Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

1 nâng cao đạo đức CÔNG vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.08 KB, 10 trang )

Giải pháp nâng cao đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay
Nâng cao nhận thức về đạo đức công vụ, biến nhận thức về đạo đức công vụ
thành hành vi tích cực trong thực tiễn thi hành cơng vụ là việc làm hết sức cần thiết
trong đời sống xã hội nói chung và đối với đội ngũ cán bộ, cơng chức nói riêng. Bài
viết nêu lên sự cần thiết phải xây dựng và thực thi các tiêu chuẩn đạo đức cơng vụ;
đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay.
1. Bản chất và nội hàm của đạo đức công vụ
1.1. Sự cần thiết xây dựng và thực thi các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp trong
thời kỳ mới
Đạo đức học là một phạm trù triết học nhân sinh đã được Aristotle (384-322 trước
Công nguyên) đề cập từ rất sớm. Những nhà triết học lớn trong lịch sử như Socrat, Platon,
Aristotle, E.Kant, G.Heghen, L.A.Feuerbach, Khổng Tử… đã có những đóng góp to lớn
trong sự phát triển tư tưởng đạo đức học. Tuy nhiên, do hạn chế của lịch sử và điều kiện
cụ thể của thời đại, các nhà tư tưởng nói trên đều có những hạn chế nhất định khi bàn về
đạo đức học. Chỉ đến khi C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin đi sâu vào nguồn gốc và bản
chất của đạo đức thì mới khắc phục được những hạn chế và bổ sung những hiểu biết mới
quan trọng vào tư tưởng đạo đức học trước đây. C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin đã đưa
ra nhận thức mới dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nhận thức các hiện tượng đạo đức phù hợp với lịch sử của thời đại.
Theo đó, đạo đức được nhìn nhận là một hiện tượng xã hội, một phương diện của
đời sống xã hội, hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với tư cách là hình
thái ý thức xã hội, biểu hiện dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc, các chuẩn mực, các giá trị
điều chỉnh hành vi của con người và hoạt động xã hội trong sản xuất ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần.
Các cơng trình nghiên cứu trong nhiều thế hệ đã xác lập mối tương quan giữa đạo
đức và các hình thái ý thức xã hội khác, tập trung vào 3 mối quan hệ cơ bản: 1) Đạo đức
và chính trị; 2) Đạo đức và pháp luật - cơng cụ ghi nhận các chuẩn mực, các thói quen,
các giá trị được xã hội thừa nhận, tuân theo; 3) Đạo đức và tôn giáo - trong đời sống, tôn
giáo có vai trị hướng dẫn và đóng vai trị của đạo đức, hình thành các giá trị và ý nghĩa
của cuộc sống, có giá trị thiêng liêng, góp phần điều chỉnh hành vi của con người.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” - giá trị nền


tảng của đạo đức công chức, đạo đức công vụ trong xã hội Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, là
người đã phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác - Lênin để hình thành đạo đức cách mạng.
Chính đạo đức cách mạng của những người cách mạng, của các thế hệ người Việt Nam
thể hiện đỉnh cao trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ở sự xả thân, dám hy sinh tất

1


cả vì lý tưởng “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” tạo nên sức mạnh dân tộc, giành
thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm nên giá trị
Việt Nam, đạo đức Việt Nam.
Trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, đạo đức nghề nghiệp được đặt ra
và thể hiện ở hai phẩm chất đức - tài của người lãnh đạo, quản lý, của người cán bộ, cơng
chức nói chung. Khi công chức thực thi công vụ được xác định là một nghề đặc biệt, lại
càng cần một phẩm chất đặc biệt của người “công bộc” của dân. Từ thách thức chuyển
vai trò người quản lý, từ cơ chế “xin-cho” sang người phục vụ nhân dân, người phục vụ
phát triển là việc hình thành giá trị mới của người cán bộ, cơng chức - vấn đề có ý nghĩa
cách mạng.
Sắc lệnh số 76/SL về Quy chế công chức của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành năm 1950 đã khẳng định: “Công chức là đầy tớ,
công bộc của dân”, bốn phẩm chất “cần - kiệm - liêm - chính” là những giá trị đạo đức
cần được hình thành trong đội ngũ cán bộ, công chức mới của Việt Nam.
1.3. Về đạo đức nghề nghiệp
Xã hội có bao nhiêu nghề thì tất yếu có bấy nhiêu đạo đức nghề nghiệp, đây là đạo
đức xã hội đặc thù thể hiện trong các hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là hình thái
đạo đức xã hội có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá nhân và được cá nhân thể hiện, đạo
đức nghề nghiệp có liên quan trực tiếp tới hoạt động nghề nghiệp - được hình thành trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một đặc trưng quan trọng của đạo đức nghề nghiệp được các cơng trình nghiên cứu

