Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, từ “tục ngữ” xuất hiện sớm nhất trong “Sử
kí” của Tư Mã Thiên. Vào thời Tiên Tần và thời nhà Hán, tục ngữ và ngạn ngữ

thuộc về cùng một khái niệm, cho nên sau này cịn có tên gọi là “tục ngạn”. Nếu
tính từ thế kỉ XVIII, có thể nói là việc sưu tầm và chú thích tục ngữ ở Trung Quốc
cũng khá rầm rộ và đạt được những kết quả nhất định. Những đầu sách tiêu biểu là
“Thông tục biên”, “Hằng ngôn lục”, “Cổ dao ngạn”, “Thường ngữ lục nguyên”...
Tuy nhiên, những sách về tục ngữ của thời kì này chủ yếu thiên về sưu tầm, thu thập
các câu tục ngữ, khơng mang tính chất lý luận, nghiên cứu. Thậm chí, ngay cả khái
niệm: “Tục ngữ là gì ?” cũng rất mơ hồ.
Sau khi nước Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949), cơng việc nghiên
cứu và thu thập, chỉnh lý tục ngữ đạt được rất nhiều thành quả và có những bước
phát triển mới. Những chuyên khảo nghiên cứu lí luận về tục ngữ được triển khai
tồn diện. Có thể kể đến “Ngạn ngữ” của Ơn Đoan Chính, “Tục ngữ” của Mã Quốc

4


Phàm, Mã Thúc Tuấn, “Trung Hoa ngạn dao nghiên cứu” của Vũ Chiêm Khôn...
cùng với nhiều bài nghiên cứu chuyên sâu đăng trên các tạp chí khoa học.
Nhìn chung, phạm vi nghiên cứu tục ngữ ngày nay tương đối sâu, rộng. Các
tác giả khơng những chỉ chú ý đến tính chất, nội dung và hình thức của tục ngữ mà
cịn chú ý nghiên cứu phương diện ngữ dụng nữa. Có thể kể đến một số xu hương
nghiên cứu tục ngữ như sau:
- Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ cấu trúc cú pháp:
Các nhà nghiên cứu tập trung chú ý phân tích cấu trúc cú pháp tục ngữ. Tiêu
biểu có: Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn, Vũ Chiêm Khôn. Đồng tình với quan điểm
chung của các nhà Hán học, cho rằng tục ngữ tương đương với đơn vị câu, tác giả
Mã và Vũ đều phân tích tục ngữ theo quan điểm ngữ pháp truyền thống của tiếng
Hán. Theo các nhà nghiên cứu này, cấu trúc cú pháp tục ngữ cũng có các kiểu câu
đơn, câu ghép và một số cấu trúc đặc thù.
- Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghĩa:
Các nhà Hán học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm vững ngữ nghĩa

tục ngữ vì nó liên quan trực tiếp đến việc lí giải và vận dụng tục ngữ một cách chính
xác. Ngồi ra họ cịn đề cập cụ thể đến những vấn đề như: nghĩa mặt chữ và nghĩa
thực tế của tục ngữ; tính đơn nghĩa và tính đa nghĩa của tục ngữ; tục ngữ đồng nghĩa
và tục ngữ phản nghĩa, tiêu biểu có: Ơn Đoan Chính, Từ Tơng Tài. Các tác giả này
cho rằng: Tục ngữ là nghĩa được suy ra trực tiếp từ những từ và quan hệ ngữ pháp
bao hàm trong tục ngữ. Nghĩa thực tế của tục ngữ chỉ nghĩa được sử dụng trong
thực tế của tục ngữ. Có thể thấy rằng, nghĩa mặt chữ hay nghĩa thực tế cũng tương
đương với nghĩa đen hay nghĩa bóng hoặc nghĩa biểu trưng trong tục ngữ Việt. Và
đó cũng là những đặc điểm chung về mặt ngữ nghĩa của tục ngữ nhiều dân tộc.
2.3. Một số cơng trình so sánh tục ngữ Việt Nam và Trung Hoa
Riêng về lĩnh vực so sánh, đối chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ Hán, các cơng
trình nghiên cứu vẫn còn khá khiêm tốn. Việc đối chiếu giữa tục ngữ Hán và tục
ngữ Việt có thể thấy được chủ yếu tập trung ở phần giới thiệu trong một vài cuốn
từ điển tục ngữ Hán - Việt như: “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Hoa - Việt” (Lê Khánh

