Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch: Giải thích ý nghĩa các loài thực vật, động vật được đặt và trang trí trong các công trình kiến trúc tôn giáo tại Việt Nam ( Đình, Chùa, Đền, Phủ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.24 KB, 20 trang )

Mơn: Nghiệp vụ Hướng Dẫn Du Lịch
Đề tài: Giải thích ý nghĩa các loài thực vật, động vật được đặt và trang trí
trong các cơng trình kiến trúc tơn giáo tại Việt Nam ( Đình, Chùa, Đền, Phủ).

Trong di sản quý báu Việt Nam từ những thế kỷ xưa còn truyền bá cịn một
phần quan trọng và phong phú đó là nghệ thuật điêu khắc với một lịch sử phát triển
và cơ đúc. Hình ảnh của con người Việt Nam từng thời dưới dạng thần linh hay con
người thế tục chứng tích về nền điêu khắc cổ. Một phần hiện vật sưu tầm tầm tại
các viện bảo tàng, một phần khác là những tài liệu gắn liền với các di tích kiến trúc
cổ nằm rải rác ở nhiều nơi trong nước đặc biệt là ở một số các lăng mộ, đình, chùa,
miếu. Người nghệ sĩ xưa kia với bàn tay khéo léo làm ra biết bao cơng trình nghệ
thuật điêu khắc tinh xảo những gì chúng ta cịn lại nhìn đến ngày nay một phần nhỏ
và khơng được tồn vẹn kho tắc điêu khắc Việt cổ. Bởi sự khắc nghiệt của thời
gan, thên tai địch hoạ đôi khi là do sự bất cẩn của con người nhiều sáng tạo huy
hoàng đã bị chôn vùi, hủy hoại ngay từ thời tiền sử Việt Nam đã có hoạt động sáng
tạo mang tính điêu khắc đến nền văn hóa Đơng Sơn thì đã hình thành những tư duy
nghệ thuật hình khối rõ ràng như các trống đồng Đơng Sơn đã hình thành tư duy
nghệ thuật hình khối rõ ràng như các trống đồng, điêu khắc nhỏ như các dồ tế khí.
Đặc điểm nổi bật của các cơng trình kiến trúc xưa là hnhf ánh hết sức sinh động
những hoạt động văn hóa dân gian, cung đình, tín ngưỡng được bố trí nhịp nhàng
với thiên nhiên xung quanh quanh tính hiện thực giản dị khơng trau chuốt, tính lạc
quan hồn hậu, sự gắn bó cuộc sống, tính trang trí nhịp nhàng trong một bao qt
vững chãi, sự hài hóa tìm trong những đối lập v.v... Trong các loại hình điêu khắc
có ba mảng chính đó là: điêu khắc Phật Giáo bắt đầu phát triển mạnh từ thời nhà
Lý khi Phật Giáo trở thành quốc đạo và phát triển các trung tâm Phật Giáo ở
Quảng Ninh, Hà Nam và đặc biệt ở Bắc Ninh được xây dựng đồ sộ theo kiến trúc
1


Đông Nam Á kéo theo một nền điêu khắc Phật Giáo. Nói đến nền điêu khắc Phật
Giáo được hình tành từ rât sớm chạm khắc gỗ là hình thức nghệ thuật mang tính kế


thừa mang tính truyền thống đượ phổ biến trong các trang trí ở ngơi chùa và đình
làng. Hội tụ sáng tạo của các nghệ nhân dân gian, cham khắc gỗ xuất hiện từ đầu
công nguyên , phát triển mạnh từ đời Lý Trần cho đến ngày nay. Các kỹ thuật chạm
chủ yếu là chạm bong, chạm lọng, chạm nổi. Điêu khắc đá phát triển tại vì ở Việt
Nam có nhều mỏ đá, nhiều chủng loại đá khác nhau, vì thế việc sử dụng đá ở các
cơng trình kiến trúc là rất phổ biến. Xưa nay việc chạm khắc đá được dùng nhiều
nhất trong việc tạc tượng bất kể là tượng người, tượng động vật hay các hoa văn
trong đền chùa. Sở dĩ đá được sử dụng như vậy vì đá có chất liệu, độ bền cao, chịu
đượ nhiều loại thời tiết khắc nghiệt vả lại bản thân đá đã có màu sắc tự nhiên vừa
hoang sơ, vừa sinh động, nên con người không nhất dịnh phải sơn son thiếp vàng
cho nó nữa
Trang trí là một loại hình của nghệ thuật tạo hình, có khả năng biểu hiện tư
tưởng, tình cảm, thẩm mỹ của cả một cộng đồng, dân tộc. Bằng nghệ thuật cách
điệu, tượng trưng hóa các đối tượng như tự nhiên, cây cỏ, động vật… đã tạo thành
các mơ típ trang trí. Người nghệ nhân xưa đã sáng tạo, tiếp thu và sử dụng nhiều
mơ típ trang trí khác nhau. Các mơ típ trang trí có ý nghĩa và biểu tượng với rất
nhiều lớp nghĩa phong phú. Việc tìm hiểu và giải mã chúng cho phép chúng ta tìm
hiểu về tư duy, quan niệm và thẩm mỹ của người xưa.Trong điêu khắc trang trí
đình làng, các mơ típ trang trí có ý nghĩa và biểu tượng gồm 3 chủ đề chính:
• Thiên nhiên - vũ trụ;
• Cây cỏ
• Linh thú, động vật.

I. Các mơ típ trang trí cây cỏ
2


Sống trong môi trường của hệ sinh thái nhiệt đới, cây cỏ có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống vật chất và tâm linh của con người. Sống, tồn tại trong cây cỏ, nhờ
cây cỏ. Chết, hoá thân trong cây cỏ. Cho nên từ xa xưa đã có tín ngưỡng thờ cây.

Trong ý nghĩa sâu xa về tâm linh, cây được xem như là cái trung gian nối trời với
đất. Trong đình làng, mơ típ cây cỏ được sử dụng rất nhiều trong những chạm khắc
trang trí. Chủ đề cây cỏ được quán xuyến trong chạm khắc trang trí từ những ngơi
đình cổ nhất thế kỷ XVI cho đến những ngơi đình cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Chúng ta lần lượt xem xét ý nghĩa và biểu tượng của từng loại cây cỏ được những
người nghệ sỹ nông dân sử dụng nhiều trong điêu khắc đình làng.
1. Cây hoa sen
Là loại cây cao quý “ gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn”, gắn với Phật giáo,
có biểu tượng của sự cao quý, trong sạch của tâm hồn. trong nghệ thuật tạo hình
được xem là biểu tượng của đức hạnh và sự hoàn hảo bởi đặc điểm của nó là vươn
lên từ bùn nhơ và khơng bị vấy bẩn. Hoa sen là một món trong kiểu thức trang trí
bát bửu của Phật giáo, là dấu huyền nhiệm của bước chân Phật. Do mọc từ bùn
nhơ, ngâm mình trong nước, vươn lên trời cao, hoa sen còn biểu tượng cho sự chân
tu, thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời mà có phẩm hạnh. Trong nghệ thuật tạo
hình Phật giáo, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh Đức Phật ngồi tọa thiền hoặc
đứng thuyết giảng trên toà sen. “Một trong nhiều ý nghĩa bông sen được nghĩ tới
là: nơi để sinh ra. Đó là một ý nghĩa bắt nguồn từ thời nguyên thuỷ. Chúng ta đã
gặp những hiện vật của thời đó về người đàn bà, mà bộ phận để sinh ra và bộ phận
nuôi dưỡng được cường điệu khá lớn, trong ý nghĩa cầu phồn thực - một mặt của
hạnh phúc... Từ ý kiến trên, có thể rút ra: hoa sen mang yếu tố âm. Vì thế trong
kiến trúc người ta nhìn thấy đá chân tảng chạm đài sen (âm) làm chỗ kê của chiếc
cột (mang hình Linga - dương) như một sự kết hợp của âm dương trong sự cầu
mong vững bền và sinh sôi nảy nở”. Hoa sen được dùng làm mơ típ trang trí chủ
3


đạo trong chùa. Trong trang trí đình làng, hoa sen được sử dụng nhiều trong những
ngơi đình muộn. Tuy nhiên, chúng ta bắt gặp hình hoa sen cách điệu, cây sen (hoa,
lá, thân) tả thực trong hoạt cảnh tắm đầm sen trên gạch trang trí vách tường đình
n Sở (Hồi Đức, Hà Tây), hoa sen và rồng trên cốn đình Ngọc Canh (Trên cùng

là một con phượng miệng cắp túi thơ đang sải cánh bay. Ở chính giữa bức chạm là
“rồng cuốn thủy”. Một ngọn nước đang được hút cuồn cuộn vào miệng rồng, trong
dịng nước có nhiều chú cá chép đang ngoi lên. Góc trái bức cốn là một con rùa
đang núp dưới khóm sen, góc phải là một con lân đứng nghểnh lên nhìn rồng. Lấp
những khoảng trống là những hình mây bay sóng nước. ...), Biểu hiện cho sự trong
sạch thanh cao, cho sự thanh tịnh của Phật giáo. Từ thời Lý đã sử dụng hoa sen
trong biểu tượng chùa Một Cột, bệ tượng Phật A Di Ðà chùa Phật Tích. Thường
thấy ở đỉnh tháp, chân tảng, bệ Phật, diềm bia.
2. Cây mai
Là cây trong Tứ quý, như: mai, liên (sen), cúc, trúc hay mai, lan, cúc, trúc hoặc
tùng, cúc, trúc, mai. Cây mai với thân rắn rỏi, phong sương, vững bền với thời gian
(dương tính) thì hoa mai trắng muốt lại biểu tượng cho sự trắng trong, tinh khiết
(âm tính), nhưng yếu đuối. Hoa mai mang lại điềm lành, hạnh phúc, mùa xuân,
nhưng cũng nhắc nhở con người về sự mong manh của vẻ đẹp, hạnh phúc trước
thời gian “như bóng câu qua cửa”. Người Trung Quốc đặc biệt yêu thích hoa mai.
Ngay từ thời Thương Chu, hoa mai đã được trồng rộng rãi với mục đích lấy quả
làm gia vị chua. Đến thời Bắc Tống, thông qua kỹ thuật chiết cây đã gây trồng nên
giống “Tương Mai”, sắc nhị màu vàng nhạt, một bơng có đến 20 cánh, có tên là
“thiên diệp hồng hương mai”, có hương thơm và vẻ đẹp thầm kín, trở thành một
kỳ quan trong mơ típ Tứ q, cây mai thường đứng bên cạnh đá và thường xuất
hiện trong chạm khắc trang trí ở những ngơi đình muộn thời Nguyễn.
3. Cây trúc
4


Cây trúc là loại cây phổ biến trong trang trí ở nhiều nước như Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Việt Nam cây trúc được ưa thích vì vẻ đẹp và ý nghĩa của
nó. Trong nghệ thuật tạo hình, cây trúc là biểu tượng của người quân tử. Sống ngay
thẳng không khuất phục trước cường quyền và danh lợi. Đốt trúc rỗng (vô tâm) thể
hiện sự trong sáng, ngay thẳng, khiêm tốn, khơng vụ lợi. Có sức sống bền bỉ trước