về vấn đề đạo đức tập trung làm rõ là yếu tố “lương tâm nghề nghiệp” - không chỉ chứa
đựng trạng thái tình cảm, tâm lý mà là một động lực bên trong tạo ra thái độ ứng xử, thái
độ trách nhiệm với nghề, với sản phẩm mình làm ra, nhiệm vụ mình thực hiện. Đây là
mối quan hệ tương tác quan trọng hình thành nhân cách, đạo đức, giá trị của cán bộ, công
chức trong thực thi công vụ, cùng với nó hình thành nghĩa vụ với nghề nghiệp, thành
“nghiệp” của mình.
2. Về cơng vụ và thực thi cơng vụ
2.1. Bản chất công vụ
Trong các văn bản quy phạm pháp luật, công vụ được hiểu theo nghĩa rộng là công
việc của Nhà nước; cịn theo nghĩa hẹp, cơng vụ là việc nhà nước do công chức đảm
nhiệm, thực hiện. Do vậy, cơng vụ là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước quyền lực công. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đề cao tính tối thượng của pháp luật, theo nguyên tắc
“công chức chỉ được phép làm những việc do pháp luật quy định”, đây là yêu cầu đối với
người công chức trong thực thi công vụ. Do vậy, khi xác định công chức là một nghề đặc

2


biệt thì cũng là ở địi hỏi người cơng chức phải có một phẩm chất đặc biệt, đó là đạo đức
công vụ.
2.2. Những giá trị cơ bản của hoạt động thực thi công vụ
Công việc nhà nước do công chức đảm nhiệm hướng tới 2 giá trị: thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả - quản trị tốt; cung cấp dịch vụ công tốt nhất
cho xã hội, cho nhân dân.
Về thực chất, quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của nhân dân, do nhân dân ủy
quyền cho bộ máy nhà nước, mà đội ngũ cán bộ, cơng chức có trách nhiệm thực thi, do đó
cần có những quy định rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong
thực thi công vụ. Đây là sự ủy quyền gián tiếp, đòi hỏi cán bộ, công chức phải ý thức
được rõ ràng trách nhiệm của mình, cần có những chuẩn mực giá trị đạo đức, hành vi ứng
xử phù hợp, phải thực sự gần dân, nghe dân, hiểu dân và làm cho dân hài lòng - thực sự

phục vụ nhân dân, là đầy tớ của nhân dân. Những đòi hỏi trên đây tạo ra mối quan hệ tốt
đẹp giữa Nhà nước với nhân dân, hình thành những giá trị đạo đức mới cho đội ngũ cán
bộ, công chức trong thực thi công vụ.
3. Một số giải pháp nâng cao đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới,
đang hoàn thiện và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì quản
trị nhà nước phát triển hiệu quả đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đan xen,
trước hết là đối với đội ngũ cán bộ, cơng chức. Thực tiễn đang địi hỏi đội ngũ cán bộ,
cơng chức phải có trình độ quản trị mới tương ứng với các chuẩn mực đạo đức mới hình
thành phù hợp với quá trình hiện đại hố, chun nghiệp hố theo mục tiêu cải cách hành
chính nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Sau 35 năm tiến hành sự nghiệp
đổi mới, mặc dù đất nước đã đạt được nhiều thành tựu phát triển có ý nghĩa to lớn, song
chúng ta vẫn còn nhiều khuyết điểm, yếu kém trong cải cách thể chế, trong hình thành cơ
sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật tương ứng, trong xây dựng đội ngũ nhân lực cơng có trình độ
cao, đáp ứng u cầu phát triển nhanh, bền vững, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức có đủ
đức - tài đáp ứng thời kỳ phát triển mới. Tính chuyên nghiệp, kỹ năng, sự thành thạo của
đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra là thách thức lớn trong quá trình
phát triển của đất nước.
Thực tiễn cuộc sống cũng như nhiệm vụ quản lý nhà nước đang đặt ra yêu cầu có
những giải pháp tổng thể cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức mới đủ phẩm chất,
năng lực, trình độ, “tài - đức” cho quản trị đất nước trong thời kỳ mới, cụ thể là:
Một là, cần phải nghiên cứu nền tảng lý luận, cơ sở triết học về các giá trị đạo đức,
đạo đức xã hội làm cơ sở cho việc nghiên cứu xây dựng khung lý thuyết về đạo đức xã
hội mới, về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức.

3


Hai là, nghiên cứu hình thành mơ hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
chuyên nghiệp, hiện đại, trên cơ sở đó hình thành các tiêu chí của bộ máy hành chính