5


Trường, Lê Việt Anh), “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Hán - Việt” (Nguyễn Bích Hằng,
Trần Thanh Liêm)... Các quyển từ điển này chủ yếu là dịch nghĩa các câu tục ngữ,
thành ngữ từ tiếng Hán sang tiếng Việt, chưa chuyên sâu nghiên cứu kết cấu hình
thức cũng như nội dung của chúng. Vì vậy, với đề tài: Tục ngữ người Việt và tục
ngữ người Hán về văn hóa ứng xử gia đình trong cái nhìn so sánh, chúng tơi góp
phần cơng sức nhỏ bé của mình vào cơng việc nghiên cứu tục ngữ nói chung và
cơng việc đối chiếu so sánh tục ngữ Việt với tục ngữ Hán nói riêng. Luận văn hoàn
thành sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những cơng trình kế tiếp của chúng tôi và
cho những độc giả khác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những câu tục ngữ của người

Việt trong bộ Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập) do tác giả Nguyễn Xuân Kính
chủ biên.
- Tục ngữ tiếng Hán, chúng tôi dùng cuốn Từ điển tục ngữ (tiếng Hán) của
Từ Tông Tài, Ứng Tuấn Linh tổng hợp, với 10.300 câu tục ngữ Hán.
- Văn hóa ứng xử gia đình được thể hiện trong tục ngữ từ góc nhìn so sánh
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ của luận văn, chúng tôi lựa chọn phạm vi nghiên cứu của
luận văn là: Tục ngữ người Việt và tục ngữ người Hán về văn hóa ứng xử gia đình
trong cái nhìn so sánh.
- Thuật ngữ “tục ngữ Việt” mà chúng tôi đề cập đến trong luận văn đồng
nghĩa với “tục ngữ cổ truyền” của người Việt (người Kinh).
- Khái niệm “tục ngữ Hán” trong luận văn tương đương với “tục ngữ cổ
truyền” của người Hán.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Chúng tơi hướng đến việc làm rõ hơn một số vấn đề lý thuyết về tục ngữ
hai nước Việt - Trung, từ đó có những khảo sát, thống kê những câu tục ngữ viết về
chủ đề gia đình.
- Tìm hiểu nội dung của những câu tục ngữ Việt và tục ngữ Hán đúc rút

6


những kinh nghiệm ứng xử của con người trong gia đình.
- Thấy được sự tương đồng và khác biệt của văn hóa ứng xử của người Việt
và người Hán thể hiện qua tục ngữ cũng như các nguyên nhân của sự giống nhau và
khác nhau đó.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên,chúng tơi xác định những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
như sau:

- Khảo sát tục ngữ Việt và tục ngữ Hán để tổng hợp tất cả những câu tục ngữ
viết về văn hóa ứng xử trong gia đình. Từ đó, chúng tơi tiến hành phân loại các câu
tục ngữ trên theo các chủ đề cụ thể.
- Tìm hiểu về cách ứng xử trong gia đình của người Việt và người Hán được
thể hiện qua những câu tục ngữ.
- Chỉ ra được nét đẹp về cách ứng xử trong gia đình của người dân Việt Nam
cũng như người dân Trung Hoa được gửi gắm trong những câu tục ngữ. Đồng thời,
chúng tôi cũng chỉ ra sự giống nhau cũng như nét riêng của cách ứng xử trong gia
đình người Việt Nam và người Trung Hoa. Cũng từ đó, chúng tôi cũng chỉ ra nét
riêng của bức tranh văn hóa cũng như sự giao thoa văn hóa của hai dân tộc được thể
hiện qua tục ngữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành nghiên cứu này, chúng tơi sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu chính sau đây: 1) Phương pháp nghiên cứu liên ngành; (2) Phương pháp
tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa; (3) Phương pháp so sánh văn học. Ngồi ra,
trong q trình thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi cũng sử dụng kết hợp các thao
tác khác như: Phương pháp phân tích tác phẩm, tổng hợp, Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp mơ tả,…
6. Đóng góp của luận văn
- Trong cơng trình của mình, chúng tơi đã chỉ ra một cách có hệ thống và làm
sáng tỏ một số nét cơ bản của sự giống và khác nhau về mặt nội dung và nghệ thuật
thể hiện cách ứng xử trong gia đình qua tục ngữ của người Việt Nam và người Trung
Hoa, đồng thời đã sơ bộ lý giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt đó.