thiên nhiên khắc nghiệt, nên cây trúc còn là biểu tượng của sự trường thọ. Trong
chạm khắc trang trí đình làng, cây trúc trong bộ Tứ quý biểu tượng cho mùa hạ.
Cây trúc nhiều khi đứng một mình trong bố cục “trúc hố rồng” như ở đình Thắng
Núi (Bắc Giang). Đây là mơ-típ trang trí có tính biểu tượng cao, vừa là cây, vừa là
vật, có tính lưỡng ngun.
4. Cây tùng
Biểu tượng của cây tùng là sự trường thọ, một ước vọng muôn đời của con
người. Cây tùng (hoặc bách, thơng) ln xanh tốt trong bốn mùa, có khả năng sống
bền bỉ trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, cho nên tùng cịn biểu tượng cho
khí phách kiên cường, khơng sợ hiểm nguy trước những thử thách của thiên nhiên
và cuộc đời. Do sống trên núi cao, nên cây tùng còn biểu tượng cho lối sống ẩn dật,
lánh đời, nhưng kiêu hãnh để giữ cho tâm hồn trong sạch. Trong Tứ quý, cây tùng
biểu tượng của mùa đông. Tùng thường đi với hạc, để tạo nên mơtíp tùng - hạc có
tính biểu tượng cao về sự trường thọ, ngay thẳng và trong sạch. Mơ típ Tứ q này
thường được trang trí ở những ngơi đình thời Nguyễn.
5. Cây đào
Cây đào là một trong những loại cây có vị trí quan trọng trong nhiều loại hình
nghệ thuật và tập quán, phong tục của nhiều nước ở phương Đông. Các nhà thực
vật học cho rằng cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc. Loại cây này được biết như
loài cây cho trái quý của chốn thần tiên, mọc ở khu vườn Tây Vương Mẫu, 3000
năm mới kết quả một lần, ăn vào sẽ “trường sinh bất lão”. Cây đào có biểu tượng
5


phổ biến là mùa xuân, mùa bắt đầu của năm, mùa của sự phồn sinh, đem lại sinh
lực và hạnh phúc mới. Hoa đào còn là biểu tượng vẻ đẹp của người phụ nữ, nó
tượng trưng cho gương mặt, cho nụ cười của người con gái đẹp. Hoa đào còn mang
lại tình u, hạnh phúc đơi lứa (được u nhiều = đào hoa). Hình tượng cây đào cổ
thụ mang biểu tượng của sự trường sinh. Trên cốn của đình Dư Hàng (Hải Phòng)
cây đào được bố cục uốn lượn trong hình chữ nhật dài, bên cạnh cây tre. Trong

chạm khắc trang trí đình làng, đào được cách điệu với mơtíp “đào hố lân” hoặc
“đào hố rồng” ở những ngơi đình muộn. Đây là loại mơtíp có tính lưỡng ngun:
vừa là cây, vừa là vật.
6. Hoa cúc
Hoa cúc với màu vàng rực rỡ, thuộc hành thổ, biểu tượng cho sự giàu sang,
phú quý, vương giả. Hoa cúc còn là biểu tượng của mùa thu, người xưa gọi tháng
chín là “cúc nguyệt”. Chữ cúc và chữ lưu (giữ lại) đều có cách phát âm giống nhau
là Ju. Tháng chín là “cửu” ( Jiu) cũng đồng âm với từ “cửu” với nghĩa vĩnh cửu.
Do đó, “cúc nguyệt” (cúc tháng chín) có biểu tượng là lời chúc cho sự trường thọ,
an khang, nhiều may mắn. Hoa cúc còn biểu tượng cho sự an lạc, viên mãn, niềm
vui. Đào Tiềm (365 - 427) là thi sỹ nổi tiếng ở Trung Quốc đã cáo quan, về ở ẩn để
làm thơ, vui thú với rượu, nhạc và trồng hoa cúc. Về sau ảnh hưởng vào Phật giáo
như một biểu tượng bình dị, thanh cao, kín đáo và lâu bền. Hoa cúc là đề tài được
sử dụng nhiều trong chạm khắc đình làng, dưới nhiều kiểu thức như: cúc hoa, cúc
dây, cúc leo... Trang trí hoa cúc chùa Phổ Minh,ở ngơi đình sớm nhất, đình Thụy
Phiêu (1531), trên cột trốn vì nóc người thợ đã tạc một bơng hoa cúc mãn khai khá
lớn hay Hoa cúc thời Lý, Trần thường thể hiện với dạng dây lượn hình sin. Lúc đầu
hoa cúc phổ biến ở Trung Quốc với biểu trưng Ðạo giáo, về sau ảnh hưởng vào
Phật giáo như một biểu tượng bình dị, thanh cao, kín đáo và lâu bền.
7. Lá đề
6


Cây Bồ đề biểu trưng cho sự đại giác của đức Phật. được sử dụng rất nhiều
trong trang trí điêu khắc như vịm cửa chùa tháp thời Lý,trang trí lá đề tháp Bình
Sơn, Vĩnh Phúc
8. Tứ quý, Tứ Thời
Tứ quý gồm mai lan cúc trúc. Thường gặp ở dạng kết hợp mai điểu, mai hạc,
lan điệp, cúc điệp, trúc tước, trúc yến hoặc trúc hổ.
Tứ thời gồm mai, sen, cúc, tùng. Kết hợp là mai điểu, liên áp, cúc điệp, tùng

lộc hay tùng hạc. Thường thấy trong trang trí chạm khắc ở các chi tiết kiến trúc
như cửa võng, cánh cửa...
9. Hoa sen kết hợp với hoa cúc
Xuất hiện từ thời Lý, tượng trưng cho âm dương giao hoà. Thường gặp ở trang
trí diềm bia, chạm khắc trên tháp cổ. Ví dụ như các trang trí hao văn chùa Phổ
Minh
II. Các mơ típ trang trí động vật
Người xưa quan niệm loài động vật trong thiên nhiên được chia ra 5 loại gồm:
lơng vũ (phượng hồng), lơng phủ (kỳ lân), lơng trần (con người), lồi có vẩy (con
rồng) và lồi có mai (con rùa). Lục súc gồm: trâu (ngựa), bò, lợn, chó, dê, gà. Ngũ
tính gồm 5 loại thú, trừ con chó. Đó là các loại thú dùng để hiến sinh trong tế lễ
thần linh. Trong điêu khắc trang trí đình làng có 2 loại chủ yếu là linh thú (những
con thú thiêng có tính biểu tượng cao) và những loại thú khác mà việc sử dụng
chúng trong các đồ án trang trí đã thể hiện thơng điệp có tính tư tưởng và quan
niệm nghệ thuật của người xưa.
Tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phụng được dân gian bắt nguồn từ bốn linh thần
gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước. Chúng được người xưa tạo ra
từ bốn chòm sao cùng tên ở bốn phương trời. Chúng mang bên mình bốn nguyên tố
7


tạo thành trời đất theo quan niệm của người xưa (lửa, nước, đất và gió). Hình ảnh
của tứ linh được khắc, họa trong nhiều cơng trình kiến trúc quan trọng từ kinh đơ
đến nhà dân, từ đình chùa miếu mạo đến các cơ quan công quyền (truyền thống)
như một thể hiện sống động của tứ linh trong tâm thức người Việt.
1. Hình tượng Rồng
Được tin là linh vật mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng, sự thông
thái; đồng thời còn là sứ giả để gửi gắm những ước vọng trong đời: cầu mưa, cầu
phồn thực.
Theo quan niệm của người Á Đơng thì rồng là con vật đứng đầu trong Tứ linh.

Rồng bằng đồng mang nguyên khí Kim, trong vận 8 là cát khí đem lại sự may mắn
về công danh, tài lộc. Rồng đại diện cho quẻ Chấn, mang lại Dương khí, sự quật
khởi, ý chí, cơng danh, tài lộc và quyền lực.Hình tượng của rồng bao gồm sự kết
hợp của các loài: thân rắn, đùi thằn lằn, móng vuốt của chim ưng, đi rắn, sừng
hươu, vẩy cá. Có người cho rằng sau khi Hoa Hạ thống nhất các bộ tộc trung
nguyên đã kết hợp vật tổ của mình cùng với vật tổ của các bộ tộc đó thành con
rồng. Rất có thể từ con Giao Long này mà người Trung Hoa đã tạo ra con rồng
Trung Hoa của họ.Trong hầu hết các hệ tư tưởng phong kiến phương Đơng thì rồng
được xem như biểu tượng của nhà vua, của uy quyền tuyệt đối lúc bấy giờ mà tất
cả mọi người đều phải kính sợ và tuân theo. Do đó rồng thường xuất hiện trong
những tư thế rất oai phong, hùng dũng khiến cho mn lồi khiếp sợ. Hoạ tiết rồng
xuất hiện rất nhiều trong các trang phục cũng như vật dụng dành riêng cho hoàng
đế. Lúc bấy giờ, người ta mặc nhiên xem rồng là biểu tượng của chính nhà
vua.Ngun nhân từ đâu mà người ta có thể xây dựng nên hình tượng Rồng thì vẫn
chưa lý giải được. Có lẽ là từ lồi Giao Long, một dạng cá sấu cổ ngày xưa.
Truyền thuyết về rồng của Việt Nam thì chắc hẳn tơi khơng cần phải nhắc
lại sự tích "Con Rồng Cháu Tiên" - nói lên nguồn gốc dòng dõi cao quý đáng tự
8


hào của dân tộc Việt Nam...Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ thời xa xưa
họ đã tôn sùng cá sấu như một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú
và sức mạnh, thời kỳ này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã
thần thánh hóa lồi cá sấu lên thành con "Giao Long" mà người Trung Hoa gọi sau
này, một cách thức tơ điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và
cũng nhiều ý nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong
suốt thời Văn Lang - Âu Lạc.Trong cả thiên niên kỉ bị đơ hộ bởi Trung Hoa, trong
hồn cảnh chung của chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển
theo các xu hướng giống với con rồng của người Hán. Đến khi giành được độc lập,
thời kỳ nhà Lý lên nắm quyền, đặt tên nước là Đại Việt (để sánh ngang với Đại

Tống của Trung Hoa), Việt Nam đã có con rồng cho riêng mình và khác với con
rồng Trung Quốc.Văn hóa Đại Việt nói chung, trong đó có mỹ thuật đã khẳng định
được đẳng cấp và sự độc lập trong nghệ thuật biểu hiện của mình. Rồng Việt Nam
ln có một mơ-típ rõ ràng đặc trưng đó là:
Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu trưng cho
sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của nền văn hóa nơng
nghiệp lúa nước. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa và khả năng thay
đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con rồng cai quản thời tiết, mùa màng. Trên lưng
có vẩy nhỏ đều đặn và liền mạch
Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn tồn khác rồng Trung Hoa. Đầu rồng có
bờm dài, râu cằm, khơng sừng. Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên, đây
là điểm hoàn toàn khác với các con rồng khác của các nước. Đặc biệt là cái mào ở
mũi, sun sóng đều đặn chứ khơng phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa. Lưỡi
mảnh rất dài.
Miệng rồng luôn ngậm viên châu (ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc rồng
hay cầm ngọc bằng chân trước). Viên châu tượng trưng cho tính nhân văn, tri thức
9


và lịng cao thượng. Đầu rồng ln hướng lên đớp lấy viên ngọc thể hiện tinh thần
tôn trọng các giá trị nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao
thượng.
Các dạng trang trí hình rồng phát triển theo từng thời kỳ, mang những đặc điểm
mỹ thuật khác nhau. Trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam, hình tượng con rồng
cũng được phát hiện từ những di vật còn lại từ thời Lý. Con rồng thể hiện cho tâm
linh, gắn liền với vua (theo quan niệm phong kiến), biểu hiện ước mong mưa rhuận
gió hồ (dân gian). Trang trí trên bệ tháp, cấu kiện gỗ, đỉnh mái... Những di tích
như chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Ðọi (Hà Nam), cánh cửa gỗ chạm rồng ở
chùa Phổ Minh thời Trần, Rồng thời Lý, chạm khắc trang trí trên gạch tháp chùa
Phật Tích (Bắc Ninh), thế kỷ 11 ...Những điều ấy được đặt lên trên tất cả các giá trị

khác kể cả sức mạnh và sự thống trị thường thấy của một con rồng phương Đơng.
Tồn thân rồng tốt lên uyển chuyển và một sức căng rất lớn từ cái vươn chân dài,
đầu ngẩng cao, dáng đầu rực lửa thể hiện cho khí thế hừng hực muốn tiến chinh
phục các giá trị văn minh nhất của phương Đông cổ đại.Đây là một hình tượng
rồng hồn hảo về mỹ thuật, có cá tính rõ ràng và đặc trưng cho dân tộc Việt, tiếc
rằng nó đã bị vùi lấp bởi sự sùng bái văn hóa Hán của các triều đại phong kiến cuối
cùng và sự hủy diệt văn hóa đã xảy ra khi nhà Minh xâm lược Việt Nam.
2. Hình tượng Lân
Báo hiệu điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng - trấn giữ cửa nhà, hố giải
hung khí chiếu tới khi đối diện với của nhà khác, bị ngã ba, ngã tư, đường vịng,
hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà. Truyền thuyết kể rằng Đức Di Lặc đã hóa thân
thành người và chế ngự được một quái vật (con lân) từ dưới biển lên bờ phá hoại.
Đức Di Lặc hóa thân thành người, gọi là ông Địa, lấy cỏ linh chi trên núi cho quái
vật ăn và hàng phục được nó, biến nó thành con thú ăn thực vật. Từ đó, mỗi năm
ơng Địa lại dẫn nó xuống núi chúc Tết mọi người, chứng tỏ quái thú đã thành thú
10


lành, cái ác trở thành cái thiện. Ông Địa và con lân đi đến đâu là giáng phúc tới đó
nên nhà nào cũng hoan hỉ treo rau xanh và giấy đỏ đón chào. Sau này, người có
tiền thường treo giải bằng tiền buộc trong một miếng vải đỏ, treo cùng bắp cải hoặc
rau xanh. Lân phải trèo lên cao lấy bằng được "thức ăn" này. Tất nhiên, ông Địa
không cùng trèo với Lân mà chỉ cùng lân múa, phe phẩy chiếc quạt to, ru lân ngủ
hoặc đánh thức lân dậy. Cảnh ông Địa vuốt ve lân và lân mơn trớn ơng Địa, thể
hiện được tình cảm và sự hịa hợp sâu sắc giữa loài vật và loài người trong một bầu
khơng khí thanh bình, hoan lạc.
Lân là một giống thú linh trong hàng Tứ Linh (Long, Lân, Qui, Phụng). Lân là
con cái, còn con đực gọi là Kỳ, gọi chung là Kỳ Lân. Kỳ Lân thuộc lồi nai, hình
dáng giống như con hươu, mình vằn, đi giống như đi trâu, vú giống như vú
ngựa, có một sừng trên đầu, tánh rất hiền lành, không ăn thịt con vật khác, chỉ ăn

cỏ, nên gọi nó là Nhân thú (con thú có lịng nhân từ). Mỗi khi nơi nào có Kỳ Lân
xuất hiện thì có Thánh nhân ra đời cứu giúp dân chúng. Do đó, Kỳ Lân báo hiệu
điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng.
Kỳ lân là con vật huyền thoại có từ rất lâu đời giống như sư tử. Sư tử là loài thú
đại diện cho sức mạnh bởi khi sư tử cất tiếng gầm thì mọi lồi thú khác đều sợ hãi.
Kỳ lân là loài vật chuyên bảo vệ và canh giữ cửa ngôi nhà, miệng há to thu hút và
trấn áp mọi loại hung khí vào nhà.Vì vậy, trong mỗi đình chùa ta thường thấy có
tượng hai con kỳ lân đá canh cửa. Trong Phong Thuỷ, tượng kỳ lân thường dùng
trấn giữ cửa nhà, hố giải hung khí chiếu tới khi đối diện với của nhà khác, bị ngã
ba, ngã tư, đường vịng, hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà.
3.Hình tượng Quy
Biểu trưng cho sự bền vững của xã tắc (trong phạm vi cung đình) và sự sống
lâu, trường thọ (dân gian).
11


Quy (hay rùa) là một trong 4 linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt
Nam cùng với Long, Lân, Phượng (Phụng). Trong các linh vật này thì chỉ có Quy
(rùa) là lồi sinh vật có thật trong thực tế. Nó đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ
thời An Dương Vương, đó là câu chuyện thần Kim Quy đã xuất hiện từ biển cả,
giúp nhà vua xây thành Cổ Loa sau nhiều lần thất bại trước đó.
Truyền thuyết kể lại rằng sau đó thần Kim Quy cịn tặng cho An Dương Vương
chiếc móng thần của mình để nhà vua có thể rèn thành một loại vũ khí giúp bảo vệ
cho tồ thành Cổ Loa. Nhưng có lẽ thế vẫn là chưa đủ để cho bảo vệ Loa thành và
một ngày kia, An Dương Vương sau khi giết chết con gái là Mị Châu vì tội thơng
đồng với giặc, ông đã cưỡi lên lưng rùa và đi về phía biển... Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng đó là bóng dáng của thần Visnou, một tối thượng thần của đạo Bà la mơn.
Trong tạo hình và điêu khắc ở các cơng trình kiến trúc, người ta bắt đầu thấy
hình tượng Quy từ năm 1126 trong tư cách đội bia ở chùa Linh Ứng, Thanh Hóa,
từ đó tồn tại thường xuyên dưới hình thức đội bia; mãi đến tận thế kỷ 15 mới thấy

đội hạc (hình chạm khắc trên bia chùa Láng, Hà Nội).
Ở lĩnh vực tâm linh, người Việt coi Quy là vật hợp bởi cả âm lẫn dương: bụng
phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Hình
tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng. Đó là
quan niệm dân gian. Trong quan niệm dân gian đất Bắc, Quy là cao quý , nhiều khi
nó là chủ nguồn nước (rùa phun nước thiêng), là một linh vật của đất Phật.
Người ta thường hay kết hợp những sinh vật trong Tứ Linh với nhau. Một ví dụ
chính là hình tượng Rùa đầu rồng, hay Rùa có mình rắn (Quy xà hợp thể)... Rùa
đầu rồng hay còn gọi là Long Quy là con vật huyền thoại kết hợp hai đặc tính của
rồng và rùa nên Long Quy cũng được xem là linh vật rất thiêng liêng.

12


Hình tượng Quy (rùa) thường ít gặp trong kiến trúc Phật giáo. Biểu trưng cho
sự bền vững của xã tắc (trong phạm vi cung đình) và sự sống lâu, trường thọ (dân
gian), Thường thấy sử dụng như con vật đỡ chân bia tại các chùa. Vd: 82 tấm bia
đã ghi tên tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường
tồn, hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng
hồn biểu hiện nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam.
4. Hình tượng Phụng
Là biểu tượng của đức hạnh và vẻ duyên dáng, thanh nhã. Phượng hồng cũng
biểu thị cho sự hịa hợp âm dương.
Phượng hoàng nguyên thủy là các con chim trong thần thoại của người dân khu
vực Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa, ngự trị trên tất cả các
loài chim khác. Trước đây, con trống được gọi là Phượng cịn con mái được gọi là
Hồng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như khơng cịn và Phượng
cùng Hồng đã được trộn lẫn vào nhau thành một thực thể giống cái, gọi là phượng
hoàng, để cho nó có thể ghép cặp với long (rồng), là con vật mang ý nghĩa của
giống đực. Người Hán thường sử dụng thành ngữ "Con cháu rồng" như là dấu hiệu

của việc nhận dạng theo chủng tộc.
Phượng hồng cịn được gọi là "cơn kê"? do đơi khi nó được dùng thay cho con
gà trong Can Chi. Tại thế giới phương Tây, chẳng hạn như người nói tiếng Anh,
gọi nó là Chinese phoenix (phoenix cũng được dịch sang tiếng Việt là phượng
hồng, mặc dù nó là con vật thần thoại khơng có khái niệm tương đương trong văn
hóa của người Việt) hay ho-oh bird (từ tiếng Nhật ).
Trong văn hoá phương Đơng nói chung và Phong Thủy nói riêng, con phượng
có ý nghĩa rất đặc biệt và sánh ngang với rồng. Nó là con vật linh thiêng nằm trong
bộ Tứ Linh, tượng trưng cho hồng hậu, người mẹ. Phượng cịn là biểu tượng của
13


tâm linh phương Đông với ý nghĩa sức mạnh siêu phàm huyền bí. Phượng đại diện
cho quẻ Ly, mang lại Dương khí, sự quật khởi, ý chí, cơng danh, tài lộc và quyền
lực. Phượng bằng đồng mang nguyên khí Kim, trong vận 8 là cát khí đem lại sự
may mắn về danh tiếng, tình duyên, tài lộc…
Miêu tả phổ biến là chim phượng hồng đang tấn cơng con rắn bằng móng vuốt
của nó với đơi cánh dang rộng. Người ta tả chim phượng hoàng với các đặc điểm
sau: đàu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá, với 5 màu và cao 6 thước. Nó tượng
trung cho 6 thiên thể mà ngày nay có thể hiểu nơm na là: Đầu là trời, mắt là mặt
trời, lưng là mặt trăng, cánh là gió, chân là đất và đi là các hành tinh. Lơng của
nó đại diện cho màu sắc của Ngũ hành: đen, trắng, đổ, xanh và vàng.
- Phượng, hay Phượng hoàng, Phụng, là một trong 4 tứ linh theo tín ngưỡng
dân gian Việt Nam và các nước Á Đơng khác. Phượng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ,
vẩy cá chép, móng chim ưng, đi cơng... Các bộ phận của phượng đều có ý nghĩa
của nó: đầu đội cơng lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng
cõng bầu trời, cánh là gió, đi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó
tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phượng vũ) là tượng trưng cho sự
hoạt động của vũ trụ. Vì thế phượng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc.
Hình ảnh về phượng hồng đã xuất hiện tại Trung Quốc cách đây trên 7.000

năm, thông thường trong các miếng ngọc và trên các tô tem (vật tổ) may mắn. Nó
là tơtem của các bộ lạc miền đơng thời cổ đại ở Trung Quốc. Các thuyết ngày nay
cho rằng nó có thể là hình ảnh đại diện cho một loài chim lớn thời tiền sử, tương tự
như đà điểu, khá phổ biến ở Trung Hoa tiền sử.
Trong thời kỳ nhà Hán (khoảng 2.200 năm trước), phượng hoàng được sử
dụng như là biểu tượng của hướng nam, được thể hiện dưới dạng con trống
(phượng) và con mái (hoàng) quay mặt vào nhau. Nó cũng được sử dụng để biểu
thị cho hoàng hậu (hay các phi tần) khi trong cặp đôi với rồng là biểu thị của vua
14


hay hồng đế. Nó đại diện cho quyền lực mà Thượng đế ban cho hồng hậu. Nếu
hình ảnh phượng hồng được sử dụng để trang trí nhà cửa thì nó là biểu tượng cho
lòng trung thành và sự trung thực của những người sống trong ngơi nhà đó.
Phượng hồng có ý nghĩa tích cực. Nó là biểu tượng của đức hạnh và vẻ duyên
dáng, thanh nhã. Phượng hoàng cũng biểu thị cho sự hịa hợp âm dương. Theo
truyền thuyết, nó xuất hiện trong thời kỳ hịa bình và thịnh vượng nhưng khơng có
khi thời kỳ tăm tối sắp đến. Tại Trung Hoa thời cổ đại, có thể tìm thấy hình ảnh của
phượng hồng trong các trang trí của các đám cưới hay của hồng tộc, cùng với
rồng. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phượng lại có yếu tố
âm nên tượng trưng cho hồng hậu và người đàn bà đẹp. Điều này là do người
Trung Quốc coi rồng và phượng (hoàng) là biểu tượng cho quan hệ hạnh phúc giữa
chồng và vợ, một kiểu ẩn dụ khác của âm và dương.
Ngồi tứ linh cịn có các hình tượng động vật khác xuất hiện trong diêu khắc ở
đình là
5. Hình tượng con Ngựa
Ngựa là một trong 12 con giáp của văn hóa phương Đơng (ngọ), cũng nằm
trong số lục súc theo quan niệm của văn hóa một số nước. Ngựa là hình tượng đặc
trưng cho phương Bắc, là biểu tượng cho sự trung thành và tận tụy đồng thời là
biểu tượng cho tài lộc, thành công, hình ảnh con ngựa tung vó hý vang biểu tượng

cho sự kiêu hãnh và tự do và thanh khiết. Ở Việt Nam và một số nước châu Á như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, tranh ngựa đã xuất hiện từ hàng trăm năm nay.
Ngựa là một trong số những loài vật được mô tả khá sinh động trên tranh, tượng
dân gian Việt Nam. Ngựa có mặt trên các phù điêu gỗ, đá ở các đền miếu và trên
tranh làng Hồ và Hà thành từ xa xưa, đặc biệt là trong các đồ thủ công mỹ nghệ.
Tranh, tượng về ngựa rất phong phú, đa dạng, không chỉ giới hạn ở nơi thờ tự,
trong cung đình mà cịn phổ biến ra ngồi dân gian. Vào dịp Tết đến, người dân
15


thường sắm tranh Tết về trang trí trong nhà để đón xuân, trong đó có tranh con
ngựa. Tranh dân gian về ngựa tại các tỉnh miền trung còn gọi là tranh ơng Ngựa,
tranh dân gian phong phú nhất thì phải ra các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tranh
dân gian Đơng Hồ về ngựa rất sinh động và có cốt truyện. Tranh Đông Hồ nổi
tiếng với bản khắc đường nét khoẻ khoắn trên gỗ thị, in trên nền giấy dó, phủ bột
vỏ con sò, con điệp, Trong tranh dân gian con ngựa ghi ấn tượng manh mẽ, sâu sắc
nhất là Ngựa Thánh của ơng Gióng.
Ngựa tạo hình dân gian đã tham gia vào cuộc sống xã hội của con người, như
con ngựa hồng vui vẻ đang nhịp bước trong tác phẩm tranh Đơng Hồ Đám cưới
chuột(hay cịn gọi là Ơng nghè vinh quy). Ở bức tranh Quang Trung, chú ngựa
chiến được khắc họa hết sức cao lớn oai hùng. Con chiến mã với bộ vó chắc khỏe
đang mở to đơi mắt, đăm đăm nhìn phía trước với cái mõm hé mở và đôi cánh mũi
dường như đang phập phồng. Loại ngựa chiến ấy cũng được thấy trong tranh Phù
Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân. Toàn thân chú ngựa đang tung vó trên chiến
trận được khắc họa đỏ rực như than hồng tốt lên một khí thế hùng dũng oai
phong. Hình ảnh con ngựa cịn có thể bắt gặp trong nhiều tranh dân gian khác của
tranh Đông Hồ, tranh Hà Nội. Ở nhiều tranh thờ, ngựa hồng được thay bằng ngựa
trắng hay đôi khi bằng ngựa ô. Sự thay đổi màu lơng hẳn có những lý do tín
ngưỡng nhất định.
Ngựa tạo hình dân gian cịn được chạm trổ trên hương án chùa Bút Tháp vào

thế kỷ 17, trên văn in lại chùa Tây Mỗ (Hà Tây) thuộc thế kỷ 19.Chúng ta cũng có
thể bắt gặp những chú ngựa vượt qua hoa lá được chạm đá trên văn bia tại chùa
Linh Quang (Hải Phòng) hoặc khỉ cưỡi ngựa (chùa Tây Mỗ), ngựa đá nhau (chùa
Bút Tháp, Bắc Ninh). Tuy vậy, hình tượng ngựa xuất hiện sớm nhất của mỹ thuật
Việt Nam là vào khoảng giữa thế kỷ 11 ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Ngựa cịn
thấy xuất hiện trên đài sen, ở đất Phật, được Phật giác ngộ rồi tự nguyện chở kinh
16


đi khắp nơi để giáo hóa chúng sinh. Ngựa thờ bằng gốm men thời Lý cũng được
tìm thấy ở chùa Phật Tích. Sau thời nhà Lý, đạo Phật có phần suy vi, hình tượng
con ngựa cũng vì thế mà ít được thấy trong nghệ thuật đương thời.
Đến thế kỷ 16, khi giai đoạn mở đầu của nghệ thuật dân dã phát triển thì con
ngựa mới xuất hiện với tư cách là con vật linh thiêng có cánh trên lưng (đình Tây
Đằng, Hà Tây). Ở thời nhà Mạc, con ngựa đã trở thành Long Mã với đầu rồng,
thân ngựa, vẩy cá chép, chân hươu, đi bị (chùa Trà Phương, Hải Phịng). Long
Mã có nguồn gốc gắn với nguồn nước, biểu hiện cho ý chí tung hồnh ngang dọc
của thánh nhân. Sang thế kỷ 17, hình tượng ngựa càng phổ biến, có khi được tạo
tác bằng đá, lớn hơn kích thước ngựa thật (mộ quận Đăng ở Thanh Hóa năm 1629)
hay là nhóm tượng giám mã (đình Hương, Bắc Ninh) đầu thế kỷ 18, Ngựa thờ ở
mồ mả là để làm tăng thêm sự giàu sang, phú quý của chủ nhân.
Hình ngựa chạm khắc ở đình miếu đơi khi là hình dáng của loại ngựa để các
tướng lĩnh cưỡi khi đấu võ (đình Nội, Bắc Ninh). Phổ biến nhất là loại ngựa thờ
như "vân mã" (ngựa bay trên mây), "mã hầu" (khỉ ngồi trên đuôi ngựa), hay các
loại ngựa bạch, ngựa hồng để biểu hiện cho quan hệ âm-dương, nóng-lạnh, lửanước. Hình ảnh ngựa tường hồi chùa Hưng Ký, Hà Nội Vào cuối thế kỷ 17, con
ngựa đứng dưới lọng đã xuất hiện ở cung đình, sau đó phổ biến ra ngồi dân
gian.Cảnh ngựa đá đứng chầu với voi đá ở các lăng miếu thời nhà Nguyễn cũng rất
phổ biến. Hình ảnh con ngựa đã in sâu vào tâm trí của nghệ sỹ dân gian, chứng tỏ
họ rất yêu thích, quý mến lồi ngựa, muốn biến hình ảnh con ngựa thành một hình
tượng nghệ thuật có tầm vóc ngang hàng với những linh vật khác được tơn thờ ở

Việt Nam.
Hình tượng ngựa của Việt Nam cổ nhất có thể tìm thấy qua những nét vẽ còn
để lại trong những viên gạch (vẽ để làm khuôn đúc) thuộc mỹ thuật Đại La được
phát triển trong thời Bắc thuộc (từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ X).
17


Trong mỹ thuật Đại La người ta cũng tìm thấy nhiều di tích vẽ ngựa khác hoặc in
trên những mảnh gốm, hoặc đúc thành những mảnh trang trí nhỏ gắn vào các kiến
trúc đời này. Tượng đồng ngựa xưa nhất lại tìm thấy trên các vật dụng thờở Huế từ
thế kỷ thứ XI. Những bức phù điêu chạm gỗ thông trên các đình làng thế kỷ XVII
và đầu thế kỷ XVIII.
6. Hình tượng con Hạc
Ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong
nhiều ngôi chùa, miếu..., hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời
và đất, giữa hai thái cực âm - dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và
thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng
cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn,
biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống
dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược
lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên
lịng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa
những người bạn tốt. Hình tượng con Hạc ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo.
Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng
rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là
con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là
đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc
tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả
một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng
nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp

đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lịng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ
nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt
7. Hình tượng con Nghê
18


Nghê là con vật huyền thoại có từ rất lâu đời giống như sư tử. Sư tử là loài thú
đại diện cho sức mạnh bởi khi sư tử cất tiếng gầm thì mọi lồi thú khác đều sợ hãi.
Nghê là lồi vật chun bảo vệ và canh giữ cửa ngơi nhà,miệng há to thu hút và
trấn áp mọi loại hung khí vào nhà.Vì vậy, trong mỗi đình chùa ta thường thấy có
tượng hai con nghê đá canh cửa.Trong Phong Thuỷ, tượng nghê thường dùng trấn
giữ cửa nhà, hoá giải hung khí chiếu tới khi đối diện với của nhà khác, bị ngã
ba,ngã tư,đường vịng,hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà.
Nghê cũng dùng để hố giải hung khí các sao xấu chiếu mỗi năm như Ngũ
Hồng,Nhị Hắc,Tam Bích,Ngũ Quỷ,Hoạ Hại.Đơi nghê thường dùng một cặp âm
dương,mang lại sự bình an và thịnh vượng cho ngơi nhà. Con Nghê cịn được dùng
để trang trí trong các ngơi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên cốn (xà
ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đạt trên đầu đao (sống mái
chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã tấu) nên gọi là đầu
đao), như trên cốn đình làng An Hồ (Hà Nam), Phất Lộc (Thái Bình), cột đình
làng Hội Thống (Hà Tĩnh) đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang), làng Trung Cần
(Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)... chẳng hạn. Thuở nhỏ, vào khoảng đầu thập
niên 1950 ở Thái Bình, cịn thấy ở nhà cụ Hà Ngọc Huyền, ơng ngoại chúng tơi có
chưng tượng con Nghê cao gần một thước ngay lối vào phịng khách cùng với
những bình, những chóe đời Khang Hy nhà Thanh, đời Minh... Con Nghê này
không biết nay đã lưu lạc về đâu?
Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt, được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm
linh của người Việt.
8 Hình tượng con Trâu
Hình trâu cũng xuất hiện từ thời nguyên thuỷ trong văn hố Hồ Bình. Và hình

tượng trâu cịn thấy được ở kiến trúc Phật giáo bắt đầu từ thời Lý. Con trâu rất có ý
nghĩa trong nhà Phật, thể hiện qua bức tranh thập mục (mười đứa trẻ chăn trâu). Có
19


thể gặp hình trâu trên tượng trịn (chùa Phật Tích), lan can đá (chùa Bút Tháp, Bắc
Ninh)...
9. Hình tượng con Sư Tử
Trong Phật giáo, sư tử biểu tượng cho sức mạnh, oai linh nhưng tuân phục,
trợ giúp cho Phật pháp.Là đề tài trang trí phổ biến ở thời Lý hơn các thời sau này.
Sư tử hí cầu có ý nghĩa như vật bảo vệ giáo pháp. Có thể gặp tượng sư tử ở chùa
Hương Lãng, bệ có 2 con sư tử đỡ ở chùa Bà Tấm. Các chịm lơng và đuôi sư tử
thường xoắn lại theo kiểu trôn ốc hoặc x ra.
9 Hình tượng con Hổ
Nền văn hố Ðơng Sơn cách đây trên dưới 2500 năm đã để lại rất nhiều đồ
vật có tượng hổ. Thời Trần bắt đầu xuất hiện tượng hổ trong chùa.
Theo tín ngưỡng của dân ta thì hổ tượng trưng cho vị thần bảo vệ, trấn giữ các
phương chống lại mọi tà ma, đảm bảo cho cuộc sống phát triển. Có thể gặp tượng
hổ ở bệ đá tam bảo (chùa Ðại Bi, Hà Tây), chạm khắc trên kẻ (chùa Sơn Ðồng, Hà
Tây), hai bên tam quan (chùa Long Tiên, Quảng Ninh).

20



×