Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

bghsg 5 lịch sử 5 nguyễn nam thư viện giáo án điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.81 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THEO DÒNG LỊCH SỬ VIỆT NAM</b>



<b>TỪ HỌ HỒNG BÀNG ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945</b>



<b>THỜI SƠ SỬ</b>



<b>HỌ HỜNG BÀNG</b>



Họ Hờng Bàng là dòng họ đầu tiên làm vua ở nước ta. Truyền thuyết nói rằng Kinh Dương Vương
là vua của nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy nàng Thần Long (con gái Động Đình Quân) sinh
ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một cái bọc 100 trứng, nở ra 100 người con
trai. Chính những người con của mẹ Âu Cơ đã dựng nên nước Văn Lang, lên làm vua, xưng là Hùng
Vương, truyền nối được 18 đời.


<b>NƯỚC ÂU LẠC (208 - 179 TCN)</b>



Nước Âu Lạc do Thục Phán dựng lên vào năm 208 TCN, Thục Phán xưng là An Dương Vương,
đóng đô ở Cổ Loa, xây Loa Thành, chế Nỏ Thần, An Dương Vương ở ngôi 30 năm. Năm 206 TCN,
nhân thấy nhà Tần đã bị đổ nát, Triệu Đà liền chiếm cứ vùng lĩnh Nam (của Trung Quốc ngày nay)
và lập ra nước Nam Việt.


<b>BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (179 TCN - 40)</b>



<b>THUỘC NAM VIỆT (179TCN - 111 TCN)</b>



Sau nhiều lần tấn công bằng vũ lực nhưng thất bại. Triệu Đà cho con trai của mình là Trọng Thủy
sang kết hôn với con gái của vua An Dương Vương rồi ở rể trong thành Cổ Loa. Năm 179 TCN, sau
khi Trọng Thủy đánh tráo nỏ thần của gia đình bên vợ, Triệu Đà bất ngờ cho quân đánh An Dương
Vương. An Dương Vương thua trận và mất nước. Thời Bắc tḥc bắt đầu từ đó.


<b>TḤC NHÀ TÂY HÁN (179 TCN - 08)</b>




Năm 206 TCN, nhà Tần mất, nhà Tiền Hán (Tây Hán) lên thay nhà Tần. Năm 111 TCN, nhà Tây
Hán sang đánh lấy nước Nam Việt.


- Nhà Tây Hán mất năm 08, cai trị nước ta 119 năm (111 TCN - 08).


<b>THUỘC NHÀ TÂN (08 - 25)</b>



Năm 08, Vương Mãng lật đổ nhà Tây Hán, lập ra nhà Tân rồi đô hộ nước ta 17 năm. (08 - 25)


<b>THUỘC NHÀ ĐỒNG HÁN (25 - 39) Lần 1</b>



Năm 25, Lưu Tú dẹp nhà Tân, lập nên nhà Hậu Hán (Đông Hán). Nhà Đông Hán thay nhà Tân đô
hộ nước ta cho tới năm 39.


<b>THỜI TỰ CHỦ THỨ NHẤT (40 - 43)</b>



<b>TRƯNG NỮ VƯƠNG</b>



Năm 40, sau khi chống là Thi Sách bị Tô Định giết chết, bà Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị
khởi binh đánh đuổi thái thú Tô Định của nhà Đông Hán rồi tự lập làm vua. Nhà Đông Hán sai Mã
Viện sang đánh.


- Năm 43, Hai Bà Trưng thua trận; nhảy xuống sông tuẫn tiết.


<b>BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI (43 - 542)</b>


Hai Bà Trưng mất, nước ta bị Bắc thuộc lần thứ hai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>THUỘC NHÀ ĐÔNG HÁN (Lần 2) (43 - 220)</b>




Đánh thắng Hai Bà Trưng, Mã Viện đẩy nước ta vào vòng lệ thuộc nhà Đông Hán một lần nữa.
Nhà Đông Hán đơ hợ nước ta cho đến năm 220.


