Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

CÁC VỊ CHỦ TƯỚNG TRẬN BẠCH ĐẰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.04 KB, 7 trang )

CÁC VỊ CHỦ TƯỚNG TRẬN BẠCH ĐẰNG
VÕ MINH TẬP*
Đất nước Đại Việt thời trung cổ là quê hương của những dòng sông. Có một dòng
sông Đại Việt mang hi vọng lịch sử là Bạch Đằng Giang. Bởi chỉ cũng ba lần hào hùng
trong những trang sử vẻ vang của dân tộc đến đỗi về sau. Mỗi con sông đều cuốn hóa Bạch
Đằng. Đó mãi là tứ thơ ngợi ca dòng sông hiền quí này. Nguyễn Trãi xưa chắc đã nghiền
ngẫm rất nhiều để tìm ra được câu và chữ ách để nói rằng Bạch Đằng là dòng sông quang
hà, dòng sông của cửa ải và cửa ngõ của đất nước, là nơi thiêng nhiệm, có cái lợi hại của
trời…và khẳng định là hào kiệt công danh thử địa tầng. Các bật hào kiệt xưa, chính đã từ
chỗ này, dòng sông này đã lập công và nên danh, là các vị chủ tướng của ba trận Bạch
Đằng. Đó là Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo.
Ngô Quyền vị chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ nhất:
Trận Bạch Đằng lần thứ nhất (năm 938) của chủ tướng Ngô Quyền, không chỉ là
chiến thắng nhanh nhất chỉ trong một ngày mà còn là mẫu mực của sự khai phá cách đánh
và thắng giặc độc đáo của Việt Nam từ ngàn xưa. Khi chọn dòng quang hà Bạch Đằng để
chỉ một trận đánh giải quyết thắng lợi cả một cuộc kháng chiến. Ngô Quyền là người đầu
tiên quyết định dùng phương thức gây chiến trực diện đánh đầu phủ đầu, đánh giặc ngay
sau khi chúng kéo vào cửa ngõ của non sông.
Khí thế là như vậy, về thực lực, Ngô Quyền là chủ tướng còn biết mình , biết người
khi thấy rằng quân giặc mạnh hơn ta rất nhiều, vì vậy ông biết khai thác caí thiêng liêng
của dòng sông rồi sẽ đi vào lịch sử để dùng kế thiên thời và địa lợi của non sông, đất nước
mà tăng lực cho nhân hòa của đạo quân kháng chiến mà mình đứng đầu. Đây chính là tài
năng quân sự của một bật chủ tướng. Từ đây mà tìm ra sự lợi hại của thủy chế dòng quang
hà Bạch Đằng. Lần đầu tiên đưa thủy triều vào thành một nhân tố, một lực lượng thủy
chiến của trận đánh. Đây là sự sáng tạo đầu tiên mà lịch sử vàng son của dân tộc đã ghi
công lao cho Ngô Quyền.
Đến như lại nghĩ ra cách cây tre, cây cọc bọc sắc nhọn mà tung hứng cùng thủy
triều biến dòng sông thành những chiến bẩy nhân tạo khổng lồ, biến những cây chông cổ
truyền của dân tộc, phóng đại thành một trận địa cọc. Đây chính là sự thiên tài quân sự của
một vị chủ tướng và tất cả những điều hiếu chí sáng tạo như thế đã đúc kết thành ngôn từ
một thời được chép vào chính sử, thành lời tổng kết chiến tranh đầu tiên của Ngô Quyền:


“Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vót nhọn đầu và
bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong àng cọc, bấy giờ ta
sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hơn kế này cả”.
Việc đưa những lời độc ngôn như thế này muốn thuộc về sự mưu trí, tính toán của
trận đại chiến rồi thiên biến, thuận hóa, điều binh khiển tướng mà chính xác đến từng chi
tiết. và phút chót trong thực hành chiến tranh, khi ấy là những ưu việc tài năng quân sự của
Ngô Quyền.
----------------------------------------
* Sinh viên khoa sử (K31), Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh
Vào cuối mùa thu năm 938, đoàn chiến thuyền của đại quân xâm lược nhà Nam
Hán đích thân do Hoàng thái tử Lưu Hoằng Tháo rất hung hăng trong ý đồ chiến tranh
nhưng vẫn chần chừ, thận trọng khi mới kéo binh đến cửa ngõ quang hà Bạch Đằng của
nước Việt,. Bấy giờ vẫn là lúc triều cường, những cây chông khổng lồ và về sau được gọi
là những chiếc cọc Bạch Đằng lợi hại vẫn chỉa mũi nhọn vào thế chờ giặc chìm sông
nước, vùng của sông phải làm sao như cho giặc tiến sâu vào bãi chông của sông Bạch
Đằng trước khi thủy triều xuống. Đây chính là sự tài tình của trận chiến thành công.
Tiếp theo là làm sao phải đánh chặn, đánh được quân giặc tháo chạy ngược ra cửa
sông vừa đến lúc thủy triều xuống. Những chiếc cọc Bạch Đằng lợi hại đã đội nước mà
nhô lên chặng đứng, đâm nát chiến hạm của quân địch, hổ trợ đắc lực cho các cánh quân
tiêu diệt sạch ở nơi quang hà Bạch Đằng Giang ấy, toàn bộ quân xâm lược bị giết tại trận
và đại chỉ huy Hoằng Tháo. Trận Bạch Đằng lần thứ nhất của vị chủ tướng thiên tài Ngô
Quyền mãi mãi xứng đáng ngợi ca hào hùng của chính sử Đại Việt sử kí toàn thư:
“Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm
vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương làm cho người phương Bắc
không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà
đánh cũng giỏi vậy” (Lê Văn Hưu).
Và không chỉ sử thần Ngô Sĩ Liên, ở thế kỉ XV mà cả Ngô Thì Sĩ sử thần ở thế kỉ
XVIII nữa:
“ Trận thắng lớn trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc
thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào cái uy danh lẫm

liệt ấy để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há
phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi”(Việt sử tiêu án).
Vang vọng đến ngàn thu, không chỉ một thời mà mãi mãi chiến công và nhân thân
của lịch sử đánh trận Bạch Đằng lần thứ nhất của tướng Ngô Quyền, về những sáng tạo
thần kì đầu tiên, về hậu quả mở ra của một trong những chiến thắng lớn của cửa khẩu
Trung Nguyên lần thứ nhất…Tất cả đều từ trận đánh và trận thắng đầu tiên trên sông, từ
đây trở thành dòng sông lịch sử. Từ đây trở thành dòng sông mà tất cả các con sông của
nước Việt đều nhóm lại hàng trăm và hàng trăm năm sau vẫn còn sống mãi bao thế hệ công
dân nước Việt ở khắp mọi nơi.
Lê Hoàn vị chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ hai:
Chủ tướng của trận Bạch Đằng lần hai diễn ra sau trận Bạch Đằng lần thứ nhất chỉ
43 năm là quan thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Vị Hoàng đế mang cương vị Thiên Phúc Lê
Đại Hành. Lên ngôi hoàng đế ở kinh đô Hoa Lư mùa thu năm 980, đến mùa xuân năm sau,
anh hùng dân tộc Lê Hoàn đã lập chiến công Bạch Đằng, lập nên đại võ công trở thành chủ
tướng của trận Bạch Đằng lần thứ hai. Trước Đây chưa đầy năm, những biến cố của kinh
đô Hoa Lư vào mùa đông năm 979, khi Đinh Tiên Hoàng bị giết hại bởi kẻ ngu thần Đỗ
Thích “ tham vọng nuốt cả sao trời”, đa dẫn đường xâm lược lên tham vọng hơn nữa của
Vưong triều nhà Tống nhằm vào nước Đại Việt từ thời năm 980.
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy Dương Thái Hậu đã sáng suốt công bằng theo ý
nguyện của các tướng sĩ là cần phải có một người cầm đầu xứng đáng trước lúc họ ra trận
sống mãi với quân thù. Được trao ngôi từ nước Đại Cồ Việt từ dòng họ nhà Đinh cho Lê
Hoàn. cũng là người mang trọng trách , sư mệnh đứng đầu của cuộc kháng chiến giữ nước
của vị tướng dẹp loạn 12 sứ quân hơn 10 năm trước đây.Vị tướng tài họ Lê trở thành vị
hoàng đế nước Việt và trở thành chủ tướng của trân Bạch Đằng lần hai cũng trong tình thế
ấy:
“Người có theo về không?Chớ rước lấy tội lỗi. Ta đang chuẩn bị xe ngựa quân
lính, sắp sửa các thứ chiêng trống, nếu quy phục thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta
quyết đánh. Theo hay không, lành hay giữ, tự ngươi nghĩ lấy”
Mặc kệ cho lời răng đe của nhà Tống, Lê Hoàn và quân lính không hề nao núng,
dân nước Đại Cồ Việt một lần vào trận đánh giữ nước. Bấy giờ mùa đông năm 980, các

