Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

VĂN HOÁ THỜI TIỀN SỬ CỦA NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.7 KB, 24 trang )

VĂN HOÁ THỜI TIỀN SỬ CỦA NGƯỜI VIỆT
Việt Nam nằm ở Bắc bán cầu, cách đường xích đạo khơng xa, thuộc khu
vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu ln ẩm ướt, lắm mưa, nhiều nắng, cây cối bốn
mùa xanh tốt.
Việt Nam là đất nước lắm núi, nhiều sơng, địa hình đa dạng. Những khối
núi đá vôi ở miền tây bắc, đông bắc và miền tây bắc trung bộ với nhiều hang động,
núi đá là những điều kiện thiên nhiên vô cùng thuận lợi cho cuộc sống của người
tiền sử. Việt Nam có vùng trung du rộng lớn khắp ba miền, đất đai phí nhiêu cùng
với những đồi núi thấp chập chùng ven bờ các dịng sơng lớn cũng rất thuận lợi
cho cuộc sống của người xưa. Với hệ thống sông ngịi chằng chịt trên lưu vực
sơng Hồng, sơng Mã và sông Cả ở miền Bắc, lưu vực sông Đồng Nai, sông Vàm
Cỏ và sông Tiền, sông Hậu miền Nam và hàng trăm sông lớn nhỏ bắt nguồn từ dãy
Trường Sơn chảy ra biển Đông hay vào sông Mê Công ở phía tây chở nặng phù sa
bồi tụ nên những đồng bằng lớn nhỏ mầu mỡ là cơ sở cho sự ra đời của nhiều nền
văn hoá khảo cổ thời tiền sử.
Việt Nam nằm ở rìa lục địa Đơng Nam Á, nhìn ra Thái Bình Dương, là nơi
giao lưu gặp gỡ của nhiều dân tộc, nhiều nền văn hoá từ bắc xuống nam, từ nam
lên bắc, từ lục địa ra biển hoặc ngược lại. Việt Nam, lại nằm kẹp giữa hai nền văn
minh lớn: văn minh Trung Hoa ở phía bắc và văn minh Ấn Độ ở phía tây. Vì thế
nên có ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự hình thành và phát triển của văn hoá Việt
Nam từ thời tiền sử, sơ sử.
Với cảnh quan thiên nhiên đó, Việt Nam có một nền văn hoá lâu đời, phong
phú và đa dạng. Thời tiền sử và sơ sử trên lãnh thổ nước ta xuất hiện ba trung tâm
văn hố: Đơng Sơn của người tiền Việt, Sa Huỳnh của người tiền Cham pa và
Đồng Nai của cư dân tiền Phù Nam và sau đó trở thành ba nền văn hố Đơng Sơn
(nước Văn Lang, Âu Lạc), Sa Huỳnh (nước Champa) và Óc-eo (nước Phù Nam)
cổ đại.


I. Văn hoá khảo cổ và thời đại đá cũ
Thời đại đá cũ mở đầu lịch sử loài người. Kể từ khi con người đầu tiên xuất


hiện trên trái đất cho đến nay đã gần 3 triệu năm. Thời đại đá cũ là thời đại dài
nhất, chiếm tới trên 99% lịch sử lồi người. Khơng phải tất cả các nước trên thế
giới đều phát hiện được dấu tích văn hố của con người tối cổ này. Việt Nam là
một trong nhiều nước đã phát hiện được khá nhiều di tích từ sơ kỳ đến hậu kỳ thời
đại đá cũ.
1.1. Núi Đọ và sơ kỳ thời đại đá cũ
Suốt mấy chục năm hoạt động khảo cổ học của người Pháp trên đất nước ta,
cho đến trước Cách mạng tháng Tám, di tích khảo cổ thời đại đá cũ sơ kỳ vẫn là
điều bí ẩn, tuy nhiên nhà nghiên cứu dựa vào những phát hiện di cốt người HomoErectus và công cụ sơ kỳ thời đại đá cũ ở một số nước Đông Nam Á và Trung
Quốc đã cho rằng Việt Nam nằm trong vùng lãnh thổ quê hương của loài người và
trên đất nước ta đã từng diễn ra quá trình diễn biến từ vượn thành người.
Nhận định trên đã được khảo cổ học Việt Nam từ thập niên 60 lại đây chứng
thực.
Phát hiện quan trọng và có ý nghĩa nhất vì sơ kỳ thời đại đá cũ Việt Nam là
việc phát hiện di tích Núi Đọ năm 1960 và Quan Yên, Núi Nổ năm 1977.
Các di tích này đều nằm trên sườn đồi vùng trung du Thanh Hoá thuộc hai
huyện Thiệu Hố và Vĩnh Lộc.
Cơng cụ phần lớn đều nằm rải rác trên mặt đất hoặc trong độ sâu 0,20m và
được chế tạo từ đá gốc ba-dan lấy ngay tại chỗ.
Bộ sưu tập Núi Đọ là phong phú hơn cả. Ba lần thu thập, tổng số hiện vật
lên tới khoảng 2500 tiêu bản. Trong đó, chiếm số lượng nhiều hơn cả là mảnh tước
Cờ-lắc-tông, thô, dày, lớn, điểm ghè nhắn rộng, tạo với mặt bụng một góc tù.
Đặc trưng nổi bật của bộ công cụ Núi Đọ là phức hợp: rìu tay, cơng cụ chặt
thơ (chốp-pơ và chốp-ping) và cơng cụ hình rìu (cleaver).
Rìu tay ở Núi Đọ khơng nhiều, chỉ có 7 chiếc, nhưng về kiểu dáng rất giống
với rìu tay văn hố Sen và A-sơn.


Công cụ chặt thô ở Núi Đọ khá nhiều, tới 89 chiếc. Chúng có hình gần bầu
dục, kích thước khá lớn, thân có nhiều vết ghè sâu.

Cơng cụ hình rìu có tới 37 chiếc. Về hình dáng chúng có hình gần chữ nhật
gần giống với phác vật rìu thời đại đá mới. Song kích thước lớn hơn nhiều.
Ngồi ra, ở Núi Đọ cịn có 140 hạch đá thơ to mang yếu tố kỹ thuật Cờ-lắctông.
Phần lớn các nhà khảo cổ học cho rằng Núi Đọ vừa là nơi cư trú vừa là nơi
chế tác cơng cụ, có niên đại sơ kỳ thời đại đá cũ, cách ngày nay khoảng 40 đến 30
vạn năm.
Với sự có mặt của cơng cụ hình rìu, văn hố núi Đọ có đặc trưng khác với
sơ kỳ đá cũ Châu Âu, mà gần gũi với sơ kỳ đá cũ Ấn Độ và Anh-đô-nê-xia.
Bộ di vật ở Quan Yên và Núi Nổ về chất liệu, kỹ thuật chế tác và kiểu dáng
rất gần gũi với Núi Đọ. Rất có thể văn hố Núi Đọ phân bố rộng khắp cả vùng
trung du Thanh Hoá.
Sơ kỳ thời đại đá cũ là thời kỳ người vượn, thời kỳ con người đang trong
quá trình hình thành về mặt sinh học để trở thành người khôn ngoan trong giai
đoạn sau.
Trong các di tích văn hố núi Đọ, cho đến nay chưa phát hiện được di cốt
người. Nhưng trong một số hang như Thẩm Khuyên, Thẩm Hai ở Lạng Sơn và
Thẩm Ồm ở Nghệ An trong những năm 60 và 70 thế kỷ XX chúng ta đã phát hiện
được 15 răng người trong trầm tích thuộc thế cách tân trung kỳ.
Các nhà nhân học nước ta cho rằng một răng ở Thẩm Hai và 9 răng ở Thẩm
Khuyên về kích thước cũng như hình dáng rất gần gũi với răng người vượn Bắc
Kinh thuộc Homo-Erectus. Cịn 5 răng ở Thẩm Ồm vừa có nét của răng người
vượn, vừa có những yếu tố tiến bộ của Homo-Sapiens, là nằm trong giai đoạn biến
chuyển từ Homo-Erectus sang Homo-Sapiens.
Như vậy là trên đất nước ta không những đã phát hiện được dấu tích văn
hố thời tối cổ, văn hố Núi Đọ mà cịn phát hiện được một phần di cốt của con
người đã sáng tạo ra nền văn hố đó. Những phát hiện này càng khẳng định Việt
Nam nằm trong vùng lãnh thổ quê hương của loài người.


1.2. Văn hoá Ngườm

Cho đến nay, giai đoạn trung kỳ thời đại đá cũ ở nhiều nước Đơng Nam Á
cịn khoảng trống chưa được xác định rõ rệt. Việt Nam cũng nằm trong tình hình
tương tự.
Năm 1962 phát hiện di tích Miệng Hổ và năm 1981 phát hiện di tích Mái đá
Ngườm đều thuộc xã Thần Sa, huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên được các nhà
khảo cổ cho là thuộc trung kỳ thời đại đá cũ hoặc đầu hậu kỳ thời đại đá cũ.
Đặc trưng nổi bật của văn hoá Ngườm là các di tích đều nằm trong hang
hoặc mái đá, tầng văn hoá được cấu tạo từ đất sét chứ khơng phải vỏ lồi nhuyễn
thể như trong văn hố Hồ Bình - Bắc Sơn. Bộ di vật đá trong văn hoá Ngườm
khá đặc biệt, khác với văn hoá Sơn Vi và văn hố Hồ Bình sau đó.
Bên cạnh số ít công cụ hạch cuội, phần lớn công cụ làm từ mảnh tước cuội
kích thước nhỏ được tu chỉnh ở rìa cạnh khơng có hệ thống, khơng liên tục tạo
thành mũi nhọn và nạo, trong đó có loại mũi nhọn rìa cạnh được tu sửa lõm vào rất
đặc trưng và gần gũi với văn hóa trung kỳ Ấn Độ và In đô nê xia và Bạch Liên
động ở Nam Trung Quốc.
Cần nói rõ thËm là ở Mái đá Ngườm có 3 tầng văn hóa, chỉ có tầng văn hóa
cuối cùng là tiêu biểu cho văn hóa Ngườm, 2 tầng văn hóa trên muộn hơn.
Gần gũi với văn hóa Ngườm, ngồi Miệng Hổ cịn có các di tích Nà Khù
cũng ở Thần Sa, Lạng Nắc thuộc huyện Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn. Ở các di tích này
bên cạnh cơng cụ hạch cuội phát hiện được nhiều công cụ mảnh tước cuội kích
thước nhỏ.
Rất có thể văn hóa Ngườm phân bố rộng khắp vùng núi đông bắc nước ta.
Ở Mái đá Ngườm, tầng văn hóa Ngườm có niên đại C14 là trước 23.000
năm, niên đại này cũng tương đương với lớp văn hóa này ở Bạch Liên động được
xác định vào khoảng 30.000 đến 18.000 năm cách ngày nay.
Về loại hình văn hóa, văn hóa Ngườm rất gần gũi với di tích Bạch Liên
động ở Quảng Tây Trung Quốc và di tích Lang Rong - Riêng ở Thái Lan được xếp
vào hậu kỳ thời đại đá cũ. Nhìn xa hơn, văn hóa Ngườm cũng khá gần gũi với văn



hóa Nê-Ra-Xiêng thuộc trung kỳ đá cũ Ấn Độ và văn hóa mảnh tước cuội ở In đơ
nê xia và Philippin.
Như vậy là văn hóa Ngườm cách ngày nay trên dưới 3 vạn năm thuộc trung
kỳ đá cũ hoặc đầu hậu kỳ đá cũ. Việc phát hiện ra văn hóa Ngườm cùng với Bạch
Liên động ở Trung Quốc và Lang Long Riêng ở Thái Lan cho thấy lục địa Đông
Nam Á phổ biến tồn tại văn hóa mảnh tước cuội trước văn hóa hạch cuội và việc
phân ra hai hệ thống: văn hóa hạch cuội ở Đơng Nam Á lục địa và văn hóa mảnh
tước cuội ở Đơng Nam Á hải đảo là khơng thích hợp nữa.
1.3. Văn hóa Sơn Vi và hậu kỳ đá cũ
Trong phương hướng đi tìm văn hóa đá cuội trước văn hóa Hịa Bình trong
hai thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, ngành khảo cổ Việt Nam đã phát hiện ra
trên 120 địa điểm thuộc văn hóa Sơn Vi; cùng với việc phát hiện ra văn hóa
Ngườm, việc phát hiện văn hóa Sơn Vi là thành tựu nổi bật của khảo cổ học thời
đại đá cũ nước ta trong những năm qua.
Văn hóa Sơn Vi phân bố rộng từ Lào Cai, Yên Bái qua vùng trung du Phú
Thọ, Hà Bắc vào tận miền tây Thanh Nghệ. Một số công cụ kiểu Sơn Vi cũng đã
được biết đến ở Quảng Trị.
Di tích văn hóa Sơn Vi tập trung nhiều nhất trên vùng đồi thấp trung du Phú
Thọ. Chúng phần lớn nằm rải rác trên mặt đất. Một số di tích lại phân bố trong
hang động đá vơi Sơn La, Hịa Bình, Thanh Hóa như Hang Pơng, Mái Đá Ơng
Quyền, Hang Con Moong…
Đặc trưng nổi bật của văn hóa Sơn Vi là cơng cụ được chế tạo từ đá cuội
thành cơng cụ chặt rìu lưỡi dọc hình múi bưởi, cơng cụ ¼ viên cuội, cơng cụ rìu
lưỡi hái hai đầu.
Những cơng cụ này được tạo thành bằng phương pháp bổ cuội và ghè trực
tiếp nhiều lớp, song diện ghè chỉ hạn chế ở rìu lưỡi.
Trong Văn hóa Sơn Vi rất hiếm cơng cụ mảnh tước. Trong số mảnh tước
được ghè ra có khoảng 6% là phiến tước dài, là loại mảnh tước đặc trưng cho hậu
kỳ đá cũ.



Dựa vào kích thước và loại hình cơng cụ, văn hóa Sơn Vi có thể trải qua 2
giai đoạn phát triển: giai đoạn Nậm Tun-Bản Phố chủ yếu phân bố ở vùng núi Tây
Bắc và Đông Bắc là giai đoạn sớm của văn hóa này với đặc trưng nổi bật là công
cụ thô to hơn và bên cạnh những công cụ điển hình của văn hóa Sơn Vi cịn có một
số lượng nhất định công cụ mũi nhọn; Tiếp theo là giai đoạn văn hóa Sơn Vi điển
hình chủ yếu phân bố ở vùng đồi gò trung du Bắc Bộ.
Niên đại C14 của văn hóa Sơn Vi nằm trong khoảng 18.000 năm đến 11.000
năm cách ngày nay và thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ và muộn hơn văn hóa Ngườm.
Với địa tầng ở Hang Con Moong, tầng văn hóa Sơn Vi nằm dưới tầng văn
hóa Hịa Bình và trong một số di tích muộn của văn hóa Sơn Vi đã bắt đầu xuất
hiện một số công cụ kiểu văn hóa Hịa Bình. Các nhà khảo cổ nhất trí nhận định
văn hóa Sơn Vi khơng những sớm hơn văn hóa Hịa Bình, mà cịn phát triển thành
văn hóa Hịa Bình.
Cho đến nay chưa thấy tư liệu nước ngồi nói đến sự tồn tại của văn hóa
Sơn Vi ở Đơng Nam Á song trong một số di tích hậu kỳ đá cũ ở Đơng Nam Á và
Nam Trung Quốc có một số cơng cụ hồn tồn giống với cơng cụ chặt rìu lưỡi dọc
hình múi bưởi như ở Thanh Đường và Phong Khai tỉnh Quảng Đông, Hang Sai ở
Yor Thái Lan, gị đất vùng Pa-mơng ở Lào…
Vì vậy việc phát hiện ra văn hóa Sơn Vi là một đóng góp quan trọng cho cả
vùng Đơng Nam Á để tìm hiểu văn hóa đá cuội trước văn hóa Hịa Bình.
Ở miền Nam, những cuộc điều tra khảo cổ từ sau 1975 đến nay cũng đã
phát hiện được một số công cụ đá thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ ở vườn Dũ tỉnh Bình
Dương, ở Dỗn Văn tỉnh Đắc Lắc, ở Đạ Đồn, Lộc Châu tỉnh Lâm Đồng…
Những công cụ này đều được chế tác từ đá cuội bao gồm công cụ chặt thô
ghè một mặt, nạo và mũi nhọn.
Những phát hiện này tuy chỉ là bước đầu thu lượm trên mặt đất, nhưng rất
có ý nghĩa. Trong mức độ nào đó có thể liên hệ với những phát hiện của Saurin ở
trên các thềm sông miền đông Campuchia.
Cùng với việc phát hiện văn hóa hậu kỳ thời đại đá cũ, trong một số di tích