<b>TḤC NHÀ ĐƠNG NGƠ (220 - 280)</b>



Đơng Ngơ là mợt trong ba q́c gia thời Tam Quốc. Năm 220, nhà Đông Ngô cai trị nước ta cho
tới năm 280 (60 năm).


Trong thời gian nước ta thuộc nhà Đông Ngô, vào năm 248, ở quận Cửu Chân có Bà Triệu khởi
binh đánh Thứ sử Lục Dận.


<b>THUỘC NHÀ TẤN (280 - 420)</b>



Năm 280, nhà tấn diệt nhà Ngô, thống nhất đất nước Trung Hoa, rồi thay nhà Ngơ cai trị nước ta
tới năm 420.


<b>TḤC NAM TRIỀU (420 - 542)</b>



Thời Nam - Bắc triều ở Trung Quốc rất loạn lạc. Nam Triều có nhiều triều đại khác nhau: họ lần
lượt đô hộ nước ta tổng cộng 122 năm:


- Nhà Tống đô hộ 59 năm (420 - 479)
- Nhà Tề đô hộ 23 năm (479 - 502)
- Nhà Lương đô hộ 40 năm (502 - 542)


<b>THỜI TỰ CHỦ THỨ HAI</b>



<b>NHÀ NƯỚC VẠN XUÂN (544 - 602)</b>



<b>LÝ NAM ĐẾ (544 - 548)</b>




Năm 542, Lý Bôn khởi binh đánh Thái thú Tiêu Tư. Năm 544 ông lên làm vua, xưng là Lý Nam
Đế, đặt quộc hiệu là Vạn Xuân, kinh đô là Long Biên, Năm 545, Nhà Lương sai Trần Bá Tiên sang
đánh. Lý Nam Đế thua, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Lý Nam Đế bị bệnh, mất năm 548.


<b>TRIỆU VIỆT VƯƠNG (548 - 571)</b>



Triệu Quang Phục đem quân về đầm Dạ Trạch. Năm 548, được tin Lý Nam Đế mất, triệu Quang
Phục xưng là Triệu Việt Vương. Lúc đó Trần Bá Tiên về nước, Triệu Quang Phục đánh thắng quân
nhà Lương, làm vua tới năm 571.


<b>HẬU LÝ NAM ĐẾ (571 - 602)</b>



Lý Nam Đế vào động Khuất Liêu thì Lý Phục Man và Lý Phật Tử chạy tới động Dã Năng. Năm
555, Lý Phục Man mất, không có con; Lý Phật Tử nắm binh quyền. Năm 571, Lý Phật Tử đánh úp
Triệu Việt Vương, xưng đế. Năm 602, nhà Tùy sang đánh. Lý Phật Tử xin hàng.


<b>BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (602 - 905)</b>


Nhà Hậu Lý Nam Đế mất, nước ta lại bị Bắc thuộc (lần thứ ba)


<b>TḤC NHÀ TÙY (602 - 618)</b>



Nhà Tùy đơ hợ nước ta 16 năm.


<b>THUỘC NHÀ ĐƯỜNG (618 - 905)</b>



Nhà Đường lật đổ nhà Tùy rồi đô hộ nước ta 287 năm (618 - 905)


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>THỜI ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ THỐNG NHẤT (905 - 1527)</b>




<b>HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP (905 - 930)</b>



Tuy chưa xưng Vương hay xưng Đế, thậm chí còn tự coi mình là quan lại của nước Trung Hoa,
nhưng họ Khúc đã có công đặt nền tảng căn bản đầu tiên cho thời đại độc lập, tự chủ và thống nhất
của nước nhà.


<b>KHÚC THỪA DỤ (905 - 907)</b>


Năm 905, Khíc Thừa Dụ được dân chúng cử lên làm Tiết độ sứ, cai trị Giao Châu. Khi đó nhà
Đường đã suy yếu nên cũng thuận cho. Khúc Thừa Dụ ở chức được 2 năm (905 - 907).


<b>KHÚC THỪA HẠO (907 - 917)</b>
<b>KHÚC THỪA MỸ (917 - 930)</b>
- Khúc Thừa Hạo lên nối nghiệp.


- Rồi Thừa Mỹ lên thay. Năm 930, nhà Nam Hán sai Lý Khắc Chính sang đánh bắt được Khúc
Thừa Mỹ, rồi nắm quyền cai trị Giao Châu.


<b>DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (931 - 937)</b>



Năm 930, tuy quân Nam Hán đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ nhưng ngay khi đó, một bộ tướng của
họ Khúc là Dương Đình Nghệ nổi lên đánh đuổi Lý Khắc Chính rồi tự xưng là Tiết độ sứ, tự mình
cai quản Giao Châu.


<b>KIỀU CÔNG TIỄN (937 - 938)</b>



Năm 937, Dương Đình Nghệ bị người con nuôi và cũng là bộ tướng của ông, tên là Kiều Công
Tiễn giết chết, giành quyền làm Tiết đợ sứ cho tới năm 938.


<b>NHÀ NGƠ (938 - 950)</b>



<b>TIỀN NGƠ VƯƠNG (939 - 944)</b>



Năm 939, Ngơ Qùn đem quân giết chết kẻ phản bội; sau đó đánh thắng quân Nam Hán tại sông
Bạch Đằng rồi lên làm vua. Ngô Quyền mất năm 944.


<b>DƯƠNG TAM KHA (945 - 950)</b>



Năm 945, anh vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, lên làm vua đến năm
950 (5 năm).


<b>HẬU NGƠ VƯƠNG (950 - 965)</b>



Năm 950, Ngơ Xương Văn đánh bắt Dương Tam Kha rồi mời Ngô Xương Ngập cùng làm vua.
Năm 954, Xương Ngập mất, Xương Văn ở ngôi đến năm 965.


<b>THẬP NHỊ SỨ QUÂN (965 - 967)</b>



Ngay từ lúc Dương Tam Kha mới tiếm ngôi nhà Ngô, thổ hào ở các nơi đã xướng lên độc lập,
xưng là sứ quân. Đến năm 965, cả nước có 12 thế lực mạnh. Sử gọi là Loạn 12 sứ quân. Loạn này
kéo dài đến năm 967.


<b>NHÀ ĐINH (967 - 980)</b>



Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong các sứ quân. Năm 968, Đình Bộ Lĩnh lên làm vua, xưng là
<i>Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.</i>


Năm 979, Đinh Tiên Hoàng mất, Đinh Toàn lên ngôi. Năm 980, Đinh Toàn bị phế. Nhà Đinh trị vì
12 năm.


<b>NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)</b>




Khi hay tin Đinh Tiên Hoàng mất, nhà Tống cử binh sang đánh. Tại nước ta, Phạm Cự Lượng và
quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua “để có người biết đến công lao của các tướng sĩ”. Lê Hoàn đã đánh
thắng quân Tống. Sau đó hai nước bãi binh. Nhà Tiền Lê trị vì 30 năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất, con còn nhỏ. Đào Cam Mộc và các tướng tôn Lý Công Uẩn lên
ngôi, tức là Lý Thái Tổ. Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, dời đô về thành Đại La. Lúc thuyền cập bến,
vua thấy có rồng vàng hiện lên, bèn đổi tên thành là thành Thăng Long. Từ năm 1054, nhà Lý đặt
quốc hiệu là Đại Việt. Thời nhà Lý, đạo Phật là quốc giáo; có Lý Thường kiệt lập nhiều chiến công.
Năm 1225, nhà Lý mất, trị vì 215 năm với 9 đời hoàng đế.


<b>NHÀ TRẦN (1226 - 1400)</b>



Hoàng đế thứ 8 của nhà Lý là Lý Huệ Tông không có con trai, nên đã cho công chúa Phật Kim lên
làm Hoàng đế, tức là Lý Chiêu Hoàng, mới 8 tuổi. Bấy giờ Trần Thủ Độ nắm hết binh quyền.


Cuối năm 1225, Trần thủ Độ ép gả Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh - cũng 8 tuổi - rồi buộc Lý
Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng.


*Năm 1226, Trần cảnh lên ngôi, tức là Trần Thái Tông. Buổi đầu, nhà Trần có nhiều minh quân,
lương tướng nên đã 3 lần chiến thắng quân Mông - Nguyên.


Nhà Trần mất năm 1400, trị vì 175 năm với 13 đời Hoàng đế.


<b>NHÀ HỒ (1400 - 1407)</b>



Tổ tiên của Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang, Trung Hoa. Năm 1400, Hồ Quý Ly
đoạt ngôi nhà Trần. Hồ Quý Ly ở ngôi được 1 năm thì nhường ngôi cho Hồ Hán Thương.


Năm 1407, nhà Hồ mất.



<b>NHÀ HẬU TRẦN (1407 - 1413)</b>



Sau khi nhà Hồ mất, con cháu họ Trần được người trong nước tôn làm Hoàng Đế, tức là nhà Hậu
Trần. Nhà Hậu Trần có 2 vị Hoàng Đế là Giản Nhị Đế và Trùng Quang Đế, làm Hoàng Đế được 6
năm thì bị nhà Minh tiêu diệt.


<b>THUỘC NHÀ MINH (1414 - 1427)</b>



Nhà Hậu Trần mất, nước ta bị nhà Minh cai trị. Suốt thời gian ấy, có rất nhiều hào kiệt đứng lên,
trong đó cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi là quan trọng hơn cả.


<b>NHÀ LÊ (1428 - 1527</b>

)


Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở núi Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương. Sau 10 năm gian khổ,
vào năm 1427, Bình Định Vương đuổi được quân Minh, lên làm Hoàng Đế, tức là Lê Thái Tổ. Để
phân biệt với thời Lê do Lê Hoàn dựng lên, sử gọi nhà Lê do Lê Lợi dựng lên là nhà Hậu Lê. Tuy
nhiên vì nhà Hậu Lê quá dài và trong khoảng thời gian quá dài này, quyền lực của nhà Lê cũng có lúc
bị gián đoạn hoặc lu mờ. Sử đã chia nhà Hậu Lê làm ba thời khác nhau: đó là Lê Sơ, Lê Trung Hưng
và Lê Mạt. Nhà Lê vẫn dùng quốc hiệu Đại Việt, mất năm 1527, cầm quyền được 100 năm.


<b>THỜI ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA CẮT VÀ NỘI CHIẾN</b>


<b>(1527 - 1801)</b>



<b>NHÀ MẠC (1527 - 1592)</b>



Năm 1527, Mạc Đăng Dung giết Lê Cung Hoàng rồi lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Thăng Long.
Nhà Mạc ở ngôi 65 năm, trong đó 6 năm đầu (từ 1527 - 1533) họ Mạc cai trị cả nước, còn những
năm kế tiếp chỉ cai trị nửa nước.



<b>NHÀ LÊ TRUNG HƯNG</b>



Khi Mạc Đăng dung cướp ngôi nhà Lê, một người con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh tránh
về Thanh Hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Họ Trịnh vẫn tiếp tục phò Lê, nhưng thâu tóm mọi quyền hành; các hoàng đế Lê của thời Lê Trung
Hưng chỉ là “hư vị”, cho tới năm 1788 thì mất.