cánh quân của Tống chia nhiều đường, nhiều ngã mà tiến vào đất Việt. Những kẻ chủ mưu
đứng đầu là Hầu Nhân Bảo theo dòng quang hà Bạch Đằng mà tiến quân.
Tấm bảng đồ chiến sự cuối mùa đông đầu mùa xuân những năm 980-981 của thế
kỉ X cho thấy vị trí đặt cả bản doanh của vị Hoàng đế Đại cồ Việt khoảng cách khi ấy
chính là nhằm giương gươm múa võ với cánh quân thủy lực của giặc. Và từ đấy, ý đồ giữ
nước của Lê Hoàn rõ ràng muốn đánh quân giặc hung hăn của tướng Hầu Nhân Bảo. Nay
trên Bạch Đằng giang lịch sử nhưng không thể lặp lại kinh nghiệm và bài học của trận
Bạch Đằng giang lần thứ nhất do Ngô Quyền làm chủ tướng trước kia. Mà trận đánh trên
sông Bạch Đằng lần này là thiên biến, vạn hóa. Từ mưu lược và cách đánh giặc của nước
Việt nghìn xưa, một lần nữa được Lê Hoàn làm sôi động trên chiến trường Bạch Đằng
giang thiêng liêng.
Trước tiên là những trận đánh cầm cự kéo dài để kìm giam chân giặc, vừa làm nản
lòng chúng.
Những chiếc cọc Bạch Đằng được dựng lại nhưng không phải để phá giặc mà lại
ngăn giặc. Như lời chép của sách Đại Nam nhất thống chí rằng “ Năm thiên phúc thứ hai
tức là năm Dương lịch 981 bọn tướng là Hầu Nhân Bảo sang xâm lược sông Bạch Đằng.
Lê Hoàn sai sĩ tốt đóng cọc ngăn sông” . Chỉ ngăn sông mà kết cục lại là bắt được Hầu
Nhân Bảo đem giết chết như lời chính sử trong kho sách đồ sộ của phương Bắc…
Đã bằng câu viết nguyên văn sau đây cho thấy hiệu quả của một cách dùng binh “
Đại tướng Lê Hoàn khôn khéo vận dụng trên sông Bạch Đằng năm 981. Tại sông Bạch
Đằng lấy kế trá hàng mà làm tướng Hầu Nhân Bảo mắc mưu và bị giết hại. Đây là chủ
tướng Lê Hoàn của trận Bạch Đằng lần thứ hai bằng mưư trí dùng binh đánh giặc đã đạt
được mục tiêu chiến lược của mình là tiêu diệt kẻ cầm đầu bộ máy xâm lược của tống
triều”.
Nhà sử học Lê Văn Lan nhận định: “ Ở trận Bạch Đằng năm 981 này thì Lê Hoàn
với tư cách là chủ Soái, đã tiến hành cuộc kháng chiến, cuộc chiến tranh rất khác với cuộc
kháng chiến trên sông Bạch Đằng lần trước và sau đó. Bởi vì lúc này các cánh quân thủy
bộ đã vào sâu trong đất liền, cho đến trước khi Lê Hoàn dùng sức cầm cự trên sông Bạch
Đằng lịch sử này rồi sau đó mới dẫn, dụ dỗ địch và kể cả thủ pháp được dùng là trá hàng
để rồi giết được chủ tướng của giặc là Hầu Nhân Bảo trên sông Bạch Đằng lịch sử. Sau