mới, tiêu chí năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức mới của đội ngũ cán bộ, công chức.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về đạo đức của công chức trong thực thi công vụ, đặc
biệt cần phải có một đạo luật riêng về đạo đức cơng vụ. Cụ thể, công chức khi thực thi
công vụ phải tuân thủ các chuẩn mực vừa mang tính đạo đức xã hội, đạo đức nghề
nghiệp; vừa phải tuân thủ những chuẩn mực pháp luật của nhà nước trong mối quan hệ
tổng hòa giữa con người với con người, con người với xã hội, con người với nhà nước
trên cơ sở hài hịa giữa quyền và lợi ích của nhà nước và cơng dân. Do đó, ngun tắc
pháp luật về đạo đức công vụ phải được xây dựng trên nguyên lý: pháp luật bắt buộc nguyên tắc nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp - nguyên tắc đạo đức xã hội (các quy tắc
ứng xử của công chức trong thực thi công vụ, thể hiện văn hóa cơng sở, văn hóa nơi cơng
cộng, nêu gương trong ứng xử xã hội). Đồng thời với việc rà soát, bổ sung các quy định
trong Luật cán bộ, công chức, Luật Viên chức, cần sớm nghiên cứu xây dựng Luật công
chức - công vụ.
Bốn là, cần đề cao vai trị của cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về
đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ. Kinh nghiệm các nền công vụ tiên tiến trên thế
giới cho thấy, trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cơng chức đều có chương trình huấn
luyện cơng chức, từ việc ứng xử trong quan hệ công chức với nhân dân tới thái độ trách
nhiệm trong thực thi công vụ.
Năm là, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà
nước, từng bước theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, xây dựng nền công vụ phục vụ, lấy
thước đo hiệu quả bằng sự hài lòng của người dân trở thành cơng cụ, tiêu chí đánh giá
chất lượng thực thi công vụ.
Sáu là, xây dựng các thể chế tổ chức và hoạt động công vụ theo mục tiêu tăng
cường tính cơng khai, minh bạch, quản lý nhà nước bằng pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là cơ sở để đầy lùi
bệnh vô cảm, vơ trách nhiệm, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, cơng chức
một cách chủ động, tích cực, hiệu quả. Huy động sự tham gia của người dân, của các tổ
chức xã hội vào công việc của nhà nước, giám sát và phản biện xã hội một cách thiết thực
đối với tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và đối với cán bộ, công chức trong thực
thi cơng vụ.
Bảy là, đề cao vai trị nêu gương của người lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các

cơ quan, tổ chức. Giáo dục cơng chức bằng hình thức nêu gương, tôn vinh những giá trị
tốt đẹp, công chức có trách nhiệm, tận tâm, nhanh chóng, hiệu quả, nhất là những tấm
gương “cần - kiệm - liêm - chính; chí cơng vơ tư” trong thực thi cơng vụ.
Tám là, chú trọng, khuyến khích việc tự đào tạo, tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất
đạo đức của cán bộ, công chức trong một xã hội học tập và nền kinh tế tri thức./.
4


GIẢI PHÁP
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP

Trước những thực trạng suy thoái đạo đức đang diễn ra trong xã hội, đặc biệt là
trong bộ phận công chức với các vụ tiêu cực, tham nhũng… làm ảnh hưởng đến cuộc
sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân và cản trở sự phát
triển kinh tế - xã hội, đạo đức công vụ đang trở thành vấn đề được xã hội rất quan tâm.
Nâng cao giáo dục, trang bị đạo đức công vụ cho công chức hiện là vấn đề cấp thiết
trong điều kiện Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở
cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện trên các lĩnh vực đời sống xã
hội.
Tiêu chí đánh giá đạo đức cơng vụ
Đạo đức công vụ là một phạm trù tương đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống,
cách xử sự của cán bộ, công chức không chỉ trong các mối quan hệ xã hội thơng
thường mà cịn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ cơng, đó là trong giao dịch hành
chính với tổ chức, công dân.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công chức phải đối mặt với nhiều vấn
đề mà trước đây khơng có. Những vấn đề như: tiền lương, tiền thưởng hay phụ cấp,
môi trường làm việc đều được đem ra so sánh với khu vực tư nhân và sự chênh lệch
giữa hai khu vực này cũng làm cho tư duy về giá trị công vụ, công chức thay đổi. Hiện
tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân thể hiện sự
thay đổi nhận thức giá trị công vụ.

Để hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến đạo đức cơng
chức cần có nền tảng đạo đức cơng chức vững chắc. Nền tảng này cần phải được xây
dựng dựa trên một hệ thống pháp luật để bảo đảm cho các chuẩn mực đạo đức được
thi hành trong công vụ và tiêu chí để đánh giá cơng chức mang tính truyền thống như
trung thực, thẳng thắn, không vụ lợi, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư.
Tiêu chí đánh giá đạo đức công vụ: Về bản chất, đạo đức công vụ là đạo đức
thực thi công vụ của công chức, bao gồm hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực dùng để
điều chỉnh mối quan hệ giữa đội ngũ công chức với tổ chức, công dân, thể hiện ở
lương tâm và trách nhiệm vì lợi ích chung, ý thức việc cần phải làm và mong muốn
được làm vì lợi ích chung đó. Đạo đức công vụ được đánh giá dựa trên hai tiêu chí
sau:
Thứ nhất là đạo đức của bản thân người công chức. Chủ thể đạo đức công vụ là
người công chức. Với tư cách là công dân, người công chức phải mang trong mình
những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống và hoạt
động.

5


Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp. