Tải bản đầy đủ (.pdf) (481 trang)

Những vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm của c mác ph ăngghen, v i lênin đề tài nghiên cứu khoa học cấp đại học quốc gia hồ chí minh năm 2008 b2006 18b 02

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 481 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP ĐẠI HỌC QUỐC GIA – HỒ CHÍ MINH NĂM 2008

NHỮNG VẤN ĐỀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TRONG CÁC TÁC PHẨM
CỦA C.MÁC - PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN
Mã số: B2006 – 18b - 02

BÁO CÁO TỔNG HỢP
Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Chí Mỹ
`
`

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2008


NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
TS. TRẦN CHÍ MỸ
PGS.TS. ĐINH NGỌC THẠCH
PGS.TS. PHAN THANH KHÔI
TS. TRẦN HÙNG
PGS.TS. LÊ TRỌNG ÂN
TS. HỒ ANH DŨNG
CN. ĐÀO TUẤN HẬU
CN. LÊ VĂN PHÚC



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chủ
nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) được dùng theo hai
nghĩa: Theo nghĩa rộng là toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, như một hệ thống
lớn, chỉnh thể, luận giải một cách toàn diện về triết học, kinh tế và chính trị xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa; Theo nghĩa hẹp là một trong ba bộ phận cấu thành
của chủ nghĩa Mác - Lênin, là lý luận chính trị - xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin, hướng sự nghiên cứu chủ yếu vào những quy luật và tính quy luật
chính trị - xã hội của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, những con đường và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân để thực hiện sự chuyển biến đó. Và với tính cách như vậy, chủ
nghĩa xã hội khoa học là nơi thể hiện tập trung và sinh động tính thực tiễn
chính trị của chủ nghĩa Mác - khoa học nhận thức và cải tạo xã hội bằng cách
mạng. Trong đề tài này, khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học được dùng theo
nghĩa hẹp.
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một khoa học được hình thành và phát
triển trong mối liên hệ hết sức chặt chẽ với phong trào công nhân và trong
cuộc đấu tranh gay gắt với các trào lưu tư tưởng tư sản và tiểu tư sản. Để sáng
lập học thuyết này, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã cống hiến cả cuộc đời
cho sự tìm tịi nghiên cứu, theo sát thực tiễn phong trào công nhân, dựa một
cách vững chắc vào sự vận dụng phép biện chứng và quan điểm duy vật lịch
sử, xây dựng nên một hệ thống quan điểm khoa học chặt chẽ và trình bày
trong một khối lượng đồ sộ các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin. Sức sống của chủ nghĩa xã hội khoa học thể hiện ở chỗ nó “giải đáp
những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của loài người đặt ra”, soi sáng các nhiệm
vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con người
khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, khỏi mọi sự tha hóa. Có thể khẳng định
rằng, cho đến nay chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn là học thuyết khoa học và



2

cách mạng duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đó mà chưa có một học
thuyết nào có thể thay thế được.
Tuy vậy, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ, một chiến dịch cơng kích, phê phán chủ nghĩa xã hội khoa học dấy
lên từ nhiều phía. Căn cứ vào đột biến Liên Xô và Đông Âu tan rã, các trào
lưu tư tưởng và lực lượng chính trị phản động trên thế giới và một số phần tử
cơ hội, phản bội chủ nghĩa Mác ở Việt Nam đã tuyên bố rằng chủ nghĩa xã hội
đã diệt vong và học thuyết mácxít về chủ nghĩa xã hội đã lỗi thời, phá sản.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
cùng với chiến dịch tun truyền chống phá nói trên khơng khỏi gây nên trong
một bộ phận nhân dân ta tâm trạng hoang mang, dao động, mất phương
hướng, giảm niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào con đường xã hội chủ
nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là một
mặt của vấn đề. Mặt khác là, sự kiện Liên Xô và Đông Âu tan rã đã mở đầu
một quá trình suy ngẫm, nhận thức lại một cách nghiêm túc, toàn diện và triệt
để về chủ nghĩa xã hội. Chính ngay ở đây, một vấn đề bức xúc được đặt ra là
chúng ta đã hiểu và vận dụng đúng lý luận về chủ nghĩa xã hội của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chưa. Rõ ràng là sau một thời gian dài, di sản tư tưởng
xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin được nhận thức và vận dụng một
cách giáo điều, xơ cứng nên đứng trước những biến đổi của thời đại, nó đã tỏ
ra bất cập, lúng túng.
Yêu cầu bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay
đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin trên từng luận điểm; cần phê phán ngay cả những chỗ nhận thức
không đúng, những chỗ nhận thức chưa đến nơi đến chốn của chính chúng ta
để có được nhận thức lý luận thật đúng đắn và sâu sắc, từ đó có cơ sở để phân
biệt đúng sai, khẳng định những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa xã hội khoa

học một cách có căn cứ, có sức thuyết phục.
Trong bối cảnh đó, rà sốt nhận thức cho đúng những vấn đề chủ nghĩa
xã hội khoa học do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đặt ra và giải quyết trong
các tác phẩm do chính các ơng viết ra là một nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp


3

thiết, khơng chỉ để vận dụng đúng đắn mà cịn để bảo vệ và phát triển lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng cũng như
yêu cầu của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.
Đối với Việt Nam, một nước tự xác định cho mình nhiệm vụ phải trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng,
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thì trước hết, bản thân hệ thống
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội phải được nhận
thức đúng. Đọc và hiểu đúng những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội trong các tác phẩm do chính các ông viết ra,
làm sâu sắc thêm nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, vận dụng vào thực
tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là một nhu cầu tự
thân của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong cơng tác tư tưởng, lý luận của Đảng nói chung, trong lĩnh vực
nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
trong các trường Đại học và Cao đẳng nói riêng, cần nhìn nhận một thực tế là,
bên cạnh những quan điểm, những vấn đề đã được nhận thức tương đối rõ
ràng, tường tận, có khơng ít những quan điểm, những vấn đề chưa đủ rõ ràng,
tường tận, còn nhiều nghi vấn, tranh luận địi hỏi phải tìm về những gợi ý,
những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trong các tác phẩm do
chính họ viết ra. Nhưng những gì mà C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin viết ra

khơng phải là dễ đọc và dễ hiểu. Điều đó là do, về mặt văn phong, các tác giả
thường viết theo lối hàn lâm rất khó đọc và khó hiểu; về nội dung tư tưởng,
các tác phẩm thường bao quát nhiều chủ đề khác nhau, trong đó có quan điểm
đã hồn thành, có quan điểm chưa hồn thành; có những kết luận là tuyệt đối
đúng, chân lý, có những kết luận chỉ mang tính dự báo dưới dạng cái có thể
xảy ra chứ khơng phải dứt khốt sẽ xảy ra. Do vậy, cần có sự hướng dẫn, giới
thiệu thì người đọc mới hiểu đúng những tư tưởng quý giá của các ơng.
Trong bối cảnh chung nêu trên, việc phân tích, làm rõ nội dung lý luận
của những vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm tiêu biểu của


4

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, rút ra ý nghĩa khoa học và những bài học từ lý
luận đó đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, có ý nghĩa
vừa cơ bản, vừa cấp bách, cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Với những hình thức và mức độ khác nhau, ở Việt Nam cũng như trên thế
giới, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong các
tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể khái qt các cơng
trình nghiên cứu này thành ba hình thức như sau:
Hình thức thứ nhất, bao gồm các cơng trình nghiên cứu, phân tích tác
phẩm riêng biệt của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin. Khối lượng các cơng
trình thuộc hình thức này khá đồ sộ. Ở đây chúng tôi chỉ lược kê một số cơng
trình tiêu biểu: Giới thiệu tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976; Về tác phẩm của
Ph.Ăngghen “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
của I.L.Anđrêép, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1988; Bàn về tác phẩm “Hai sách
lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ” của V.I.Lênin,
Nxb APN, Mátxcơva, 1987; Giới thiệu tác phẩm của V.I.Lênin “Nhà nước và

cách mạng”, Vụ Mác - Lênin Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1986; Bàn về tác phẩm của V.I.Lênin “Những nhiệm vụ của
Đoàn thanh niên”, Nxb APN, Mátxcơva, 1990; Về tác phẩm “Bàn về chế độ
hợp tác xã” của V.I.Lênin của X.A.Xeraiép, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1986;...
Mục đích của những cơng trình này chủ yếu là đáp ứng yêu cầu nghiên cứu,
giảng dạy và phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin nên các tác giả phân tích, giới
thiệu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nói chung, trong đó có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa.
Hình thức thứ hai, là các cơng trình nghiên cứu về lịch sử chủ nghĩa
Mác, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lịch sử tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, lịch sử tư tưởng chính trị có đề cập và phân tích những vấn đề


5

lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Tiêu biểu cho hình thức này trước hết phải kể đến bộ Lịch sử chủ
nghĩa Mác, gồm 4 tập, do Viện nghiên cứu lịch sử phát triển của chủ nghĩa
Mác - Lênin thuộc trường Đại học nhân dân Trung Quốc biên soạn, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Ở góc độ lý luận, bộ sách này trình bày sự
hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác như một chỉnh thể lý luận về nhiều
mặt, nhiều lĩnh vực mà trọng tâm là triết học, kinh tế học chính trị mácxít và
chủ nghĩa xã hội khoa học. Những vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong bộ
Lịch sử chủ nghĩa Mác được khai thác từ nguồn tài liệu trực tiếp là các tác
phẩm đồ sộ của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, đồng thời cũng phản ánh sâu
sắc ý kiến của cac tác giả cũng như định hướng chính trị của Trung Quốc hiện
nay. Ba cơng trình quan trọng khác là: C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng và
phát triển lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học của B.A.Tsaghin, Nxb
Tiến bộ, Mátxcơva, 1986; Phong trào công nhân quốc tế những vấn đề lịch sử
và lý luận của tập thể tác giả Liên Xô, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1985, (tập 1)

và Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004 (tập 2); Lược khảo lịch sử tư tưởng
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, GS. Đỗ Tư, GS,TS. Trịnh Quốc
Tuấn, PGS, TS. Nguyễn Đức Bách (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996,... Trong các cơng trình này, các tác giả tập trung giải quyết nhiệm
vụ trình bày sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt lịch sử của
vấn đề, do vậy, nội dung lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm
tiêu biểu cho các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chỉ được các tác giả phân tích, trình bày
một cách khái qt.
Hình thức thứ ba, bao gồm các cơng trình nghiên cứu hoặc hướng dẫn
nghiên cứu cụm các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, gắn với
một giai đoạn hoặc một chủ đề nhất định. Tiêu biểu cho hình thức này là các


6

cơng trình: Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin trên cơ sở nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, đề tài khoa học cấp cơ
sở, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 1998 - 1999, do PGS, TS. Phan
Thanh Khôi làm chủ nhiệm. Trong đề tài này, nội dung các vấn đề về chính trị
– xã hội trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin được các tác
giả phân tích khá kỹ lưỡng. Tuy nhiên, đề tài chỉ phân tích, đánh giá các tác
phẩm từ “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” trở về sau và trên cơ sở nhận thức
về chủ nghĩa xã hội khoa học đạt được vào những năm cuối thế kỷ XX. Từ đó
đến nay, những chất liệu và yêu cầu mới từ hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và trên thế giới đã
tăng thêm đáng kể, cần được bổ sung vào sự phân tích, đánh giá các tác phẩm
kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm Vấn đề triết học trong tác
phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin do PGS, TS. Dỗn Chính - PGS,
TS. Đinh Ngọc Thạch (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, là

một cơng trình nghiên cứu kỹ lưỡng, mang tính học thuật cao về các tác phẩm
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mục đích của cơng trình là phân tích,
làm rõ những vấn đề triết học trong các tác phẩm tiêu biểu của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nên các vấn đề về chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ được
các tác giả trình bày ở mức độ khái quát, như là những kết luận tất yếu được
rút ra từ các nguyên lý của triết học mácxít. Trong cuốn Giới thiệu tác phẩm
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và Chính
quyền nhà nước, của tập thể tác giả Khoa Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà
nước, thuộc phân viện Báo chí - Tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, các tác giả hướng sự
nghiên cứu chủ yếu vào tư tưởng xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước
trong một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin. Tuy vậy, nhiều
vấn đề lý luận được phân tích trong tác phẩm này có liên quan đến một trong


7

những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học - vấn đề hệ thống chính trị
và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. GS.Ngô Thành Dương, trong tác phẩm
của mình với tựa đề Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác Ph.Ăngghen, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, đã giới thiệu, phân tích
một số tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen giai đoạn hình thành chủ nghĩa
Mác. Và ở đây, những vấn đề được phân tích, giới thiệu chủ yếu là những vấn
đề của triết học, còn những vấn đề của chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ được tác
giả đề cập đến một số quan điểm xuất phát.
Cũng có thể xếp cuốn Phương pháp nghiên cứu các tác phẩm của Lênin, tập 1, tập 2 của tập thể các tác giả Liên Xô, Nxb. Sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội, 1987, vào hình thức thứ ba này. Trong cả hai tập của cuốn
sách này, các tác giả đưa ra những lời khuyên về phương pháp nghiên cứu các
tác phẩm của V.I.Lênin, và để làm mẫu, các tác giả đã tiến hành phân tích một
số tác phẩm của V.I.Lênin giai đoạn trước Cách mạng Tháng Mười Nga. Nội
dung được các tác giả phân tích, giới thiệu là tư tưởng của V.I.Lênin nói
chung, trong đó có tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

Những kết quả nghiên cứu, phân tích tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong
các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin của các cơng trình khoa học
kể trên là rất quan trọng và rất cần thiết đối với nhận thức và thực tiễn cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm qua. Trong khi triển khai
đề tài khoa học của mình, chúng tơi đã kế thừa và tiếp thu kết quả nghiên cứu
của những cơng trình đó.
Tuy nhiên, thực tiễn không đứng yên mà luôn luôn vận động, phát triển.
Xuất phát từ yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng cũng như yêu cầu của công
tác tư tưởng, lý luận hiện nay, đối chiếu với tình hình nghiên cứu nêu trên, và
ngồi những điều đó ra, tán thành với ý kiến của Michel Vadée - nhà triết học,
thành viên của Trung tâm nghiên cứu và tư liệu về Hégel và Marx thuộc


8

Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp - nói rằng: “Mặc dù sự phong
phú của những bản thuyết trình, của những cơng trình lý luận và lịch sử dành
cho các tác phẩm của Marx nhưng tác phẩm của Marx vẫn ln cất giấu
những bí ẩn và làm chúng ta ngạc nhiên”1, chúng tôi chọn Những vấn đề chủ
nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài là phân tích, làm rõ nội dung lý luận cơ bản của
những vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong các phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, trước hết là các tác phẩm trình bày tương đối tập
trung các vấn đề căn cốt nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học, rút ra ý nghĩa
khoa học và những bài học từ nội dung lý luận của các tác phẩm ấy đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích đó, đề tài tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:

Một là, nghiên cứu, làm sáng tỏ bối cảnh ra đời của tác phẩm trong đó
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đề xuất và trình bày quan điểm của mình về
những vấn đề của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Hai là, xác lập đề cương phân tích, làm rõ nội dung lý luận cơ bản của
những vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong một số tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
Ba là, rút ra ý nghĩa khoa học và những bài học từ việc tìm hiểu nội dung
lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu là lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học, một trong ba bộ phận hợp thành của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội khoa học, triết học và kinh tế
học chính trị mácxít có mối liên hệ nội tại khăng khít. Cuộc cách mạng trong
1

Michel Vadée , C.Mác nhà tư tưởng của cái có thể, tập 1, Viện Thơng tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996,
tr.3.


9

lĩnh vực triết học và kinh tế học chính trị do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện,
gắn liền hết sức chặt chẽ với học thuyết mới về chủ nghĩa xã hội. Do đó, để
luận chứng về mặt lý luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học, đề tài có đề cập đến,
ở mức độ cần thiết, những vấn đề của triết học và kinh tế học chính trị mácxít.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp của đề tài
Đề tài được triển khai trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nổi bật là phương pháp
lơgích và lịch sử. Bên cạnh đó những người thực hiện đề tài cịn sử dụng các

phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh đối chiếu nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ đặt ra của đề tài.
5. Cái mới của đề tài
Một là, từ việc phân tích hệ thống các quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học
trong sự phát sinh, hình thành và phát triển của nó gắn với những biến đổi của
hiện thực xã hội và cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt, khẳng định giá trị bền
vững của những quan điểm đó một cách có căn cứ, có sức thuyết phục.
Hai là, trên cơ sở khẳng định giá trị khoa học và sức sống của những quan
điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội được C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đề xuất và
trình bày trong các tác phẩm của mình, đề tài rút ra từ những quan điểm đó
những bài học sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học qua hệ thống các luận điểm gốc của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
Và, những bài học rút ra từ sự nhận thức đó là những bài học thiết thực, bổ ích
đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập các môn học như: “Lịch sử tư tưởng
xã hội chủ nghĩa”, “Chủ nghĩa xã hội khoa học”, “Lịch sử tư tưởng chính trị Mác
- Lênin”, “Chính trị học Mác - Lênin”, … trong các trường đại học và cao đẳng.


10

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết
cấu gồm 2 phần:
Phần thứ nhất: Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học

trong các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Phần thứ hai: Sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa xã hội khoa học trong
các tác phẩm của V.I.Lênin.


11

PHẦN THỨ NHẤT

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC TRONG
CÁC TÁC PHẨM CỦA C.MÁC VÀ
PH.ĂNGGHEN


12

GÓP PHẦN PHÊ PHÁN TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN
CỦA HÊGHEN. LỜI NĨI ĐẦU 
C.Mác
1. Hồn cảnh ra đời, mục đích và kết cấu của tác phẩm
Đầu tháng 7, sau khi tốt nghiệp đại học, C.Mác trở về Bon. Chín tháng
sau, C.Mác làm biên tập viên Báo tỉnh Ranh, sau đó trở thành Tổng biên tập
tờ báo này. Do tính cấp tiến, có khuynh hướng dân chủ, bảo vệ người lao
động, phê phán trật tự xã hội hiện hành nên tờ báo bị đóng cửa. Rời khỏi Ban
biên tập Báo tỉnh Ranh, từ tháng 3 năm 1843, C.Mác đến Croixnác. Tại đây
C.Mác nghiên cứu các cơng trình của các nhà tư tưởng khai sáng Pháp, ghi
chép, đánh giá, tập trung trong Bút ký Croixnác. Cũng trong thời gian này
C.Mác viết tác phẩm lớn đầu tiên - Góp phần phê phán triết học pháp quyền

của Hêghen, đánh giá có phê phán quan điểm của Hêghen trong việc giải
quyết vấn đề quan hệ giữa xã hội cơng dân và nhà nước. Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen là kết quả của sự phát triển tư tưởng từ năm
1841 đến năm 1843 của C.Mác. Chúng ta biết rằng ngay sau luận án tiến sỹ,
C.Mác đã bắt đầu cuộc hành trình tư tưởng theo hướng dân chủ cấp tiến.
Trong bài viết Tuyên ngôn triết học của trường phái lịch sử pháp quyền, sau
khi vạch ra và phê phán quan điểm phản lịch sử của Gustap Hugô, C.Mác
đánh giá cao triết học khai sáng Đức đã biết tiếp thu và vận dụng tư tưởng dân
chủ của cách mạng Pháp vào điều kiện Đức, xem triết học Cantơ là “lý luận
Đức của cách mạng Pháp”1.
Mùa thu năm 1843, C.Mác sang Pari, hợp tác với Rugơ hình thành Niên
giám Đức – Pháp. Khơng khí sơi sục đấu tranh của giai cấp công nhân Anh
và Pháp tác động mạnh mẽ đến sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác từ chủ
nghĩa dân chủ cách mạng (thể hiện đặc trưng trong tác phẩm Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen) sang lập trường chủ nghĩa xã hội

1

Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 569 - 590.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 131.


13

khoa học. C.Mác in trong Niên giám Đức - Pháp hai bài viết là Về vấn đề Do
Thái và Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen – Lời nói đầu
(cuối 1843 – đầu 1844). Mục đích của Góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen – Lời nói đầu là thơng qua việc bày tỏ những quan điểm
chính trị – triết học của mình, C.Mác tun bố về sự chuyển biến có tính bước
ngoặt trong tư tưởng, đối lập với phái Hêghen trẻ.

Lời nói đầu khơng phải là một tác phẩm riêng, mà chỉ là phần dẫn luận
cho Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, như tên gọi của bài
viết. Tuy vậy nó xứng đáng được phân tích riêng do sự đột phá về cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận hàm chứa trong đó. Bài viết ngắn này (khoảng
trên dưới 20 trang) ra đời sau tác phẩm chính sáu tháng. Sự lạ lùng về kết
cấu, lơgic của Lời nói đầu có thể được giải thích bằng q trình chuyển biến
tư tưởng cơ bản của người sáng lập chủ nghĩa Mác. Lúc đó phái Hêghen trẻ
tiếp tục sửa chữa một số luận điểm của Hêghen, nhất là vấn đề tôn giáo và
nhà nước. Tuy nhiên các đại diện của nó chỉ dừng lại ở sư phê phán “thuần
túy”, mà không biến phê phán lý luận thành phê phán thực tiễn, phê phán tơn
giáo thành phê phán cõi trần, do đó triết học của cả Hêghen lẫn phái Hêghen
trẻ chỉ là những tiếng la ồn ào, vơ nghĩa.
Lời nói đầu khơng chỉ biểu thị thái độ của C.Mác đối với quan điểm triết
học theo nghĩa cũ của Hêghen và phái Hêghen trẻ, mà cịn là tun ngơn đau
tiên của C.Mác trong q trình hình thành thế giới quan triết học và lập
trường chính trị mới. C.Mác không chỉ đoạt tuyệt với chủ nghĩa duy tâm
Hêghen, mà còn vượt qua lập trường dân chủ tư sản, lấy việc phụng sự cuộc
đấu tranh của giai cấp vơ sản làm mục đích của đời mình.
Dõi theo hành trình tư tưởng của C.Mác từ thời kỳ làm Báo tỉnh Ranh
đến lúc này, có thể thấy bài viết là sự kết thúc chặng đường tìm tịi, bắt đầu
chặng đường mới trong cuộc đời Mác.
2. Nội dung của bài viết
1) Phê phán triết học Hêghen và phái Hêghen trẻ, xác lập cách hiểu
mới về triết học


14

Trong Lời nói đầu các vấn đề triết học và chính trị đan xen nhau và
thống nhất với nhau, làm nên một khởi đầu tư tưởng khá sắc nét, rõ ràng của

C.Mác.
Khi đánh giá triết học Hêghen, mà cụ thể triết học pháp quyền, C.Mác
chỉ rõ rằng triết học ấy là “triết học tư biện về pháp quyền … một sự tư duy
trừu tượng, tách rời cuộc sống, về nhà nước hiện đại” [579]. Hêghen rút ra các
quan hệ hiện thực từ ý niệm pháp quyền, chứ không ngược lại. Chủ nghĩa duy
tâm tuyệt đối của Hêghen, ẩn mình trong chủ nghĩa phiếm duy lý
(panrationalism), đã tạo nên cả một “huyền thoại” về lý trí, nhưng chính vì lẽ
đó mà nó tách khỏi những điều kiện lịch sử trần tục, hiện thực, biến các vấn
đề triết học thành các luận chứng tư duy “thuần túy”.
Triết học Hêghen phản ánh tính hai mặt về chính trị của giai cấp tư sản
Đức, đúng hơn, những người thị dân Đức. Một mặt, giai cấp tư sản Đức, cũng
như người Anh và người Pháp ở đêm trước của cuộc cách mạng trong thực
tiễn, cần đến lý trí như giá đỡ của tinh thần cách mạng, hay nói như
Ph.Ăngghen, cần đến lý trí như chuẩn mực, như vị quan tòa phán xét hành vi
con người, từ đó khẳng định sự chiến thắng tất yếu của lý trí trước cái phi lý
và phi nhân tính. Mặt khác, do chịu sự chi phối của những điều kiện lịch sử
tại nước Đức, với nền quân chủ và tình trạng lạc hậu về kinh tế, người Đức
mong muốn cải tổ xã hội “từ bên trên”, từ sự giác ngộ của tinh thần, và dừng
lại ở đó. Đề cập đến tính chất nửa vời của cách mạng Đức, C.Mác cho rằng,
“nói chung người Đức tư duy sắc bén, nhưng lại không thể làm như điều mà
các dân tộc khác đã làm” [579]. Tính trừu tượng và sự kiêu ngạo trong tư duy
không che dấu nổi sự yếu đuối trong thực tiễn chính trị – đó là nước Đức hiện
đại. Nếu về mặt lý luận, nước Đức có thể đạt tới đỉnh cao so với những dân
tộc khác trước và cùng thời đại, thì về mặt thực tiễn, nó vẫn cịn cách nấc
thang phát triển tất yếu khá xa. “Ngay cả lịng tự tơn về mặt tinh thần của giai
cấp tư sản Đức cũng chỉ dựa trên ý thức thấy mình là đại biểu chung của tính
tầm thường philixtanh của tất cả các giai cấp khác” [586]. Thiếu hẳn tiền đề
vật chất, sức mạnh tư duy của người Đức cũng chỉ biểu thị một cách phiến
diện, không triệt để và không thực tế.



15

Trong Gia đình thần thánh, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đề cập đến thứ
triết học siêu thực tế, “bay lượn cao trên thực tiễn” như vậy1
Các triết gia Đức, từ Cantơ đến Hêghen, sở dĩ không thể làm cách mạng
như người Pháp, mà buộc phải nép mình trong vị trí của những giáo sư, viết
sách theo đơn đặt hàng của chính phủ hiện tại để giáo dục thanh niên và đảm
bảo ổn định xã hội (cụm từ này có thể đặt trong ngoặc kép), vì họ khơng thể
vượt qua khỏi khn khổ đã quy định họ, cái khuôn khỏ của “hiện thực hiện
đại chính thống” mà họ buộc phải gia nhập vào [678].
Phái Hêghen trẻ mong muốn cách mạng hóa tư tưởng của thầy mình một
cách “dứt khốt”. Sự khác nhau giữa những đại biểu của phái Hêghen trẻ với
chính Hêghen thể hiện trước hết ở tinh thần phê phán mạnh mẽ của họ; đối
tượng phê phán là tôn giáo, mục đích phê phán là giải phóng nước Đức khỏi
sự tha hóa tơn giáo, cũng như tha hóa chính trị. Tuy nhiên những tiếng gào
thét đó, theo C.Mác, vẫn chưa đáp ứng nhu cầu giải phóng con người hiện
thực. Cần phải đi từ “phê phán thượng giới” đến “phê phán cõi trần”, biến phê
phán tôn giáo thành phê phán pháp quyền, biến phê phán thần học thành phê
phán chính trị [571]. Sự phê phán tôn giáo, theo C.Mác, là tiền đề của sự phê
phán khác [569], vì vậy khơng thể dừng lại ở đó. Kết luận: “Trong cuộc đấu
tranh chống những trật tự đó, sự phê phán đó, sự phê phán khơng phải là sự
hăng say của lý tính, mà là lý tính của sự hăng say. Sự phê phán khơng phải là
con dao mổ, mà là vũ khí. Đối tượng của nó là kẻ thù của nó, kẻ thù mà nó
muốn khơng phải bác bỏ mà là tiêu diệt đi” [573]. Các nhà tư tưởng của phái
Hêghen trẻ, kể cả Phoiơbắc, chỉ mới ý thức được về cái phi lý đang tồn tại,
nhưng bằng cách nào thủ tiêu cái phi lý họ lại khơng đặt ra; mà nếu có đặt ra,
thì cũng chỉ ở mức độ phê phán, hơn nữa chỉ là sự phê phán tinh thần “nói
chung” lẫn tinh thần “mê hoặc quần chúng”, tức tôn giáo. Nhưng sự phê phán
như thế chứng tỏ các nhà Hêghen trẻ chưa thoát ra khỏi hệ thống Hêghen.

“Cái mới” mà họ đưa ra là thay ý niệm bằng tự ý thức hoặc một cái gì tương
tự.

1

Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. tr. 60.


16

Thơng điệp của C.Mác là: Khơng thể xóa bỏ được triết học, nếu khơng
thực hiện nó trong hiện thực [578]. C.Mác nhắc ý này không dưới bốn lần.
Nên hiểu như thế nào? Khơng phải xóa bỏ, hay phủ định triết học nói chung,
mà xóa bỏ triết học theo nghĩa cũ tại Đức, thứ triết học đã hoàn thành nhiệm
vụ của mình ở giai đoạn trước, nhưng giờ đây khơng đáp ứng được những
nhu cầu của thời đại mới, nó phải được thay thế.
Ngay cả đối với vấn đề tôn giáo, vấn đề mà phái Hêghen trẻ thường
xuyên đề cập đến, cũng cần được xem xét từ quan điểm lịch sử cụ thể, nghĩa
là từ tính phức tạp của các quan hệ xã hội, chứ không chỉ từ “ý thức khốn
khổ”, nổi sợ hãi và bất lực của con người trước các hiện tượng tự nhiên. Theo
C.Mác, vấn đề không hẳn là thay thế Cơ Đốc giáo bằng tôn giáo của tình yêu
hay những gì tương tự, mà cần vạch ra cơ sở hiện thực của tôn giáo, khắc
phục những ảo tưởng tôn giáo, vươn tới những giá trị thực sự của con người.
“Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”
[569]. Con người không được hiểu theo nghĩa nào khác hơn là thế giới con
nguời, là nhà nước, là xã hội. Tôn giáo là sản phẩm của những quan hệ xã
hội. Tính chất hai mặt của tôn giáo trong nhận định của C.Mác, sau khi ơng
chỉ ra cơ sở xã hội của nó: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy.
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới

khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự khơng có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [570]. Phải hiểu ý cuối cùng
như thế nào? Một là, tôn giáo trong vai trò là liệu pháp tinh thần của con
người; hai là, tơn giáo “biến con người thành tính hiện thực ảo tưởng” [570].
C.Mác nói về tính hai mặt của tơn giáo như vậy. Chừng nào lực lượng chính
trị xã hội sử dụng tơn giáo vì mục đích củng cố địa vị của mình, thì chừng ấy
sự phê phán những ảo tưởng tơn giáo là: Hình thức manh nha của sự phê phán
cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là vịng hào quang thần thánh của nó” [570].
Những người Hêghen trẻ chỉ mới vạch ra, và vạch ra chưa đầy đủ bản
chất của tôn giáo. Lý luận triết học mới đi từ phê phán lý luận đến chỗ phê
phán hiện thực; lý luận chỉ phát huy sức mạnh một khi nó được vật chất hóa:


17

“Vũ khí của sự phê phán, cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê phán của
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng” [580].
Triết học mới, với tính cách là chủ nghĩa nhân văn, khơng giải phóng con
người nói chung, mà hướng đến một lực lượng xã hội hiện thực, “kết quả của
sự phát triển công nghiệp”, “sự nghèo khổ được tạo ra một cách nhân tạo”.
Phân tích tính chất của triết học mới, C.Mác viết: “Giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vơ sản cũng thấy triết học
là vũ khí tinh thần của mình” [589]. Con người là điểm xuất phát, và giải
phóng con người (hiện thực) là mục đích cuối cùng của triết học.
Tun bố có tính cách mạng ấy được tiếp tục thể hiện trong các tác phẩm
Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 và Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
khẳng định tính kế thừa và phát triển của chủ nghĩa nhân văn cộng sản.
3) Điểm xuất phát và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khoa học

Trong bài viết này, cũng như trong tác phẩm viết chung đầu tiên của
C.Mác và Ph.Ăngghen – Gia đình thần thánh – C.Mác chưa sử dụng thuật
ngữ chủ nghĩa xã hội (và chủ nghĩa cộng sản), nhưng nội dung thể hiện trong
cac tác phẩm những năm 1844 - 1845 đã chỉ ra quá trình chuyển biến từ chủ
nghĩa dân chủ sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Quá trình ấy bắt đầu được
hình thành dưới dạng mầm mống Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen và Lời nói đầu. Tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen được C.Mác viết vào cuối năm 1842, phần lớn vào mùa hè
năm 1843, được lưu lại dưới dạng 39 tờ viết tay, đánh dấu bằng chữ số La
Mã. Tờ đầu bị thất lạc. Trong bản thảo C.Mác phân tích có phê phán các mục
260 – 313 của tác phẩm Hêghen Những nguyên lý của triết học pháp quyền
(Grundlinien der Philosophie des Rechts). Những đoạn này thuộc về một
chương trong cuốn sách trên, bàn về nhà nươc. Đầu đề bản thảo của C.Mác là
do Viện Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin đặt.
Trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã
chuyển lối diễn đạt có tính thần bí hóa của Hêghen sang “ngơn ngữ văn xi”,


18

cho phép lột tả bản chất của cách tiếp cận tư biện, xa rời thực tiễn: “Gia đình
và xã hội công dân được Hêghen coi là những lĩnh vực của khái niệm nhà
nước, cụ thể là những lĩnh vực của giai đoạn hữu hạn của nhà nước, như là
tính hữu hạn của nhà nước. Đó là cái nhà nước đang phân chia bản thân mình
ra những lĩnh vực ấy, lấy những lĩnh vực ấy làm tiền đề”1.
Ở lý luận về pháp quyền Hêghen “ý niệm biến thành chủ thể độc lập, cịn
quan hệ hiện thực của gia đình và xã hội công dân với nhà nước biến thành
hoạt động bên trong có tính chất tưởng tượng của ý niệm. Trên thực tế gia
đình và xã hội cơng dân là những tiền đề của nhà nước, chính chúng mới là
những yếu tố thực sư tích cực, nhưng trong tư duy tư biện thì tất cả điều đó

đều bị đặt lộn ngược”2.
Sự phân tích tiếp theo cho thấy Hêghen đâu đâu cũng làm cho ý niệm trở
thành chủ thể, còn chủ thể thực sự theo nghĩa riêng có thì biến thành khách
thể. Hêghen khơng đưa những tính quy định trừu tượng ra khỏi những sự vật
cụ thể, mà ngược lại. C.Mác viết: “Gia đình và xã hội cơng dân là những bộ
phận của nhà nước, là những tồn tại tinh thần hiện thực của ý chí, là những
phương thức tồn tại của nhà nước. Gia đình và xã hội cơng dân tự chúng cấu
thành nhà nước. Chúng chính là động lực. Cịn theo Hêghen thì ngược lại,
chúng được sản sinh ra từ ý niệm hiện thực”3. Sự đảo ngược theo tinh thần lý
tưởng hóa, thần bí hóa ở Hêghen chính là ở chỗ điều kiện biến thành cái chịu
điều kiện, cái quy định biến thành cái bị quy định, cái sản sinh biến thành sản
phẩm của sản phẩm của nó. Ý niệm hiện thực bị hạ xuống “lĩnh vực hữu hạn”
của gia đình và của xã hội cơng dân chỉ là để – bằng cách vứt bỏ chúng –
hưởng thụ tính vơ hạn của mình và tái sản sinh ra tính vơ hạn đó.
Chỉ nhờ có sự thần bí hóa hiện thực thì Hêghen mới đủ sức biện minh
cho “tính hợp lý” ảo tưởng của chính quyền quân chủ, nhưng chính ở đây hạn
chế của phương pháp phân tích bộc lộ rõ. “Mục đích nhà nước” và “những
quyền lực nhà nước” bị thần bí hóa khi chúng được tun bố là “những
phương thức tồn tại” nhất định của thực thể, và bị tách rời khỏi (phương thức)
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 312.
Sđd, tr. 313.
3
Sđd, tr. 314 - 315.
2


19


tồn tại hiện thực của chúng, khỏi “tinh thần đang nhận thức bản thân và mong
muốn bản thân”, khỏi “tinh thần được đào luyện”1. Với Hêghen thì chế độ nhà
nước là hợp lý được uốn nắn theo cái mô thức đồng nhất rất hấp dẫn và đầy
ấn tượng giữa cái lơgíc và cái hiện thực. Khái niệm ln được Hêghen trau
chuốt, làm nên cái mà Hêghen rất tâm đắc, cái “động lực được thần bí hóa
vốn có của tư tưởng trừu tượng”2. Nêu lên tính phổ biến của chế độ nhà nước
và của luật pháp mà Hêghen muốn nói đến quyền lực của nhà vua với tính
cách chủ quyền của nhà nước, cịn “ý chí hiện thực”, “ý chí cá nhân” là
“quyền lực của nha vua”. Do đó C.Mác chỉ rõ rằng cái “ý chí hiện thực”
chẳng qua là một sự tùy tiện. Nói tóm lại, “ở Hêghen thực thể thần bí đã trở
thành chủ thể hiện thực, cịn chủ thể hiện thực lại được hình dung thành một
cái khác, thành một yếu tố của thực thể thần bí”3.
Phê phán quan điểm của Hêghen về xã hội công dân và nhà nước, C.Mác
đi tới lập trường dân chủ triệt để. Cần chú ý rằng, C.Mác ngay lúc còn đang
đứng trên lập trường dân chủ tư sản, C.Mác đã lấy mô hình cách mạng Pháp
làm biểu hiện đặc thù của sự hiện thực hóa lý trưởng dân chủ trong khn khổ
của xã hội ấy. Q trình đi tới đó gắn với sự phân tích những hình thức nhà
nước trong lịch sử, chỉ ra tính tất yếu của sự hình thành và thay thế của chúng.
Vào thời cổ đại sự tham gia vào công việc nhà nước là nội dung hiện thực của
hoạt động của các cơng dân tự do, cịn con người cá biệt là nơ lệ, nói cách
khác, xã hội dân chủ vào thời cổ đại chưa thể giải phóng con người ra khỏi
thân phận nơ lệ chính trị. Vào thời Trung cổ xã hội công dân đồng nhất với
nhà nước và dường như cũng mang một ý nghĩa. Chỉ có điều cần lưu ý ở đây:
Trong thời Trung cổ con người khơng thể hiện mình như chủ thể tự do. “Thời
Trung cổ là chế độ dân chủ của sự không tự do”4. Vào thời mà Hêghen sống,
thời Cận đại, ông chỉ thấy “cơ thể nhà nước” và “chế độ chính trị” thống nhất
với nhau trong ý chí chung, và người đại diện nó là vua. Nhưng thực ra chế độ
chính trị ấy, theo C.Mác, là biểu hiện của bộ máy quan liêu và tha hóa đối với
xã hội cơng dân. Cái gọi là “công việc chung”, “trách nhiệm chung” trở nên
1


Sđd, tr. 328.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 333.
3
Sđd, tr. 240.
4
Sđd, tr. 353.
2


20

vơ nghĩa. Sư phân tích tiếp theo của C.Mác cho thấy sự khác nhau cơ bản
giữa cách tiếp cận của C.Mác với cách tiếp cận của Hêghen về bản chất nhà
nước. Nhà nước khơng phải là cơng cụ điều hịa các quan hệ xã hội, các lợi
ích xã hội đối lập nhau. Cách mạng tư sản Anh và Pháp cho thấy rằng một khi
những mâu thuẫn xã hội đạt tới tính chất quyết liệt, khơng thể dung hịa được,
các lực lượng xã hội tiến bộ dùng bạo lực để thủ tiêu trật tự xã hội phi lý, thiết
lập trật tự xã hội mới, nơi con người không bị biến thành cái mà Hêghen gọi
là chủ thể bị lệ thuộc vào những định chế bất hợp lý nữa. Hêghen là nhà triết
học đầy mâu thuẫn. Một mặt, với tính cách là đại dịên cho tầng lớp xã hội tiến
bộ ở Đức, ông chào đón Cách mạng Pháp, và dành cho nó sự ngợi ca trân
trọng. Nhưng với tính cách là một vị giáo sư ăn lương nhà nước, được nhà
nước bảo trợ cho hoạt động, ông không thể và không muốn phê phán trực
diện nền quân chủ đang tồn tại, mà ngược lại, nhìn thấy ở đó sự hồn thiện
nhất định. Cho nên, nếu Hêghen nhìn đâu cũng thấy sự tương hợp nhà nước
và xã hội cơng dân, thì C.Mác lại chỉ ra cả cơ chế của sự tha hóa nhà nước đối
với xã hội công dân, mà chế độ quân chủ “là biểu hiện hồn chỉnh của sự tha
hóa ấy”1. C.Mác cịn gọi đó là “chế độ dân chủ của sự khơng tự do, là sự tha
hóa đến mức độ hồn thiện”2. Q trình tha hóa diễn ra mạnh mẽ trong điều

kiện của quân chủ chuyên chế, bằng con đường biến “các đẳng cấp chính trị
thành các đẳng cấp xã hội”.
Chú ý đoạn phân tích sau đây của C.Mác về bản chất nhà nước xét quan
hệ của nó với xã hội công dân: “Sự phát triển lịch sử, - C.Mác viết, - đã dẫn
tới sự chuyển biến của những đẳng cấp chính trị thành những đẳng cấp xã
hội, thành thử giống như những tín đồ Cơ Đốc giáo đều bình đẳng ở trên trời
và khơng bình đẳng dưới trần gian, những thành viên riêng lẻ của nhân dân
cũng đều bình đẳng trên cái thiên đường của thế giới chính trị của họ và
khơng bình đẳng trong … đời sống xã hội của họ”3. Nền quân chủ về mặt
hình thức đã tạo được sự nhất trí chính trị của nhân dân, nhưng, một là, nhân
dân, hiểu theo nghĩa sang trọng của từ đó, rốt cuộc lại chỉ là những cơng
1

Sđd, tr. 353.
Sđd, tr. 353.
3
Sđd, tr. 429.
2


21

chức, cịn nhân dân nói chung, hay “quần chúng”, “đám đơng” khơng thể tự
mình vận động được, mà cần có những người nắm quyền mới làm cho họ vận
động và được sử dụng1; hai là, vẫn có những giới hạn của quyền con người,
mà lẽ ra Hêghen phải phê phán, song ơng lại lẩn tránh nó bằng những diễn đạt
rắc rối (càng rắc rối khó hiểu càng tốt). Sự giới hạn quyền con người được
Hêghen, với “lương tâm không trong sáng”2 trình bày một cách bí hiểm và
mờ mịt. C.Mác chỉ ra thực chất của sự lẩn tránh đó3.
Hêghen dùng khái niệm “đẳng cấp” như môi giới giữa một bên là nhà

nước và chính phủ, và bên khác là nhân dân với những giới và những cá nhân
đặc thù. Đẳng cấp là hợp đề giữa nhà nước và xã hội công dân. Đẳng cấp là
mâu thuẫn đã được xác lập giữa nhà nước và xã hội công dân trong nội bộ nhà
nước, đồng thời là sự đòi hỏi giải quyết mâu thuẫn đó, nhưng giải quyết bằng
cách nào khơng thấy Hêghen nói đến. C.Mác nhận định: “Hêghen đáng trách
khơng phải vì ơng miêu tả bản chất của nhà nước hiện đại đúng như nó có
thực, mà vì ơng mạo nhận cái hiện có là bản chất của nhà nước. Cái hợp lý là
hiện thực – điều đó được chứng minh chính bởi mâu thuẫn của tính hiện thực
khơng hợp lý là tính hiện thực ln ln đối lập với điều mà nó nói về nó”4.
Ngay trong vấn đề tự do – một giá trị loài của con người – Hêghen cũng
giải quyết theo tinh thần trừu tượng, thần bí, khi tách phạm trù tự nó ra khỏi
phạm trù cho nó. Tự do trở thành ảo tưởng chính trị, cũng như “đẳng cấp”. “Ở
Hêghen, - C.Mác viết, - tự do chủ quan thể hiện ra là tự do hình thức”5. “…
Điều quan trọng là, - C.Mác lưu ý tiếp tục, - làm sao cho tự do được thực hiện
một cách tự do, là làm sao cho tự do thống trị không phải với tư cách là bản
năng tự nhiên vô ý thức của xã hội”6.
Sự đối lập “nhà nước chính trị” và “xã hội cơng dân” cũng được C.Mác
phân tích trong bài Về vấn đề Do thái 7.

1

Sđd, tr. 410.
Sđd, tr. 427.
3
Xem Sđd, tr. 403, 406.
4
Sđd, tr. 403.
5
Sđd, tr. 401.
6

Sđd, tr. 401.
7
Xem Sđd, tr. 536 - 537.
2


22

Những mâu thuẫn trong cách lý giải của Hêghen về quan hệ giữa “nhà
nước chính trị” và “xã hội cơng dân”: “Hêghen xuất phát từ tiền đề là sự tách
rời của xã hội cơng dân với nhà nước chính trị và ơng hình dung trạng thái
này là yếu tố tất yếu của ý niệm, là chân lý tuyệt đối của lý tính … Ơng đem
tính phổ biến tồn tại tự nó và cho nó của nhà nước đối lập với những lợi ích
đặc thù và những nhu cầu đặc thù của xã hội cơng dân. Tóm lại, bất cứ ở đâu
ông cũng mô tả sự xung đột giữa xã hội công dân và nhà nước …
Hêghen làm cho yếu tố đẳng cấp trở thành biểu hiện của sự tách rời,
nhưng đồng thời yếu tố này phải là đại biểu của sự đồng nhất không tồn tại.
Hêghen biết sự tách rời giữa xã hội cơng dân và nhà nước chính trị, nhưng
ông lại muốn cho sự thống nhất của nhà nước biểu hiện ra trong nhà nước,
hơn nữa biểu hiện ra sao cho các đẳng cấp của xã hội công dân … lại đồng
thời hợp thành yếu tố đẳng cấp của xã hội lập pháp”1.
Cách mạng Pháp đã chấm dứt quá trình tha hóa đó, khi tạo ra chế độ dân
chủ thay cho quân chủ. Đoạn so sánh hai chính thể cho thấy hình ảnh nhà dân
chủ cách mạng triệt để. Lúc này hẳn C.Mác chưa nhận diên một cách đây đủ
tính chất hai mặt của trật tự tư sản thời ông. Nhận diện nó một cách đúng đắn
phải đợi một năm sau, khi ông nêu lên thông điệp tư tưởng của mình bằng Lời
nói đầu cho Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen.
Thử nêu ra một số đoạn so sánh tiêu biểu hai chế độ nhà nước dân chủ và
quân chủ.
“Mỗi yếu tố (trong chế độ dân chủ) đều là yếu tố hiện thực của toàn thể

dân chúng. Cịn trong chế độ qn chủ thì bộ phận quyết định tính chất của
tổng thể. Chế độ dân chủ nhà nước với tính cách là khái niệm lồi. Cịn chế
độ quân chủ thì chỉ là một trong những giống của chế độ nhà nước, mà lại là
một giống tồi … Dưới chế độ quân chủ tổng thể, tức nhân dân, bị đặt vào một
trong những phương thức tồn tại của họ, tức chế độ chính trị của họ. Cịn
trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ thể hiện ra là một trong những tính
quy định, cụ thể là sự tự quy định của quan chúng nhân dân. Chế độ dân chủ
là câu đố đã được giải đáp của mọi hình thức chế độ nhà nước … ngày càng
1

Sđd, tr. 419 - 420.


23

hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con đường hiện thực, nhân dân hiện
thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ nhà nước
ở đây xuất hiện … với tính cách là sản phẩm tự do của con người.
Hêghen xuất phát từ nhà nước và biến con người thành nhà nước được
chủ thể hóa. Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành
con người được khách thể hóa. Cũng giống như tơn giáo “khơng tạo ra con
người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà
nước tạo ra nhân dân, mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước … Dưới chế độ
dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con
người … Chỉ có chế độ dân chủ mới là sự thống nhất chân chính giữa cái phổ
biến và cái đặc thù”1. Như vậy xét đến cùng chỉ trong nền dân chủ thực sự, thì
sự tha hóa mới được khắc phục, tha hóa chính trị sẽ khơng cịn nữa, vì theo
C.Mác chế độ nhà nước nói chung chỉ là một yếu tố của sự tồn tại của nhân
dân, chế độ chính trị (C.Mác hiểu chế độ chính trị là cơ thể của nhà nước, từ
đó mà phê phán Hêghen đã biến định đề ấy thành sự biện minh cho quyền lực

tối thượng và sự tùy tiện của nhà vua – NV) tự bản thân nó, ở đây, khơng tạo
thành nhà nước”2. Sự tha hóa sẽ khơng được khắc phục trong đời sống chính
trị chừng nào mà nhà nước tách khỏi mảnh đất trần tục, biến thành bộ máy
quan liêu, biến thành một thứ tôn giáo. “Cho tới nay, - C.Mác viết, - chế độ
chính trị là lĩnh vực tơn giáo, là tôn giáo của đời sống nhân dân, đối lập với sự
tồn tại trần tục của tính hiện thực của đời sống nhân dân …”3. Lẽ cố nhiên tư
tưởng của C.Mác thời kỳ này cịn đang trong q trình chuyển hóa từ dân chủ
tư sản sang dân chủ kiểu mới, hoàn thiện hơn. Do đó ơng chưa nhìn thấy đầy
đủ mặt trái của dân chủ tư sản; nếu có, thì cũng dừng lại ở sự phê phán những
tính quy định cụ thể của nó, chứ chưa đi tới phủ định biện chứng. Mặc dù vậy
ông đã ý thức được rằng cách tiếp cận của Hêghen về sự thống nhất các mặt
đối lập trong đời sống xã hội là thiếu triệt để, cần phải cải biến sao cho những
vết tích của tư tưởng thần bí hóa về nhà nước nhường chỗ cho phương pháp
luận khoa học – sự xem xét một cách hiện thực những vấn đề có tính hiện
1

Sđd, tr. 349, 350.
Sđd, tr. 349.
3
Sđd, tr. 352.
2


×