<b>CHÚA TRỊNH</b>



Năm 1545, Nguyễn Kim bị đánh thuốc độc chết, con rể của ông là Trịnh Kiểm tiếp tục phò Lê,
đánh Mạc, chiếm được phân nửa nước. Đóng đô ở Thanh Hóa, nên sử gọi là Nam triều.


Năm 1786, họ Trịnh mất ngôi, làm chúa được hơn 200 năm.


<b>CHÚA NGUYỄN</b>



Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, dần dần gây dựng một xứ Đàng Trong và cai
trị được gần 220 năm với 9 đời chúa Nguyễn.


<b>TÂY SƠN (1771 - 1801)</b>



Năm 1765, chúa Nguyễn Phúc Khoát mất, quyền thần Trương Phúc Loan đưa Nguyễn Phúc
Thuần lên ngôi. Lúc đó, xứ Đàng Trong rất rối ren.


Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ khởi nghĩa tại ấp Tây Sơn và sớm
lập nên vương triều Tây Sơn. Nhà Tây Sơn có công chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của nước
nhà, nhưng vì Quang Trung mất sớm nên nhà Tây Sơn chỉ tồn tại đến năm 1801.


<b>NHÀ NGUYỄN (1802 - 1945)</b>




Tháng 9 năm 1777, tại Long Xuyên, Tây Sơn bắt được Nguyễn Phúc Thuần và các tướng lãnh của
chúa Nguyễn. Một người của Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Ánh cùng mẹ và một số anh em trốn
thoát. Sau đó Nguyễn Ánh phải bôn ba, vất vả; khi thì trốn ra các hải đảo, lúc phải sang Xiêm tá túc.


Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt nhà Tây Sơn. Lên ngôi, đóng đô tại Huế, đổi tên nước là Việt Nam.
Nhà Nguyễn mất năm 1945, trị vì 143 năm.


<i><b> Lịch sử nhà Nguyễn gồm hai giai đoạn lớn:</b></i>


- Giai đoạn thứ nhất( 1802 - 1884) là giai đoạn tồn tại chủ yếu với tư cách một vương triều độc
lập.


- Giai đoạn thứ Hai: (1885 - 1945) là giai đoạn tồn tại trong khuôn khổ cho phép của Thực dân
Pháp


Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau gần 30 năm, chúng đã chiếm được
toàn cõi nước ta. Một thời kì vô cùng đen tối nữa của lịch sử Việt Nam đã bắt đầu, đó là <i>thời kì Pháp</i>
<i>thuộc.</i>


<b>VIỆT NAM TỪ 1885 ĐẾN 1945</b>



<b>THỜI PHÁP THUỘC: Thời Thực dân Pháp áp đặt ách đô hộ đối với Việt Nam. Trên hình thức,</b>
chính quyền phong kiến vẫn được sử dụng như một bộ máy tay sai, vì thế, cũng có người gọi đây là
<i>thời thuộc địa nửa phong kiến.</i>


<b>BA NGỌN CỜ CHỚNG PHÁP: Thời Pháp tḥc cũng là thời phong trào đấu tranh chống Pháp</b>
bùng nổ dữ dội. Bấy giờ, phong trào được quy tụ dưới ba ngọn cờ tư tưởng rất khác nhau.


Trước hết là ngọn cờ Tư tương phong kiến được giương lên ngay từ khi thực dân Pháp mới tràn


vào nước ta và có địa vị rất lớn trong hậu bán thế kỉ XIX. Quy tụ dưới ngọn cờ này là một loạt các
anh hùng dân tộc như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương; các
lãnh tụ của phong trào Cần Vương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Duy
Tân, ...


Đầu thế kỉ XX, ngọn cờ tư tưởng dân chủ tư sản được giương lên và có sức cuốn hút rất mạnh
mẽ. Lịch sử mãi mãi ghi nhớ tên tuổi của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, của những tổ chức cách
mạng như Duy tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội, Quốc Dân Đảng (giai đoạn trước năm 1930), của
những phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục,...


</div>

<!--links-->

×