7


Cách tiếp cận của chúng tôi với tư duy bối cảnh là đóng góp của cơng trình nghiên
cứu khi so sánh tục ngữ hai nước được đặt trong nền văn hóa mỗi nước.
- Ngồi việc góp phần khẳng định tính độc lập của mỗi dân tộc, chúng tơi
cịn nhấn mạnh đến cơ sở địa lý, lịch sử, văn hóa, xã hội của mối quan hệ Việt Trung. Do đó, luận văn cũng góp phần giúp cho nhân dân Việt Nam và nhân dân

Trung Hoa hiểu nhau hơn, nhằm góp phần quảng bá nền văn hoá của mỗi nước và
thúc đẩy mối quan hệ láng giềng đặc biệt Việt - Trung ngày càng phát triển.
- Luận văn được bảo vệ thành cơng sẽ đóng góp thiết thực và có ý nghĩa nhất
định cho việc học tập cũng như giảng dạy ngôn ngữ hai dân tộc. Luận văn cũng sẽ
là tài liệu đáng tin cậy cho những người quan tâm, hoặc có thể là cơ sở cho những
bước nghiên cứu tiếp theo
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ TỤC NGỮ.
Chương 2: TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT VỀ VĂN HĨA ỨNG XỬ TRONG
GIA ĐÌNH.
Chương 3: TỤC NGỮ NGƯỜI HÁN VỀ VĂN HĨA ỨNG XỬ TRONG
GIA ĐÌNH.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỤC NGỮ VÀ VĂN HÓA
1.1. Khái quát chung về tục ngữ
1.1.1. Khái niệm tục ngữ
1.1.1.1. Tục ngữ theo quan điểm của người Việt
Từ trước đến nay, ở Việt Nam trong khoa học nghiên cứu về tục ngữ có rất
nhiều định nghĩa về thể loại này:
Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của
nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ
truyền đạt, thường gieo vần lưng. Nội dung tục ngữ thường phản ánh những kinh
nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể
hiện triết lý dân gian của dân tộc.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và

đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn
học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra từ tác phẩm văn học bằng con đường dân
gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngồi. Giữa hình thức và
nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa
đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái qt hóa những nhận xét cụ
thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ
ngơn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ...
Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt
nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngơn ngữ thơ ca...
Sự hịa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ.
Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đốn, nhưng
cũng có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ
tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.
Nguyễn Văn Tố trong Tục ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây: Tục
ngữ là câu nói quen trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm thúy, ý tứ sâu xa.

9


Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu: Một câu tục ngữ tự nó
phải có ý nghĩa, hoặc khun răn, hoặc chỉ bảo điều gì, cịn thành ngữ chỉ là lời nói
có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý, một trạng thái gì cho có màu mè [9, 27].
Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ ca dao dân ca: Tục ngữ là một câu tự nó diễn
đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một ln lý, một cơng lý, có khi
là một sự phê phán. Thành ngữ là một bộ phận câu có sẵn mà nhiều người quen
dùng nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn.
Tác giả Vũ Ngọc Phan trong cơng trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, năm
1985 đã định nghĩa: "Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn ven một ý, một nhận xét,
một kinh nghiệm, một lý luận một công lý, có khi là một phê phán" [11, 27].

Trong bài viết Đạo lý trong tục ngữ đăng trên tạp chí Văn học, số 5 năm
1985, Nguyễn Đức Dân đã quan niệm: "Tục ngữ là những câu nói ổn định về cấu
trúc, phản ánh những tri thức kinh nghiệm và quan niệm (dân gian) của một dân tộc
về thế giới khách quan, tự nhiên cũng như xã hội" [3, 58 ].
Tác giả Hồng Tiến Tựu trong cơng trình Văn học dân gian Việt Nam , tập
2 năm 1990 cho rằng "Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh
nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét, phán đoán, lời khuyên răn của nhân dân
dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, giản dị, xúc tích, có nhịp điệu dễ nhớ, dễ
truyền'' [25, 109].
Theo Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn trong Văn học dân
gian Việt Nam do nhà xuất Nxb Giáo dục phát hành năm 1998 thì: "Tục ngữ là
những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo nên
và lưu truyền qua nhiều thế kỷ" [10, 244].
Qua cách định nghĩa của các nhà nghiên cứu, ta có thể khái quát ngắn gọn về
tục ngữ: Tục ngữ là đơn vị ngơn ngữ, có chức năng thơng báo, có khả năng tạo câu
một cách độc lập dưới dạng lời nói, hình thức của chúng tương đối ổn định, có ý
nghĩa khái quát cao, do nhân dân lao động sáng tạo nên và lưu truyền qua nhiều thế
kỷ.
Tục ngữ là tấm gương phản chiếu mọi biểu hiện của đời sống dân tộc, mọi
quan niệm về đới sống nhân dân về các hiện tượng lịch sử xã hội về đạo đức, tôn

10


giáo. Nó là một thể loại văn học ra đời từ rất sớm, có số lượng phong phú và sức
sống bền lâu trong lòng dân tộc.
Trong đời sống và tư duy, tục ngữ giúp con người có những kinh nghiệm về
cách nhìn nhận, bình giá, ứng xử thực hành về mọi phương diện của cuộc sống.
Trong ngôn ngữ, tục ngữ làm đẹp, làm sâu sắc thêm lời nói, giúp mọi người diễn
đạt cả những điều khó diễn đạt hoặc khơng tiện nói ra trực tiếp một cách hàm súc,

bóng bẩy hơn.
Do đó tục ngữ là một di sản hết sức quý báu cần được lưu truyền và gìn giữ.
Là sự đúc kết trí tuệ và tâm hồn nhân dân lao động, vì vậy những câu tục ngữ khơng
chỉ là một phán đốn, một triết lý mà nó cịn là một văn bản nghệ thuật có giá trị.
Tục ngữ được ví như "túi khơn nhân gian","kho báu của trí tuệ nhân dân".
1.1.1.2. Tục ngữ theo quan điểm của người Hán
Trong giới nghiên cứu tục ngữ Hán, cũng như trong giới nghiên cứu tục ngữ
tiếng Việt, các nhà Hán học cũng chưa có được một định nghĩa thống nhất, rõ ràng
và cặn kẽ về tục ngữ. Học giả Ơn Đoan Chính đã thừa nhận: “确定什么是俗语,
固然是个难题;怎样解释俗语,却是一个更难的课题”(Xác định thế nào là tục
ngữ, đương nhiên là một vấn đề khó; Giải thích tục ngữ như thế nào, lại là một vấn
đề cịn khó hơn) [43, 47]. Thậm chí, ngay cả tên gọi cũng chưa có sự thống nhất,
ngoài thuật ngữ tục ngữ, hàng loạt thuật ngữ như: thường là ngắn gọn, có hình ảnh,
giàu tính ẩn dụ và phần lớn có vần điệu, có tính thơ (poetic).” Có thể định nghĩa này
chưa phải là hồn hảo nhưng nó thường được trích dẫn và được coi là một trong
những định nghĩa tốt nhất bởi nó đã thể hiện được những thuộc tính cơ bản và điển
hình cả về hình thức và nội dung của tục ngữ.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về cách hiểu khái niệm tục ngữ trong giới nghiên
cứu tiếng Hán, dưới đây chúng tơi sẽ trình bày một số quan niệm về tục ngữ trong
một số từ điển lớn của Trung Quốc và của một số học giả nghiên cứu ngôn ngữ nổi
tiếng của Trung Quốc.
(1) 俗语是: “约定俗成、广泛流行的定型语句” (Tục ngữ là những ngữ cú
định hình, được lưu truyền rộng rãi, hình thành bởi thói quen của quần chúng từ lâu
đời) [44, 47].

11


2)俗语就有以下三个特点:
1、具有群众性。俗语绝大多数是人民群众创造的,说不出具体的作者。

俗语既然是群众所创造的,自然为群众所喜闻乐见。
2、具有鲜明的口语性和通俗性。 俗语是通过群众世代口耳相传而流
传开的,所以口语性很强,总离不开一个“俗” 字。
3、具有相对的定型性。俗语不能是长篇,而是简明凝练的;也不是自
由组合的语句,而是约定俗成,具有定型性的特点。但俗语在结构上又有很
大的灵活性,同一个俗语可以有很多变体,有的可以调换部分词语,改变说
法;有的可以增加一部分,有的可以颠倒语序。所以俗语的定型性只能是相
对的,不是绝对的。
(Tục ngữ có ba đặc điểm sau:
1. Vốn có tính quần chúng. Đại đa số tục ngữ là do quần chúng nhân dân sáng
tạo ra, khơng có tác giả cụ thể. Tục ngữ do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, đương
nhiên được quần chúng thích nghe, thích nói.
2. Vốn có tính khẩu ngữ và tính đại chúng một cách rõ ràng. Tục ngữ được
lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác qua lời ăn tiếng nói của quần chúng
cho nên tính khẩu ngữ của nó rất mạnh, khơng thể tách rời chữ “tục”.
3. Vốn có tính định hình tương đối. Tục ngữ khơng thể là trường thiên (đoạn
văn dài), mà là những câu ngắn gọn súc tích; cũng khơng phải là những ngữ cú được
tạo ra một cách tự do, mà được hình thành do thói quen của quần chúng từ lâu đời,
có đặc điểm định hình. Về mặt kết cấu, tục ngữ lại có tính linh hoạt rất lớn, cùng
một tục ngữ có thể có rất nhiều biến thể, có tục ngữ có thể thay đổi từng bộ phận
tục ngữ, thay đổi cách nói; có tục ngữ lại có thể tăng thêm một bộ phận, có tục ngữ
lại có thể thay đổi trật tự từ. Cho nên tính định hình của tục ngữ chỉ là tương đối,
không phải tuyệt đối.) [44, 12].
3)什么是俗语:只要是语言通俗,反映出人民的心愿,记录了社会生
活和人生经验,这些话早已被群众广泛使用,道理深刻,意思新鲜,说得形
象生动简炼透辟,这样的语句一般是既定型而又灵活的,人们把它叫做俗语,
俗话,老俗话,大俗话。
12



(Tục ngữ là gì: chỉ cần ngơn ngữ thơng tục, phản ánh được tâm nguyện của
nhân dân, ghi lại được cuộc sống xã hội và kinh nghiệm nhân sinh, những lời này
được dân chúng sử dụng rộng rãi từ lâu đời, đạo lí sâu sắc, ý tứ rõ ràng, lời nói có
hình tượng, sinh động, ngắn gọn súc tích, những câu nói như vậy nói chung vừa
định hình vừa linh hoạt, mọi người gọi đó là tục ngữ, tục thoại, lão tục thoại, đại tục
thoại) [43, 31].
Tục ngữ quả là một loại hình độc đáo về cấu trúc cũng như ngữ nghĩa trong
ngơn ngữ, chính vì lẽ đó định nghĩa khái quát về tục ngữ cho thật đầy đủ, hoàn chỉnh
mọi mặt không phải là chuyện đơn giản. Những định nghĩa về tục ngữ của các nhà
Việt ngữ cũng như Hán ngữ nêu ở trên tuy có những nội dung cơ bản như nhau
nhưng mỗi định nghĩa còn mang thêm nét riêng biệt cho dù là rất nhỏ. Việc tìm ra
một định nghĩa phản ánh đầy đủ những thuộc tính cơ bản của khái niệm là công việc
không dễ, cần thời gian, và sự góp sức của nhiều người. Để đáp ứng nhiệm vụ mà
luận văn đặt ra, chúng tôi xác lập một định nghĩa tạm thời làm cơ sở để khảo sát,
nghiên cứu như sau: “Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh
đúc kết kinh nghiệm, tri thức dân gian của một dân tộc về thế giới khách quan, tự
nhiên cũng như xã hội, có tính cố định tương đối, chủ yếu do quần chúng nhân dân
sáng tác”.
1.1.2. Khái quát nội dung, nghệ thuật của tục ngữ
1.1.2.1.Khái quát về nội dung:
a. Tục ngữ Việt:
Tục ngữ phản ánh những nhận định, quan niệm của nhân dân về lao động về
các hiện tượng lịch sử xã hội, về tư tưởng, đạo đức, các hiện tượng tự nhiên, kinh
nghiệm sản xuất...
- Phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất:
Tục ngữ về lao động sản xuất phản ánh một số nét chính điều kiện và phương
thức lao động của nhân dân, phản ánh đặc điểm đời sống dân tộc. Những kinh nghiệm
về lao động sản xuất được đúc kết trong quá trình khắc phục thiên nhiên của nhân
dân lao động phổ biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học kỹ thuật dân gian. Ví dụ


13


như những kinh nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết khí hậu: Mây thành vừa
hanh vừa giá; Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa... Trong quá trình lao động
sản xuất ở các ngành nghề nông nghiệp, ngư nghiệp, một số nghề thủ công lâu đời,
nhân dân cũng đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm. Trong đó, những kinh nghiệm
về làm ruộng chiếm đa số: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống; Chim cập cợi,
mùa đợi nhau... Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo của nhân
dân trong lao động và chủ yếu là kinh nghiệm thực tiễn.
- Ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội:
Tục ngữ nói về các hiện tượng lịch sử xã hội là bộ phận chủ yếu, phản ánh
những tập quán, thị hiếu, sự đấu tranh của nhân dân, những ký ức về thời kỳ lịch sử
xa xưa của dân tộc... : Ăn lông ở lỗ; Năm cha ba mẹ... Một số hiện tượng lịch sử:
Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi; Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.... Bên cạnh
đó, tục ngữ Việt Nam còn phản ánh những đặc điểm sinh hoạt gia đình và xã hội,
sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân trong thời phong kiến: Dưa La, cà Láng,
nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Ðầm Sét; Lấy vợ đàn bà, làm nhà
hướng Nam; Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu trở về
hội Dóng.... Những nét sinh hoạt của nơng thơn Việt Nam: Phép vua thua lệ làng;
Ðất có lề, quê có thói; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp... Phản ánh tổ
chức gia đình và những quan điểm thân tộc của nhân dân: Một ngưòi làm quan cả
họ được nhờ; Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì... Phản ánh đời sống người lao động
và những quan hệ xã hội trong xã hội phong kiến: Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm; Cá
lớn nuốt cá bé...
- Thể hiện triết lý dân gian của dân tộc:
Tục ngữ thể hiện chủ nghĩa nhân đạo chân chính của nhân dân lao động. Tư
tưởng này biểu hiện trước hết ở những quan niệm về con người: Một mặt người hơn
mười mặt của; Người sống của còn, người chết của hết... Biểu hiện ở thái độ, đánh
giá về lao động, cách xét đoán con người qua lao động: Tay làm hàm nhai, tay quai

miệng trễ; Của một đồng, công một nén... Tục ngữ thể hiện lòng tự hào, ngợi ca đất
nước giàu đẹp, con người tài hoa: Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến; Ăn Bắc, mặc
Kinh; Trai Cầu Vồng, Yên Thế, gái Nội Duệ, Cầu Lim... câu tục ngữ thể hiện tinh

14


thần đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột: Muốn nói oan, làm
quan mà nói; Ðược làm vua, thua làm giặc... Tục ngữ phản ánh khá phong phú
những đức tính của nhân dân lao động, thể hiện truyền thống tư tưởng, đạo đức của
nhân dân thông qua những nhận xét, suy ngẫm rất sâu sắc về hiện thực: Chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo; Có cơng mài sắt có ngày nên kim; Ðói cho sạch, rách cho
thơm... Nhân dân còn đề cập đến những biểu hiện khác: Ðèn nhà ai nấy sáng; Giàu
đổi bạn, sang đổi vợ; Giàu trọng, khó khinh...Tục ngữ là những kinh nghiệm của
nhân dân trong đời sống thục tiễn, song, nhiều tục ngữ phản ánh những nhận thức
triết học thô sơ có tính chất duy vật tự phát: Thầy bói nói dựa; Có bột mới gột nên
hồ; Cái sẩy nẩy cái ung...
b, Tục ngữ Hán
Cũng giống như tục ngữ của người Việt, tục ngữ của người Hán cũng phản
ánh rất đầy đủ những sinh hoạt đời sống, những phong tục tập quán... của con người
trong xã hội Trung Hoa. Cụ thể:
- Tục ngữ phản ánh về kinh nghiệm sản xuất
Khởi nguồn của nền kinh tế Trung Hoa chính là làm nơng nghiệp và người
dân Trung Hoa cũng rất thành thục với những cơng việc đồng áng với việc trồng
trọt làm chính. Vì vậy, người dân Hán cũng đúc rút được những kinh nghiệm quý
báu của việc làm nông gắn với các mốc thời gian trong năm. Tục ngữ Hán cũng ghi
lại rất cụ thể những kinh nghiệm này, chẳng hạn: 谷雨前后, 裁瓜种豆(cốc vũ tiền
hậu, tài qua chủng đậu): có nghĩa: Trước và sau tiết Cốc vũ là thời gian tốt cho việc
thu hoạch dưa và trồng đậu (Cốc vũ là một trong hai mươi bốn tiết khí, là khoảng
thời gian giữa tháng Tư); 过了清明节, 插秧不停歇 (Quá liễu Thanh minh tiết, tháp