cổ sinh vật kỳ thứ tư có niên đại hậu kỳ cách tân, chúng ta cũng đã phát hiện được


một số răng người hóa thạch. Đó là 4 răng người ở Hang Hùm tỉnh Yên Bái, 2
răng và một mảnh xương trán người ở Hang Kéo Làng và răng người ở Hang Làng
Tráng tỉnh Thanh Hóa.
Các nhà cổ nhân học đều cho rằng các răng hóa thạch này về kích thước
cũng như hình dáng rất giống với răng người hiện đại và tồn tại cùng với quần
động vật hậu kỳ cách tân muộn nên chúng thuộc hóa thạch người Homo-Sapiens,
cách ngày nay khoảng 3-4 vạn năm.
II. Văn hóa khảo cổ thời đại đá mới
Vào khoảng trên dưới 1 vạn năm trước, con người ở nhiều vùng trên thế
giới bước vào công cuộc “Cách mạng đá mới” từ nền kinh tế khai thác (săn bắn,
hái lượm, đánh cá) con người tiến vào nền kinh tế sản xuất (nông nghiệp và chăn
nuôi). Đây là một bước phát triển quan trọng của loài người. Con người bớt phụ
thuộc vào thiên nhiên, từ vùng rừng núi con người theo các dịng sơng tiến vào
khai thác các vùng trung du và đồng bằng phì nhiêu màu mỡ, sáng tạo nên nhiều
nền văn hóa mới phong phú và đa dạng.
2.1. Văn hóa Hịa Bình - Văn hóa Bắc Sơn
Văn hóa Hịa Bình và Văn hóa Bắc Sơn thuộc truyền thống văn hóa đá cuội
tiếp sau văn hóa Sơn Vi. Hai văn hóa này được các học giả người Pháp, chủ yếu là
H.Mansuy và M. Colanie phát hiện từ những năm 20 thế kỷ XX và được bổ sung,
tiếp tục nghiên cứu trong những năm sau này.
Văn hóa Hịa Bình và văn hóa Bắc Sơn phân bố rộng trong vùng đá vôi
đông bắc, tây bắc cho tới miền tây Thanh Nghệ vào tận Quảng Bình, Quảng Trị.
Cho đến nay đã phát hiện được trên 130 di tích. Đặc trưng nổi bật của văn hóa
Hịa Bình và văn hóa Bắc Sơn là tập trung trong các hang động và mái đá; di tích
ngồi trời chiếm số lượng rất ít chỉ một vài địa điểm như đã biết. Tầng văn hóa
được cấu tạo chủ yếu từ vỏ ốc suối và ốc núi rất dầy. Đó là những đống rác bếp do
con người bỏ lại sau khi ăn. Công cụ đá được làm từ đá cuội ghè đẽo tiết kiệm

thành cơng cụ hình hạnh nhân, cơng cụ hình đĩa, rìu ngắn, rìu dài, ngồi ra có cơng


cụ hình núm cuội, chày nghiền, bàn nghiền. Trong Văn hóa Hịa Bình và văn hóa
Bắc Sơn bắt đầu xuất hiện kỹ thuật mài làm thành rìu mài lưỡi, dấu Bắc Sơn.
Trong văn hóa Hịa Bình cơng cụ ghè đẽo chiếm đa số rìu mài lưỡi và dấu Bắc
Sơn có số lượng ít hơn, cịn trong văn hóa Bắc Sơn thì ngược lại, cơng cụ ghè đẽo
ngày càng ít, trái lại rìu mài lưỡi và dấu Bắc Sơn càng tăng và thường được xem là
hai hiện vật tiêu biểu của văn hóa này.
Chính những cơng cụ sắc bén này đã giúp cho người văn hóa Hịa Bình và
văn hóa Bắc Sơn chặt cây, phá rừng, cuốc đất trồng cây mở đầu cho nghề nơng
ngun thủy nước ta. Người Hịa Bình và Bắc Sơn sống trong hang động, mái đá
và cuộc sống diễn ra trên các thung lũng hẹp nên có người gọi văn hóa Hịa Bình
và Bắc Sơn là văn hóa thung lũng. Nghề nơng đã ra đời song cịn ngun thủy,
nguồn sống chủ yếu của cư dân Hịa Bình và Bắc Sơn vẫn là săn bắn và hái lượm.
Họ đã săn bắn được nhiều thú lớn như hươu,nai, lợn rừng và cả thú chạy nhanh
như cầy, cáo… Họ cũng thường xun bắt cá, cua, ốc, hến trong lịng sơng, lịng
suối về làm thức ăn. Vì vậy trong tầng văn hóa chứa đựng rất nhiều xương động
vật và vỏ lồi nhuyễn thể. Người Hịa Bình và Bắc Sơn cũng biết dùng xương thú
chế tạo thành rìu, đục, mũi nhọn… được mài nhẵn khá đẹp.
Đáng chú ý là trong một số mộ tang của cư dân văn hóa Hịa Bình phát hiện
được nhiều đồ trang sức bằng vỏ kẹo, vỏ ốc suối và vỏ ốc biển, cho thấy họ đã chú
ý đến cái đẹp.
Vì sống trong các hang động lên xuống vất vả, lại ở trên một khu vực có
nhiều tre nứa có thể dùng làm đồ đựng, nên cư dân văn hóa Hịa Bình - Bắc Sơn
chưa biết đến làm đồ gốm.
Cư dân Hịa Bình – Bắc Sơn đã chú ý đến cuộc sống ở thế giới bên kia. Họ
chôn người chết ngay trong hang cư trú. Mộ thường được kê đá xung quanh, tử thi
thường chôn theo tư thế nằm co bó gối, bên cạnh thường chơn theo một số công cụ
bằng đá và đồ trang sức bằng vỏ ốc cùng một số hịn thổ hồng nên khi đào lên

một số xương có màu đỏ. Màu đỏ thổ hồng phải chăng tượng trưng cho sự sống
của con người ở thế giới bên kia.


Văn hóa Hịa Bình có niên đại C14 từ khoảng 18.000 năm đến 8.000 năm
trước.
Văn hóa Hịa Bình – Bắc Sơn phân bố rất rộng, ngoài lãnh thổ Việt Nam ra,
phạm vi phân bố chủ yếu của nó là ở vùng Đơng Nam Á lục địa. Cho đến nay văn
hóa Hịa Bình đã được phát hiện ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến
Điện, Mã Lai, phía đơng đảo Sumatra và vùng Lưỡng Quảng Trung Quốc, trong
đó Việt Nam phát hiện được nhiều nhất, phong phú nhất và được xem là q
hương của văn hóa Hịa Bình- Bắc Sơn.
Cư dân Hịa Bình và Bắc Sơn chủ yếu thuộc loại hình Ốt-tơ-ra-lơ – Nê-groit và loại hình Anh-đơ-nê-điêng. Văn hóa Hịa Bình và văn hóa Bắc Sơn đặt cơ sở
cho q trình phát triển của thời tiền sử cho cả khu vực Đơng Nam Á lục địa.
Cư dân văn hóa Hịa Bình và văn hóa Bắc Sơn đã sáng tạo nên hai phát
minh lớn trong thời tiền sử trên đất nước ta. Đó là sự ra đời của rìu mài lưỡi và
phát minh ra nghề nơng ngun thủy.
2.2. Văn hóa Quỳnh Văn
Văn hóa Quỳnh Văn phân bố ở vùng ven biển Nghệ Tĩnh, mà tập trung nhất
ở huyện Quỳnh Lưu.
Đặc trưng nổi bật của văn hóa Quỳnh Văn là những “đống rác bếp” vỏ sò
điệp nằm rải rác dọc ven biển cách bờ biển ngày nay từ 1 đến 10 km. Trong những
đống sò điệp cao từ 2-3m đến 5-6m thường có lẫn than tro, xương răng động vật
như hươu, nai, lợn rừng cùng công cụ đá và mảnh gốm vỡ.
Khác với văn hóa Hịa Bình – Bắc Sơn, cơng cụ đá văn hóa Quỳnh Văn
thuộc truyền thống kỹ thuật đá gốc. Công cụ đá làm bằng đá ba-zan, ghè đẽo thơ
sơ, kỹ thuật mài đá cịn rất hiếm hoi. Cơng cụ đá chưa thật định hình, chun hóa,
rất khó phân loại, cịn tồn tại nhiều cơng cụ và kỹ thuật hậu kỳ thời đại đá cũ như
hạch đá hình lăng trụ, hạch đá hình mu rùa, cơng cụ chặt thơ, dao, nạo… Ngồi ra
cũng có khá nhiều chày đá, bàn nghiền và đục xương, mũi nhọn xương.



Đồ gốm văn hóa Quỳnh Văn rất đặc trưng và có sự biến diễn rất rõ, từ loại
gốm thơ dày, trang trí văn thường thơ, đáy nhọn đến loại gốm mang trang trí văn
thừng mịn hơn. Tất cả đều nặn bằng tay, bằng phương pháp giải cuộn.
Đáng chú ý là ở di chỉ Quỳnh Văn đã phát hiện được 31 ngơi mộ chơn theo
kiểu ngồi bó gối trong huyệt trịn.
Cư dân văn hóa Quỳnh Văn thuộc loại hình Ốt-tra-lơ-nê-grơ-it
Các nhà khảo cổ đều nhất trí văn hóa Quỳnh Văn thuộc sơ kỳ thời đại đá
mới. Các niên đại C14 ở Quỳnh Văn, Quỳnh Hồng cho thấy văn hóa Quỳnh Văn
tồn tại khoảng 5-6 ngàn năm trước.
Sự có mặt của văn hóa Quỳnh Văn cho thấy sự phong phú đa dạng của văn
hóa sơ kỳ thời đại đá mới nước ta. Cho đến lúc này cư dân văn hóa Hịa Bình-Bắc
Sơn chiếm cứ các thung lũng và đồng bằng hẹp trước núi, cư dân văn hóa Quỳnh
Văn với một truyền thống khác Hịa Bình-Bắc Sơn sinh sống trên vùng đồng bằng
ven biển Nghệ Tĩnh.
2.3. Văn hóa Đa Bút và trung kỳ đá mới
Từ vùng núi đá vơi, cư dân Hịa Bình tiến dần xuống khai thác vùng đồng
bằng sơng Mã hình thành nên văn hóa Đa Bút, một di tích văn hóa thuộc huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Văn hóa Đa Bút được người Pháp phát hiện từ thập kỷ 20. Trong những
năm gần đây, các nhà khảo cổ phát hiện thêm một số di tích mới như bản Thủy
làng Cịng thuộc huyện Vĩnh Lộc, cồn Cổ Ngựa thuộc huyện Hà Trung và Gò
Trũng thuộc huyện Hậu Lộc.
Đặc trưng nổi bật của văn hóa Đa Bút là tầng văn hóa được cấu tạo bởi đất
sét pha cát lẫn với nhiều vỏ ốc, vỏ hến nước ngọt.
Công cụ đá phát triển truyền thống đá cuội từ văn hóa Hịa Bình – Bắc Sơn
nhưng tiến bộ hơn. Từ rìu mài lưỡi cơng cụ được mài lan lên thân và kích thước
cũng được thu nhỏ lại, cho đến giai đoạn phát triển ở Gò Trũng đã xuất hiện rìu tứ
giác mài tồn thân. Ngồi rìu đá, đục đá trong văn hóa Đa Bút phát hiện được rất



nhiều chì lưới bằng đá cho thấy cư dân Đa Bút bên cạnh nghề nơng thì nghề đánh
cá ven sơng hồ rất phát triển với kỹ thuật đánh cá bằng lưới.
Đồ gốm ra đời trong lịng văn hóa Đa Bút. Đây là loại gốm thô pha nhiều
cát và bã thực vật nặn bằng tay, thành dày, độ nung thấp, hoa văn trang trí rất đơn
giản, chủ yếu là văn thừng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nếu như sự ra đời của
gốm trong văn hóa Hịa Bình – Bắc Sơn chưa được khẳng định chắc chắn, thì sự
có mặt của gốm thô Đa Bút là điều khẳng định. Gốm kiểu Đa Bút cịn phát hiện
được trong tầng văn hóa lớp dưới di tích Cái Bèo ở đảo Cát Bà, Hải Phịng.
Đáng chú ý là trong di tích Đa Bút thuộc loại hình Ốt-tra-lơ-nê-grơ-it song
nét Mơng-gơ-lơ-it khá nổi bật, khá giống với cư dân văn hóa Quỳnh Văn. Văn hóa
Đa Bút đã được định niên đại C14 ở các di tích Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa và Gò
Trũng cho kết quả là từ 5 đến 7 ngàn năm trước. Quá trình phát triển trên dưới hai
ngàn năm đó được phân thành 2 giai đoạn là giai đoạn Đa Bút và giai đoạn Gõ
Trũng.
Căn cứ vào trình độ phát triển của cơng cụ đá và đồ gốm, các nhà khảo cổ
xếp văn hóa Đa Bút vào trung kỳ thời đại đá mới.
Cũng tương đương với văn hóa Đa Bút các nhà khảo cổ người Pháp trước
đây cũng như các nhà khảo cổ nước ta trong những năm gần đây đã phát hiện
được một số di tích trong các hang động ở Hồnh Bồ và Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh
Quảng Ninh và đảo Cát Bà thuộc thành phố Hải Phịng.
Những di tích này được các nhà khảo cổ xếp vào nhóm di tích Soi Nhụ.
Trong đó có các di tích đáng chú ý như hang Thiên Tinh, hang Đồng Cẩu, hang
Đục do bà Colanie phát hiện và các hang Eo Bùa, hay Hà Lùng, mái đá Đồng
Đặng… được phát hiện gần đây.
Không những công cụ đá ở đây gần gũi với công cụ văn hóa Đa Bút mà
niên đại C16 trên 6 ngàn năm, 6 di tích Hà Lùng cũng nằm trong khung niên đại
văn hóa Đa Bút.
Như vậy là phải chăng văn hóa Đa Bút và nhóm di tích Soi Nhụ tiêu biểu

cho trung kỳ đá mới Việt Nam ở hai khu vực khác nhau: ven biển đông bắc và
đồng bằng ven biển Thanh Hóa.


2.4. Văn hóa Hạ Long
Văn hóa Hạ Long được phát hiện từ những năm trước đại chiến thế giới lần
thứ hai do Anderson và hai chị em bà Colanie, trong đó có những di tích khá nổi
tiếng như Ngọc Vừng, Xích Thổ, Đồng Mang đều thuộc tỉnh Quảng Ninh. Những
năm gần đây chúng ta đã phát hiện thêm nhiều di tích mới thuộc văn hóa này như
Thoi Giếng, Gị Mừng, Tuần Châu, Cọc Tám, hang Bái Tử Long thuộc Quảng
Ninh và di tích Cái Bè thuộc đảo Cát Bà, thành phố Hải Phịng…
Ngồi di tích hang Bái Tử Long tất cả các di tích văn hóa Hạ Long đều
thuộc loại hình cồn cát ven biển phân bố ở ven biển phân bố ở ven biển và hải đảo
Quảng Ninh, Hải Phịng.
Hiện vật đá trong văn hóa Hạ Long rất phong phú đa dạng, bao gồm các loại
rìu, đục, bàn ghè và bàn mài. Riêng rìu ở đây có đủ loại như rìu bơn xịe cân, rìu
bơn xịe lệch, rìu bơn có vai, rìu bơn tứ giác và đặc trưng hơn cả là rìu bơn có vai
có nấc. Bàn mài ở đây không những nhiều về số lượng mà chất lượng cũng khá
đặc biệt. Đó là loại bàn mài có nhiều rãnh lòng máng cắt nhau, mà một số nhà
khảo cổ trước đây gọi là “dấu Hạ Long”.
Đồ gốm văn hóa Hạ Long phần lớn thuộc loại xốp nhẹ màu xám hoặc hồng
nhạt, được làm bằng bàn xoay, mỏng, độ nung thấp. Hoa văn không thật phong
phú, bao gồm các loại văn thừng mịn, văn đắp nổi, văn trổ lỗ, văn khắc vạch hình
làn song, hình chữ S nối đi nhau …
Trong hang Bái Tử Long phát hiện được một ngôi mộ chôn theo tư thế nằm
thẳng, đầu quay vào trong, xương rắc thổ hồng đỏ. Trong mộ có chơn theo một số
vàng và hạt chuỗi bằng vỏ sò, ốc, trai, xương trước đây đã được E.Patte phát hiện
trong hang Minh Cầm ở Quảng Bình và cũng có mặt ở nhiều di tích thuộc Đơng
Nam Á như Thái Lan, Philippines.
Phần đơng các nhà khảo cổ xếp văn hóa Hạ Long vào hậu kỳ thời đại đá

mới. Dựa vào niên đại C14 ở di tích Gị Mả Đống ở Hà Tây (cũ) - là di tích có một
số yếu tố của văn hóa Hạ Long, có thế nghĩ đến một niên đại 4.500 năm trước đây
cho văn hóa này.


Về đồ đá cũng như đồ gốm văn hóa Hạ Long có những đặc trưng riêng dễ
dàng phân biệt với các văn hóa đồng thời trên đất nước ta, song nó lại có nhiều
yếu tố gần gũi với văn hóa hậu kỳ thời đại đá mới vùng duyên hải đông nam Trung
Quốc như Quảng Đông, Phúc Kiến cũng như Đài Loan, Philippines. Phải chăng,
ngay từ thời kỳ hậu đá mới, miền dun hải đơng bắc nước ta có mối quan hệ văn
hóa khăng khít với miền dun hải đơng nam Trung Quốc và một số đảo ngồi
khơi Thái Bình Dương.
2.5. Văn hóa Bàu Tró
Trước năm 1945, trong một số thơng báo của người Pháp có nhắc đến phát
hiện di tích Cầu Giát của bà M.Colanie ở Nghệ An, di tích Đức Lâm ở Hà Tĩnh
của H.Breton và di tích Bàu Tró, Minh Cầm ở Quảng Bình của E.Patte. Trong đó
di tích Bàu Tró là phong phú hơn cả.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã phát hiện và khai quật nhiều di tích
thuộc văn hố Bàu Tró như Thạch Lạc, Thạch Lâm, Rú Ngoèn, Cồn Lối Mốt, bãi
Phôi Phối ở Hà Tĩnh, Ba Đồn I, Ba Đồn II, cồn Nền ở Quảng Bình… Có thế nói
văn hố Bàu Tró phân bố ở vùng trung du và đồng bằng ven biển Hà Tĩnh, Quảng
Bình.
Đặc trưng nổi bật của văn hố Bàu Tró là phần lớn các di tích thuộc loại
hình di tích Cồn Sị Điệp và loại hình di tích Cồn Cát, chỉ một ít di tích ở trong
hang động đá vơi.
Đồ đá rất phong phú, chủ yếu là rìu, đục và bàn mài. Rìu bao gồm rìu có vai
và rìu tứ giác, mặt cắt ngang hình bầu dục. Rìu đã được mài tồn thân, song trên
thân cịn lưu lại nhiều vết gị sâu, lưỡi rìu khơng được sắc lắm. Vì chất liệu phần
lớn rìu được chế tạo từ loại đá xanh, độ cứng khơng cao lắm, một số ít được chế
tạo từ đá lửa như trong di tích Bàu Tró. Bàn mài nhiều và phần lớn thuộc loại có

rãnh lõm, lịng máng cắt nhau.
Đồ gốm trong văn hóa Bàu Tró thuộc loại gốm mịn, chắc màu đỏ tươi, được
làm bằng bàn xoay, gốm tương đối mỏng, độ nung tương đối cao, hoa văn khá
phong phú. Ngoài văn thừng, văn khắc vạch thành các đường song song, làn sóng,


hình đa giác… trong văn hóa Bàu Tró có một số lượng nhất định gốm tơ màu đỏ
đơn giản. Có thể nói gốm tơ màu văn hóa Bàu Tró là loại gốm tô màu sớm nhất ở
nước ta. Phải chăng từ gốm tơ màu Bàu Tró phát triển thành gốm tơ màu văn hóa
Sa Huỳnh sau này.
Mộ tang trong văn hóa Bàu Tró phát hiện được khơng nhiều, ngồi một vài
ngôi mộ ở Thạch Lâm, Thạch Lạc. Mộ được chôn ngay nơi di chỉ cư trú, tử thi
được chôn theo tư thế nằm ngửa, chân tay duỗi thẳng, ở gần ngực được chơn theo
một vài lưỡi rìu đá.
Hầu hết các nhà khảo cổ đều xếp văn hóa Bàu Tró vào hậu kỳ thời đại đá
mới, và có thể sớm hơn văn hóa Hạ Long chút ít. Với những đặc trưng riêng trong
sự thống nhất chung văn hóa Bàu Tró có thể bao gồm hai loại hình địa phương:
loại hình Thạch Lạc ở phía Bắc và loại hình Bàu Tró ở phía Nam. Dựa trên hoa
văn đồ gốm và sự diễn biến văn hóa ở các di tích phía nam và bãi Phơi Phối, các
nhà khảo cổ đều nhất trí cho rằng: văn hóa Quỳnh Văn phát triển dần thành văn
hóa Bàu Tró và một phổ hệ Quỳnh Văn - phía nam - bãi Phôi Phối lớp dưới - bãi
Phôi Phối lớp trên được xác lập.
Như vậy là cùng với văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró đã góp phần làm
sáng tỏ giai đoạn phát triển thời đại đá mới ở miền Bắc Trung bộ, và cũng cho
thấy sự phát triển không đồng đều trong thời đại đá mới giữa miền Bắc Bộ - Thanh
Hóa và miền Bắc Trung bộ.
2.6. Văn hóa thời đại kim khí tiền Đơng Sơn đến Đông Sơn
Vào khoảng 4000 năm trước, trên cơ sở phát triển cao của kỹ thuật chế tạo
công cụ đá, hàng loạt công cụ cuốc xới, đào bới ra đời thúc đẩy nền nông nghiệp
phát triển. Đặc biệt với sự ra đời của kỹ thuật luyện kim đồng rồi sắt, khắp mọi

miền cư dân dần tiến ra khai thác vùng đồng bằng phì nhiêu của các lưu vực sơng
từ sơng Hồng, sơng Mã và sơng Cả ở phía Bắc cho đến sơng Đồng Nai, sơng Vảm
Cỏ ở phía Nam, càng thúc đẩy nền nông nghiệp trồng lúa nước phát triển.
Trên cơ sở đó, trên đất nước ta đã hình thành 3 trung tâm văn hóa khảo cổ
thời đại kim khí, đó là:


- Trung tâm văn hóa tiền Đơng Sơn và Đơng Sơn ở phía Bắc
- Trung tâm văn hóa tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh ở miền Trung
- Trung tâm văn hóa lưu vực sơng Đồng Nai ở phía Nam.
III. Văn hóa tiền Đơng Sơn và Đơng Sơn
3.1. Văn hóa tiền Đông Sơn
Vào thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ trước, các nhà khảo cổ người Pháp và
phương Tây đã đào và thu lượm được một số lượng lớn công cụ vũ khí, nhạc khí
bằng đồng trên lưu vực sơng Hồng và sông Mã. Dựa vào sự giống nhau về kiểu
dáng và hoa văn đồ đồng, các nhà khảo cổ thống nhất xếp các di tích và di vật đó
vào trong một nền văn hóa chung: Văn hóa Đơng Sơn.
Từ năm 1959 với việc phát triển và khai quật di tích Phùng Nguyên thuộc
huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ, lần đầu tiên một di chỉ sơ kỳ thời đại đồ đồng
được biết đến trên lưu vực sông Hồng, mở đầu cho việc phát hiện hàng loạt di tích
tiền Đơng Sơn trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Qua việc phân tích kỹ thuật chế tạo, kiểu dáng loại hình, hoa văn đồ gốm và
đồ đồng, các nhà khảo cổ nhận thấy một q trình diễn biến văn hóa liên tục từ
Phùng Nguyên đến Đông Sơn trên lưu vực sông Hồng. Trên tiến trình phát triển
văn hóa đó thường được phân chia làm 4 giai đoạn phát triển.
- Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên
- Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu
- Giai đoạn văn hóa Gị Mun
- Giai đoạn văn hóa Đơng Sơn
Mỗi giai đoạn có những đặc trưng văn hóa riêng đánh dấu cho một bước

phát triển. Ba giai đoạn văn hóa Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun là những giai
đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của văn hóa Đông Sơn, thường được gọi là tiền Đông
Sơn.
- Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên là giai đoạn văn hóa mở đầu cho thời
đại đồng thau. Tiêu biểu cho giai đoạn này ngồi di chỉ Phùng Ngun cịn có
nhiều di chỉ nổi tiếng khác như Xóm Rền, An Đạo, Đồi Giàn, Gò Bây, Dậu


Dương, Gị Chè thuộc tỉnh Phú Thọ, Nghĩa Lập, Đơn Nhân, Lũng Hòa, Đồng Đậu
(lớp dưới), Thành Dầu, Tháp Miếu thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, Đồng Vông, Văn Điển,
Xuân Kiều thuộc thành phố Hà Nội, Chùa Gio, Kim Ngọc, Đồng Dần (lớp dưới),
Từ Sơn, Bãi Miếu, Bãi Tư thuộc tỉnh Bắc Ninh…
- Những di tích này chủ yếu phân bố trên các doi đất cao hoặc đồi thấp, ven
các dịng sơng. Người Phùng – Nguyên đã đưa kỹ thuật chế tác đá nguyên thủy lên
đỉnh cao, sử dụng thành thạo kỹ thuật của khoan mài. Đặc trưng của đồ đá Phùng
Nguyên là kích thước tương đối nhỏ, bên cạnh cơng cụ bằng đá bazan có khá
nhiều cơng cụ và vịng trang sức bằng đá Nê-phrit và Si-lic màu rất đẹp. Rìu đá
gần như tồn bộ là rìu tứ giác, cực hiếm rìu có vai.
Một đặc trưng nổi bật của đồ đá Phùng Nguyên là phong phú đồ trang sức
có màu đẹp, ngồi vịng tay có nhiều khun tai, nhẫn, ỗng chuỗi, hạt chuỗi. Vịng
tay có nhiều loại, nhưng nhiều nhất là vịng có mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt và
hình chữ D. Có vịng tay được chế tác phức tạp, có mặt cắt ngang hình chữ T hoặc
có các đường ren chạy quanh.
Đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên cũng đạt đến đỉnh cao, ngồi gốm thơ pha
cát mịn, cịn có gốm mịn cứng đều được chế tạo bằng bàn xoay, da gốm mỏng đều,
độ nung cao. Hoa văn trang trí cực kỳ phong phú như văn thừng mịn, văn chải,
văn in cuống nụ, văn khắc vạch hình kỷ hà, nhưng tiêu biểu hơn cả là loại hoa văn
khắc vạch chấm giải tạo thành những đồ án đối xứng đẹp mắt.
Về loại hình có các loại nồi, vị thành miệng dày, bát, mâm bồng chân đế
cao, và lần đầu tiên xuất hiện chạc gốm là loại hiện vật chưa rõ công dụng song

được các nhà khảo cổ xem là hiện vật tiêu biểu của người Việt cổ. Đồ gốm cũng
như chạc gốm Phùng Nguyên thường có xu hướng cao, gầy.
Trong giai đoạn Phùng Nguyên, đồ đồng mới xuất hiện còn rất hiếm hoi, chỉ
thấy ở một vài di tích như Gị Bơng, Xóm Rền và cũng ở dạng xỉ đồng nhỏ, tiêu
biểu cho giai đoạn mở đầu thời đại đồng thau Việt Nam.
Trong văn hóa Phùng Nguyên đã phát hiện được một số mộ táng, phong phú
và tiêu biểu hơn cả là khu mộ ở di tích Lũng Hịa. Người Phùng Nguyên chôn
người chết trong mộ địa theo phương hướng gần giống nhau, theo tư thế nằm


ngửa, chân tay duỗi thẳng. Huyệt mộ có hình chữ nhật, trong đó một số được đào
thành bậc cấp. Trong mộ thường chơn theo nồi, bát gốm, rìu đục đá và đồ trang
sức bằng đá. Có mộ được chơn theo 3 chạc gốm giống nhau có xương hàm lợn.
Vật tùy táng trong các mộ nhiều ít khác nhau song khơng cách biệt nhau lắm.
Các nhà khảo cổ đều cho văn hóa Phùng Ngun mở đầu cho một q trình
phát triển văn hóa thời đại kim khí trên lưu vực sơng Hồng, có niên đại vào
khoảng 3500 đến 4000 năm trước.
- Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu tiếp nối giai đoạn văn hóa Phùng Ngun.
Ngồi di chỉ Đồng Đậu (lớp giữa) cịn có các di tích Đồng Đậu con, Nội Gan (lớp
dưới), Gò Miễn, Mã Lao thuộc tỉnh Phú Thọ, Thành Dầu tỉnh Vĩnh Phúc, Đồng
Dền, Vườn Chuối, Đồi Đà, Mão Sơn, thuộc tỉnh Hà Tây (cũ), Bãi Mèn, Đình
Tràng (lớp dưới), Tiên Hội thuộc thành phố Hà Nội, Từ Sơn (lớp trên), Tân Hồng
thuộc tỉnh Bắc Ninh, Đồng Lâm (lớp dưới) thuộc tỉnh Bắc Giang.
Văn hóa Đồng Đậu có đặc trưng riêng về đồ đá và đồ gốm. Về đồ đá, các
loại rìu, bơn, đục, bàn mài, về cơ bản vẫn giống với văn hóa Phùng Ngun, song
loại hình gần vng giảm đi, loại rìu dài, mỏng tăng lên. Loại vịng tay mặt cắt
ngang hình chữ nhật dẹt giảm đi nhiều, cả vịng mặt cắt ngang hình tam giác lớn
và hình chữ D tăng lên nhiều và được xem la loại vịng đặc trưng của văn hóa
Đồng Đậu. Loại hoa tai vuông 4 mấu và xuất hiện loại ống chuỗi hình gối quạ.
Đồ gốm Đồng Đậu dày hơn, cứng hơn, phần lớn có màu xám. Hoa văn tiêu

biểu là loại chuỗi khng nhạc thành các đồ án làn sóng, hình chữ S nối đi
nhau, hình sâu đo, hình số 8, văn thừng bện… Về kiểu dáng vẫn là nồi, vò, bình
bát, song khơng thấy các loại hạt mâm bồng chân cao, vị miệng thành dày. Chạc
gốm và đế hình vành khăn thấy lùn hơn trước.
Đến giai đoạn Đồng Đậu, đồ đồng đã khá phát triển và có đặc trưng riêng
như rìu xịe cân, dũa 4 góc nhọn, cạnh thẳng hoặc lõm vào, dũa 2 góc vng 2 góc
trịn… Bên cạnh đồ đồng cịn có nhiều khn đúc bằng đất nung và bằng đá.
Ở di tích Đồng Đậu đồ xương khá phong phú, ngồi mũi tên, mũi nhọn cịn
có cả vịng xương cỡ lớn.


Niên đại C14 ở di chỉ Vườn Chuối cho thấy văn hóa Đồng Đậu có tuổi vào
khoảng 3000 đến 3500 năm trước.
- Giai đoạn văn hóa Gị Mun nối tiếp với giai đoạn văn hóa Đồng Đậu.
Ngồi di tích Gị Mun và có các di tích tiêu biểu như: Gị Chiềm, Gò Gai, Gò Tro
trên, Gò Tro dưới, Gò Ghệ Mã Lao thuộc tỉnh Phú Thọ, Đồng Đậu (lớp dưới) Núi
Cả, Thành Dền thuộc tỉnh Vĩnh Phúc; Vinh Quang (lớp dưới), Chiếng Vậy, Hồng
Ngơ, Phượng Cách, Đồi Đà (lớp trên), Đại Áng thuộc tỉnh Hà Tây (cũ), Đình
Tràng (lớp trên), Chùa Thông thuộc thành phố Hà Nội; Nội Giềm (lớp dưới), Lãng
Ngâm (thuộc tỉnh Bắc Ninh); Đông Lâm (lớp trên) thuộc tỉnh Bắc Giang…
- Đến giai đoạn văn hóa Gị Mun, đồ đá, đồ gốm và đồ đồng có bước
chuyển biến quan trọng. Đồ đá về số lượng cũng như loại hình có sự giảm sút
đáng kể. Rìu bơn và vịng trang sức khơng nhiều. Khun tai 4 nấm phức tạp hơn
và xuất hiện khuyên tai vành khăn dẹt, mặt cắt ngang hình thang vng.
Đồ gốm thành dày, độ nung khi gõ kêu như sành. Hoa văn trang trí hình học
hóa với các đường gấp khúc, đồ án hoa văn hình tam giác, hình bình hành, hình
trịn, hình chữ S, bắt đầu xuất hiện hoa văn khắc hình chim cá. Về kiểu dáng, nổi
bật hơn cả là loại nồi và miệng gãy gập ra phía ngồi, trên thành và gờ miệng
trang trí hoa văn khắc vạch. Các loại chân đế hình vành khăn thấp lùn, chạc gốm
có chân đế hình rùa phổ biến.

Đến giai đoạn này đồ đồng phát triển mạnh, nhiều về số lượng, phong phú
về loại hình. Ngồi các loại mũi tên hình cánh én, lưỡi câu, mũi nhọn đã xuất hiện
thËm loại giáo búp đa, rìu xéo và lưỡi hái.
Có thể nói văn hóa Gị Mun thuộc giai đoạn phát triển của thời đại đồng
thau chuẩn bị cho sự ra đời của văn hóa Đơng Sơn, có niên đại vào khoảng từ
3000 năm đến 2000 năm trước.
Trên lưu vực sông Mã trong những năm vừa qua cũng đã phát hiện được
hàng chục di tích thời đại kim khí. Qua kiểu dáng và hoa văn đồ gốm, đồ đá và đồ
đồng cũng thấy một quá trình diễn biến văn hóa từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ
kỳ thời đại sắt, qua các giai đoạn sau:
- Giai đoạn Đông Khối


- Giai đoạn Thiệu Dương lớp dưới
- Giai đoạn Đông Sơn lớp mộ sớm
- Giai đoạn văn hóa Đơng Sơn.
Q trình diễn biến văn hóa ở đây cũng giống như 4 giai đoạn phát triển văn
hóa trên lưu vực sơng Hồng.
- Giai đoạn Đơng Khối, ngồi di chỉ Đơng Khối cịn có các di tích tiêu biểu
như Bãi Man, Cồn Chân Tiên, Cồn Cấn (lớp dưới). Đồ đá ở những di tích này rất
gần gũi với văn hóa Phùng Ngun về kỹ thuật chế tạo cũng như loại hình, song
kỹ thuật của đá cũng ít được sử dụng hơn. Ở đây cũng sử dụng kỹ thuật khoan tách
lõi làm vòng trang sức, và cũng hồn tồn vắng mặt rìu có vai. Có một số cơng cụ
và đồ trang sức làm bằng đá Nê-phrit có màu sắc đẹp. Song trong giai đoạn Đông
Khối, đồ trang sức không phong phú bằng văn hóa Phùng Nguyên, tuy kiểu dáng
khá giống nhau.
- Đồ gốm cũng thuộc loại gốm thơ, mỏng, ngồi có lớp áo song hoa văn thì
đơn giản, gốm văn hóa Phùng Ngun nhiều và cũng có khá nhiều chạc gốm.
Chưa phát hiện được đồ đồng. Rõ rang giai đoạn Đông Khối tương đương và có
quan hệ khăng khít với văn hóa Phùng Nguyên trên lưu vực sông Hồng.

- Giai đoạn Thiệu Dương lớp dưới cịn có các di tích Đồng Ngần (lớp dưới),
Xóm Rú và Đan Nê…
Trong giai đoạn này vẫn tồn tại một số lượng nhất định rìu tứ giác và mũi
tên hình cánh én giống giai đoạn trước.
Đồ gốm thì có những khác biệt nhất định về màu sắc và hoa văn trang trí.
Đến giai đoạn này đồ gốm trở nên thơ dày, trang trí hoa văn trải kiểu khng nhạc
thành các hình xốy ốc, hình sóng nước, hình số 8 giống với gốm hoa văn hóa
Đồng Đậu, nhưng khơng phong phú bằng.
Đáng chú ý là ở giai đoạn này chưa phát hiện được hiện vật đồng.
Về trình độ, hầu hết các nhà khảo cổ đều xếp giai đoạn Thiệu Dương lớp
dưới tương đương với giai đoạn văn hóa Đồng Đậu trên lưu vực sông Hồng.


- Giai đoạn lớp mộ sớm di tích Đơng Sơn. Cũng thuộc giai đoạn này cịn có
các di chỉ Thiệu Dương (lớp giữa), Quỳ Chử (lớp sớm), Núi Nấp (lớp dưới), Đồng
Ngầm (lớp trên) và Hoàng Lý (lớp sớm).
- Đến giai đoạn này đồ đá rất hiếm hoi. Rìu đá hầu như khơng cịn. Đá chỉ
được dùng chế tạo vịng trang sức, mà tiêu biểu là loại hoa tai dẹt chế tạo bằng đá
xanh có mặt cắt ngang hình thang vng.
Đồ gốm giai đoạn này có những nét rất đặc biệt: gốm thơ, độ nung cao,
xương gốm xám, mặt ngồi màu xám bạc hay phớt hồng. Về kiểu dáng có loại nồi
thành miệng lõm lịng máng, trang trí hoa văn khắc vạch thành nhóm, bình nhỏ,
bụng dẹt vai rộng. Đáng chú ý là có mặt một loại nồi kiểu minh khí có hình dáng
giống trống đồng loại I Hê-gơ. Chân chạc gốm giai đoạn này khá đặc trưng như
chạc gốm khơng có cựa hoặc cựa rất thấp, chân đế khơng xòe rộng, cựa dài.
Hoa văn đồ gốm phong phú hơn các giai đoạn trước, song so với lưu vực
sông Hồng thì ít hơn về số lượng và họa tiết, chủ yếu là khắc vạch thành những đồ
án đơn giản có tính chất hình học.
Đồ đồng đã xuất hiện song khơng nhiều, có các loại dáo búp đa, dao cắt xén
hình sừng trâu, rìu xịe, cân, họng đi cá, búa đồng, lao ngạnh, mũi nhọn. Cho

đến giai đoạn này chưa thấy xuất hiện hiện vật đồng điển hình của văn hóa Đông
Sơn.
Phát hiện được nhiều mộ táng trong giai đoạn này. Mộ thường chôn trong
khu cư trú, phương hướng gần giống nhau và chơn theo một số đồ gốm, trong đó
có cả gốm minh khí.
Giai đoạn này tương đương với giai đoạn văn hóa Gị Mun trên lưu vực
sơng Hồng. Trong một số di chỉ như Đơng Sơn, Quỳ Chử, Hồng Lý, chúng ta đã
phát hiện được một số mảnh gốm mà về chất liệu cũng như hoa văn hoàn toàn
giống với gốm Gò Mun. Rõ ràng giai đoạn này là bước chuẩn bị để phát triển
thành văn hóa Đơng Sơn.
3.2. Văn hóa Đơng Sơn


Văn hóa Đơng Sơn được phát hiện từ trước năm 1945 cho đến nay đã phát
hiện được trên một trăm địa điểm phân bố ở hầu khắp các tỉnh miền Bắc cho tới
Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó có nhiều di chỉ cư trú và mộ táng quan trọng như
Bát Xát ở Lào Cai, Đào Thịnh ở Yên Bái, Làng Cả, Gò De, Vạn Thắng ở Phú Thọ;
Vinh Quang, Đường Cồ, Châu Can, Nam Chính, Phú Lương, Ước Lễ, Thọ Vực ở
Hà Tây (cũ), Trung Mầu, Chùa Thông, Đường Mây, Xóm Nhồi, Đình Tràng (mộ
táng) ở thành phố Hà Nội; Nội Gầm, Quả Cam, Vườn chiền, Đại Lải, Bãi Giữa,
Đông Hoàng, Nương Dâu ở tỉnh Bắc Ninh; … Việt Khê, Thủy Tú, Núi Đèo, Đồng
Dù, Núi Voi thuộc thành phố Hải Phịng; Nghĩa Vũ, La Đơi, Tân Quang thuộc tỉnh
Hải Dương, Yên Tử ở Hà Nam; Đông Sơn, Thiệu Dương, Đồng Ngầm, Quỳ Chử,
Núi Nấp, Bia Tê, Cồn Cấu, Núi Sỏi, Núi Chè ở Thanh Hóa; Làng Vạc, Đồng
Mõm, Xóm Đình, Núi Tám ở Nghệ An; Xuân An, Núi Dầu, Thạch Đài, Dăm Tẩu
ở Hà Tĩnh; Bàu Khê, Chù Lưu, Khương Hà ở Quảng Bình…
Tuy phân bố rộng rãi như vậy, song đều có những đặc trưng gần nhau. Các
di chỉ chủ yếu phân bố ở trung du và đồng bằng, ở vùng núi chúng chỉ phân bố ven
các dòng sơng lớn. Tầng văn hóa khá dày, hiện vật cực kỳ phong phú.
Cho đến văn hóa Đơng Sơn, đồ đá hồn tồn vắng mặt, một số đồ trang sức

như vịng tay, hoa tai trước đây làm bằng đá, nay cũng chuyển sang làm bằng
đồng.
Đồ đồng Đông Sơn phong phú độc đáo, chủ yếu là hợp kim đồng, thiếc, chì,
hàm lượng chì tương đối cao. Trình độ luyện kim đồng đã đạt đến đỉnh cao, có thể
đúc được những vật to lớn, hoa văn phong phú.
Nếu ở giai đoạn trước đồ đồng hầu như khơng có hoa văn thì đến văn hóa
Đơng Sơn bên cạnh hoa văn kỷ hà tiếp nối truyền thống hoa văn gốm các giai
đoạn trước, đã xuất hiện hình tượng động vật như chim, cá, hươu, nai, trâu, bò…
và cảnh hội hè sinh hoạt của cộng đồng lúc bấy giờ như cảnh múa hát, đánh trống
bơi thuyền, nhà sàn… Đồ đồng không những nhiều về số lượng mà cực kỳ phong
phú về loại hình. Như về cơng cụ có rìu, cuốc, đục, thuổng, lưỡi cày, lưỡi hái, vũ
khí thì có đủ các loại giáo, dao găm, kiếm, lao, nhạc khí có trống đồng, chng,
lục lạc với đồ dùng hàng ngày như thạp, thố, khóa, thắt lưng, bình, bát, muỗm…


Chỉ riêng rìu có đủ loại từ rìu tứ giác, rìu xịe cân, đến rìu xéo gót trịn, rìu xéo gót
vng, rìu xéo hình bàn chân… Dao găm có loại cán trịn, cán hình củ tỏi, cán
tượng người… Trống đồng Đông Sơn được các học giả quốc tế xem là trống đồng
đẹp nhất và xưa nhất trên thế giới, cũng có nhiều kiểu loại khác nhau, có loại trống
trên mặt có tượng cóc, có loại khơng, hoa văn có loại phong phú, hiện thực, có loại
đơn giản, cách điệu.
Đồ gốm văn hóa Đơng Sơn ở mỗi vùng có phong cách riêng như lưu vực
sông Hồng chủ yếu là gốc xám mốc, văn nhãn tổ ong thường được gọi là “gốm
Đường Cổ” ở lưu vực sơng Mã thì gốm có màu hồng nhạt, kiểu dáng gần với giai
đoạn sớm nơi đây; Song nhìn chung đến văn hóa Đơng Sơn hoa văn gốm đơn
giản, nghèo nàn. Chạc gốm dần thối hóa, xuất hiện loại chạc gốm đặc.
Đến giai đoạn cuối văn hóa Đông Sơn đã xuất hiện đồ sắt như ở các di tích
Đơng Sơn, Đường Mây, Chiền vây, Đường Cồ, chủ yếu là lưỡi cuốc lõm giữa lắp
vào cán gỗ.
Đồ sắt trong văn hóa Đơng Sơn phát hiện được khơng nhiều, song sự xuất

hiện của sắt chứng tỏ nếu không phải tồn bộ thì một phần văn hóa Đơng Sơn
thuộc giai đoạn đồ sắt.
Đã phát hiện được nhiều mộ địa lớn thuộc văn hóa Đơng Sơn như Làng Cả,
Vinh Quang, Gị De, Thiệu Dương, Đông Sơn, Quỳ Chử, Núi Nấp, Phú Lương,
Châu Can, Làng vạc…
Mộ Đông Sơn phong phú với nhiều kiểu chơn khác nhau như mộ vị, mộ
đất, mộ chơn trong thạp, mộ quan tài hình thuyền… cho thấy tính chất đa dạng của
văn hóa Đơng Sơn.
Trong các khu mộ lớn, sự khác biệt về kích thước quan tài, số lượng và loại
hình hiện vật tùy táng giữa các ngơi mộ đã khiến các nhà khảo cổ nhận định là đến
giai đoạn văn hóa Đơng Sơn, đã đã có sự khác biệt khá lớn giữa các chủ nhân ngôi
mộ. Mộ chứa hiện vật phong phú như loại mộ Việt Khê khơng nhiều, mộ khơng
chơn theo hiện vật hoặc chỉ có vài ba đồ gốm không nhiều, phần lớn là mộ trung
bình, chơn theo mươi hiện vật, trong đó có vài hiện vật bằng đồng. Điều này phản


ánh xã hội thời văn hóa Đơng Sơn đã có sự phân hóa khá mạnh, nhưng khơng thật
sâu sắc.
Có thể nói, đến văn hóa Đơng Sơn ở vào giai đoạn cao nhất của thời đại
đồng thau bước sang thời đại đồ sắt, nền kinh tế nông nghiệp rất phát triển, thúc
đẩy xã hội, văn hóa nghệ thuật phát triển. Con người đã chú ý đến làm đẹp cho
mình, xuất hiện nhiều loại đồ trang sức đẹp, quý như bao tay, bao chân trang trí
đẹp, vịng tay đủ kiểu loại. Về nghệ thuật đã phát triển một cách toàn diện từ nghệ
thuật tạo dáng, tạo hình đến nghệ thuật trang trí theo kiểu vòng tròn, băng ngang…
Đã xuất hiện một số tượng tròn như tượng người ngồi, tượng người cõng nhau,
tượng hai người múa, đáng chú ý là sự kết hợp hài hịa giữa tính nghệ thuật và tính
thực dụng trong nghệ thuật Đơng Sơn như cán dao găm hình người, khóa thắt lưng
hình nhiều con rùa.
Nghệ thuật trang trí đến giai đoạn Đơng Sơn có thể nói đạt đến tuyệt đỉnh.
Những hình khắc trên mặt trống đồng, thạp đồng, trên tấm thạp che ngực, che lưỡi

giáo, lưỡi rìu xéo… thật là phong phú, hài hòa, hiện thực sinh động
Xã hội văn hóa Đơng Sơn dựa trên nền tảng kinh tế phát triển lấy nơng
nghiệp lúa nước làm chính, có một nền văn hóa phong phú, độc đáo, đậm đà sắc
thái riêng.
Đối chiếu với truyền thuyết về thời Hùng Vương mà mỗi người dân Việt ít
nhiều cịn giữ những hình ảnh sâu đậm trong lịng có sự phù hợp với trình độ kinh
tế, xã hội, văn hóa của cư dân văn hóa Đơng Sơn.
Văn hóa Đơng Sơn đã được xác định niên đại C14 là vào khoảng thế kỷ VII
trước công ngun. Và như vậy, niên đại văn hóa tiền Đơng Sơn và Đơng Sơn
cùng phù hợp với q trình hình thành nước Văn Lang và Âu Lạc của các Vua
Hùng và An Dương Vương trong truyền thuyết.
Về địa vực phân bố của văn hóa Đơng Sơn là lưu vực sơng Hồng, lưu vực
sông Mã, sông Cả, cũng là địa vực phân bổ của người Việt cổ và cũng là vùng cho
đến những năm gần đây còn giữ được nhiều di tích và truyền thuyết về thời dựng
nước của người Việt.


Vì vậy, hầu hết các nhà khảo cổ học, sử học đều nhất trí cho rằng văn hóa
Tiền Đơng Sơn và Đơng Sơn là văn hóa vật chất phản ánh quá trình dựng nước
đầu tiên của người Việt: Thời Hùng Vương và An Dương Vương. Dựa trên cơ sở
thành tựu của khảo cổ học kết hợp với những sử liệu ghi chép về giai đoạn này (cổ
sử Trung Hoa) và thành tựu Dân tộc học, Phơn-cơ-lo học, người ta có thể phác họa
được văn hóa giai đoạn sơ sử của người tiền Việt ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ nước
ta. Vấn đề này sẽ được trình bày ở chuyên đề tiếp theo.



×