đó lại triển khai tiếp một loạt trận đánh trong đó có trận đánh lớn ở Tứ Kết, kết thúc cuộc
chiến chống xâm lược hết sức là vẽ vang”.
Kết thúc giải phóng oanh liệt. cuộc kháng chiến chống Tống với anh hùng dân tộc
Lê Hoàn được nên công và thành danh ở chiến trường sông Bạch Đằng. Vị chủ tướng trận
Bạch Đằng lần thứ hai cũng hệt như chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ nhất, giương cao
ngọn cờ chiến thắng, ca khúc khải hoàng trở về kinh đô Cổ Loa-Hoa Lư. Cởi tấm chiến
bào, võ tướng khoát lại tấm hoàng bào, nhà vua ngồi vững trên ngai vàng quân chủ. Hoàng
đế Thiên Phúc Lê Hoàn ngời sáng tài năng thao lược với những chiến công trên sông Bạch
Đằng lần thứ hai. Vì thế mà sống mãi trong bảng vàng bia đá, đền đài, lễ hội, sống mãi
trong lòng nhân dân của bao thế hệ khắp nơi, mãi mãi được tôn vinh và kính thờ.
Trần Hưng Đạo- vị chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ ba:
Trần Hưng Đạo là người có đức –tài, về nhân cách ông đặt mối thù chung lên mối
thù riêng. Ông tập trung vào việc chống ngoại xâm là chính, đối với Trần Cảnh, Trần
Chung thì ông vẫn giữ đoàn kết. Vua tôi đồng lòng, cả nước ra sức. Đó là yêu cầu chiến
lược, là bài học lớn của chúng dân được Trần Hưng Đạo rút ta từ ba lần chống Nguyên –
Mông xâm lược. Từ vai trò của vị tướng quân thời Trần trẻ tuổi, cuộc kháng chiến lần thứ
nhất đến cương vị của một vị Quốc công thiết chế, đứng đầu sự nghiệp quân sự của toàn
bộ quân dân Đại Việt. Ở cuộc kháng chiến gian khó nhất, ở cả ba cuộc kháng chiến chống
Nguyên-Mông xâm lược. Là cuộc kháng chiến lần hai đến lúc mở màng cuộc kháng chiến
lần thứ ba. Đứng trên cương vị tối cao mà ở đó là nhờ những vị thống xoái già dặn, tài
năng sự nghiệp chiến tranh và chiến trường đầy ấp vinh quang của chiến công và chiến
thắng oanh liệt của thời đại tràng đầy hào hứng đông ca lúc bấy giờ.
Trận Bạch Đằng lần thứ ba đã được dựng lại sự hình thành trận Bạch Đằng giang,
giờ đây đã rõ ra là một dòng sông chiến trường lịch sử sau Ngô Quyền, Lê Hoàn lập đaị võ
công. Cũng có nghĩa là giặc đã biết đến dòng sông ấy, đến dòng sông thiêng liêng ấy, nguy
hiểm ấy là bị đánh cho toàn bộ. Vì thế không còn con đường nào khác đành phải qua dòng
sông ấy, giặc cũng hết sức đề phòng và thật sự đã đề phòng quá sức.
Bây giờ là đầu tháng ba âm lịch năm 1288, toàn bộ cánh quân gồm 500 chiến
thuyền, sau năm tháng tung hoành ngang dọc trên non sông đất nước Đại Việt.
Trong trận này tổng lực đại binh thủy bộ giờ đã lâm vào cảnh chia hai đường thủy

bộ mà chạy về nước. Cánh thủy binh Nguyên-Mông do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy rút lui qua
đường sông Bạch Đằng này, chính là đối tượng để đánh một trận nhớ đời của tướng Trần
Hưng Đạo.
Vẫn là trận địa cọc tuyệt vời của trận Bạch Đằng lần thứ nhất, nhưng đây không
phải là chiến trương đánh giặc khi giặc tiến vào mà là đánh giặc trên đường rút lui tháo
chạy ngược chiều từ trong dòng sông ra ngoài. Thời gian của trận đánh không phải là giờ
giấc của thuỷ triều mà là hướng gió của một ngọn gió đông. Cách dẫn dụ theo đường nào
và vào lúc nào khi đến là rơi vào chiếc bẩy khổng lồ thứ ba này. Vì thế phải cũng khác,
càng phải khác là cách đánh của một lực lượng khổng lồ sau nhiều lần trước mà là hết sức,
quá sức đề phòng. So với sự phòng bị mưu lược của trận Bạch Đằng lần thứ hai, chỉ có
được đó chính là thiên tài quân sự của vị chủ tướng kiệt xuất mới có thể nắm vững được,
giải quyết được trọn vẹn những vấn đề lớn như thế nào trong muôn vàng chiến sự, chiến
trận và chiến công sông Bạch Đằng lần thứ ba..
Với công lao rất lớn của vị chủ tướng trân Bạch Đằng lần thứ ba cũng như cả sự
nghiệp kháng chiến giữ nước thời Trần đã vô cùng sứng đáng ngay sau đại võ công sông
Bạch Đằng được triều đình phong từ Quốc Vương lên Đại Vương. Nhưng lòng dân mọi
thời đại Trần Quốc Tuấn không chỉ là Hưng đại Vương mà còn được dự vào hàng tiên
thánh và trở thành đức thánh Trần và hơn thế nữa được sánh là Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Cùng với Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo chính là hợp thành bộ ba chủ
tướng của ba đại võ công lịch sử trên chỉ một dòng sông Bạch Đằng.
Như vậy, ba cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc chống xâm lược Nam Hán, Nhà
Tống, Nguyên- Mông đều kết thúc thắng lợi, rõ ràng bằng những trận đánh ở trên dòng
sông Bạch Đằng. “ Thiên Hiệp” ấy là chữ của Nguyễn Trãi đã nói về cái thế trời cho, tức là
nói về các yếu tố Thiên và địa của chiến trường sông Bạch Đằng. Ngay từ thời Trần đã có
những tứ thơ, lấy án văn rất lạ để nối tiếp về một vấn đề rất lớn trong chiến công Sông
Bạch Đằng, ấy là đâu phải chỉ có thiên hiệp, đâu phải chỉ có trời mà còn có người, còn có
yếu tố con người. Trong các sử sách và văn thư cổ thì người là yếu tố nhân hỏa sau yếu tố
thiên thời địa lợi, ở chỗ này được qui vào caí đức của nhà vua để cái phận số của non sông-
đất nước. Nhưng thật ra cái chính là cái thiên biến vạn hóa của khoa học nghệ thuật quân
sự do các vị chủ soái thiên tài của trận Bạch Đằng trọng dụng trong hoàn cảnh, trường hợp

rất khác nhau để tạo ta thế và lực, để tạo ra thiên thời địa lợi và nhất là nhân hỏa trên tài
năng quân sự kiệt xuất của mình.
Tài liệu tham khảo:
1. Đại Việt sử kí toàn thư.
2. Việt sử tiêu án.
3. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884: Nguyễn Phang Quang, Võ
Xuân Đàn.
CÁCH MẠNG TÂN HỢI 1911-“CƠN BẢO TÁP CÁCH MẠNG”
Tình hình Trung Quốc đầu thế kỉ XX.
Về chính trị, sau thất bại của phong trào Nghĩa Hòa Đoàn và việc kí Hòa ước Tân sữu năm
1901, triều đình Mãn Thanh lún sâu vào khủng hoảng, các nước đế quốc ngày càng xiết
chặt-khống chế triều đình, thao túng, can thiệp sâu vào nội bộ Trung Quốc và chúng đã
hoàn thành quá trình biến Trung Quốc trở thành nước nữa thuộc địa. Lúc này triều đình
nhà Mãn trở thành công cụ phục vụ cho các chính sách nô dịch của đế quốc.
Về kinh tế, đầu thế kỉ XX, hàng loạt các hiệp ước buôn bán được tiếp tục kí kết giữa nhà
Thanh với các nước đế quốc. Chính vì thế, các nước đế quốc thừa cơ tăng cường khống
chế, vơ vét, nắm vững những mạch máu của nền kinh tế như tài chính, tiền tệ, giao thông
vận tải…của nước này.
Sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản vào đất nước Trung Quốc một mặt phá vỡ nền kinh tế
thủ công nghiệp ở thành thị cũng như ở nông thôn, mặt khác lại thúc đẩy kinh doanh buôn
bán ở thành thị và nông thôn, kích thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc.
Từ đó giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời từ cuối thế kỉ XIX và lớn mạnh đầu thế kỉ XX,
tuy nhiên giai cấp này không thể tránh khởi sự chèn ép, kìm hãm bở bọn đế quốc và phong
kiến trong nước.

×