ương bất đình yết), có nghĩa: Qua tiết Thanh minh, cấy mạ không ngừng nghỉ (Tiết
Thanh minh là một trong hai mươi bốn tiết khí, là khoảng thời gian đầu tháng Tư.
Qua tiết Thanh mình là vào vụ cấy trồng)
- Tục ngữ phản ánh về hiện tượng thời tiết
Cũng là một đất nước nông nghiệp, người Hán cũng rất chú trọng quan sát
các hiện tượng tự nhiên bởi các hiện tượng đó có ảnh hưởng lớn đến mùa màng, để

15


từ đó có sự chuẩn bị cần thiết đối phó với những biến đổi của thời tiết. Ví dụ: 蚯蚓
滚路天将雨 (khâu dẫn cổn lộ thiên tương vũ): có nghĩa: Giun đất bò ra đường là
trời sắp mưa. Người Hán chia thời tiết trong một năm thành hai mươi bốn tiết, ứng
với các mùa để từ đó thuận lợi cho việc gieo trồng theo mùa vụ. Một trong các tiết
đó là tiết Hạ Chí, cũng nói đến hiện tượng tự nhiên: 夏至东风飘, 麦子顺水捞 (hạ
chí đơng phong phiêu, thê tử thuận thủy lao): có nghĩa: Hạ chí có gió đơng, sẽ với
lúa mạch dưới nước. (Hạ chí cũng là một trong hai mươi bốn tiết khí vào khoảng
ngày hai mươi mốt, hai mươi hai tháng Sáu. Nếu vào ngày hạ chí có gió Đơng thổi
thì năm đó sẽ mưa nhiều, mùa màng của người dân sẽ gặp bất lợi. Người dân từ các
hiện tượng tự nhiên thường thấy theo kinh nghiệm mà có sự chuẩn bị trước để phịng
chống lại thiên tai do thiên nhiên gây ra.
- Tục ngữ phản ánh triết lý nhân văn
Cũng giống như tục ngữ của người Việt, tục ngữ của người Hán cịn có nội
dung nói về truyền thống văn hóa dân tộc với những triết lý sống rất chân thực, sống
động và mang nhiều ý nghĩa. Ví dụ: 百艺通, 不如一艺精 (bách nghệ thơng, bất
như nhất nghệ tinh), có nghĩa: Biết trăm nghề khơng bằng giỏi một nghề. Câu tục
ngữ giúp người đọc liên tưởng tới câu: Một nghề thì sống đống nghề thì chết, của
người Việt. Câu tục ngữ đã cho thấy sự tương đồng trong lối suy nghĩ của người
dân hai nước với hai nền văn hóa khác nhau nhưng có sự giao thoa văn hóa. Câu
tục ngữ sau cũng có hiện tượng trùng lặp ý như vậy: 良药苦口利于病, 忠言逆耳

利于行 (lương dược khổ khẩu lợi vu bệnh, trung ngơn nghịch nhĩn lợi vu hành), có
nghĩa: Thuốc đắng miệng có lợi cho bệnh, lời nói thẳng khó lọt tai có lợi cho hành
động (Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng). Người Hán cũng rất coi trọng việc học
hành của con cái, chính điều này cũng được tục ngữ của người Hán ghi lại: 家有黄
金用斗量, 不如送子到学堂 (gia hữu hoàng kim dùng đấu lượng, bất như tống tử
đáo học đường), có nghĩa: Nhà có nhiều vàng dùng đấu đong, không bằng gửi con
đến chốn học đường.
Tục ngữ của người Hán còn chỉ ra những triết lý sống mà không phải ai trong
chúng ta ngày nay cũng nghĩ được và làm được: 赐子千金, 不如教子一艺 (tứ tử
16


thiên cân, bất như giáo tử nhất nghệ), có nghĩa: Cho con nghìn vàng, khơng bằng
dạy con một nghề; 生命在于运动 (sinh mệnh tại vu vận động), có nghĩa: cuộc sống
chính là sự vận động; 与其有病求医, 不如无病早防 (dữ kỳ hữu bệnh cầu y, bất
như vơ bệnh tảo phịng), có nghĩa: Đến khi có bệnh cầu cứu thầy thuốc, khơng bằng
chưa có bệnh mà sớm có đề phịng. Những tri thức này vẫn còn giá trị cho đến tận
ngày nay và đường như đã trở thành chân lý của cuộc sống.
- Đặc sản nổi tiếng của từng địa phương
Tục ngữ Hán cũng cịn nói đến những đặc sản của nhiều địa phương gắn với
những đặc sản nối tiếng. Chẳng hạn: 东北三件宝,人参、貂皮、鹿茸角 (Đông Bắc
tam kiện bảo: nhân sâm, báo bì, lộc nhung giác): có nghĩa: Vùng Đơng Bắc có ba
loại bảo vật: nhân sâm, da báo, nhung hươu. 生在苏州,穿在杭州,吃在广州,
死在柳州 (sinh tại Tô Châu, xuyên tại Hàng Châu, ngật tại Quảng Châu, tử tại Liễu
Châu), có nghĩa: sinh ra ở Tơ Châu, mặc tại Hàng Châu, ăn tại Quảng Châu, chết
tại Liễu Châu. Người dân Trung Hoa đều biết rằng, Tô Châu là nơi khơng chỉ có
phong cảnh và con người nổi tiếng xinh đẹp mà người dân nơi đây còn nổi tiếng tài
hoa, uyên bác, học thức hơn người; Hàng Châu là thành phố nổi tiếng về hàng lụa,
sản phẩm may mặc; Quảng Châu là nơi giao lưu của nhiều nền văn hóa ẩm thực nên
đồ ăn vô cùng phong phú; Liễu Châu là thành phố nổi tiếng với nhiều loại gỗ tốt,

người chết cũng chọn gỗ tốt để đóng quan tài. Vì vậy, người dân Trung Hoa thường
truyền tụng nhau về những nơi đó, và ngày nay vẫn vậy, ví dụ như lụa Hàng Châu
vẫn nổi tiếng khơng ngừng. Hay, khi nói về thành Lạc Dương người dân có câu: 洛
阳牡丹甲天下 (Lạc Dương mẫu đơn giáp thiên hạ), có nghĩa: Hoa mẫu đơn ở Lạc
Dương đẹp nhất thiên hạ. Người ta cũng còn biết đến Sài Câu Bảo với câu tục ngữ:
柴沟堡的熏肉, 沙城的酒, 涮羊肉好不过张家口 (Sài Câu Bảo đích hun nhục, Sa
Thành đích tửu, loát dương nhục hảo bất quá Trương Gia Khẩu), có nghĩa: Thịt hun
khói ngon nhất là ở Sài Câu Bảo, rượu ngon nhất là ở Sa Thành, thịt dê tái ngon
nhất là ở Trương Gia Khẩu.

17


1.1.2.2. Khái quát về nghệ thuật:
a, Tục ngữ Việt:
Những đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ biểu hiện một cách tập trung những
đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam.
- Nội dung và hình thức của tục ngữ có mối quan hệ chặt chẽ:
Giữa hình thức và nội dung tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, ở tục ngữ là hình
thức nội dung. Tính chất bền vững của tục ngữ biểu hiện cả về mặt nội dung lẫn
hình thức. Tục ngữ có tính đa nghĩa: Một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa
đen và nghĩa bóng. Ví dụ:
+ Tre già, măng mọc: Nghĩa đen: khi cây tre già đi, sẽ có cây măng non mọc
lên kế tiếp; nghĩa bóng: chỉ con người, thế hệ này già đi sẽ có thế hệ kế cận tiếp sau.
+ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng: nghĩa đen: tất cả những gì để gần mực
thì đều bị màu của mực lấn sang và đều có mùa đen, ngược lại: để gần đèn thì ánh
sáng của đèn làm cho mọi vật đều sáng; nghĩa bóng: chơi với người xấu sẽ xấu theo,
chơi với người tốt sẽ tốt lên ...
- Tính hình tượng:
Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái qt hóa những nhận xét cụ thể thành

những phương châm, chân lý, xu hướng này thể hiện bằng ngôn từ đều qua lối tư
duy hình tượng, lối nói hình tượng và được cụ thể hóa qua các biện pháp so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ ... Ví dụ: Kẻ cắp gặp bà già; Ăn mày đánh đổ cầu ao; Người sống
đống vàng; Ðũa mốc mà chịi mâm son; Thuận vợ thuận chồng, tát biển đơng cũng
cạn...
- Vần điệu và sự hòa đối:
Ða số tục ngữ đều có vần. Gồm 2 loại: vần liền và vần cách.
+ Con lên ba cả nhà học nói.
+ Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm.
Nhịp điệu là yếu tố quan trọng trong tục ngữ. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố
vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca ...
+ Ðường đi hay tối, nói dối hay cùng

18


×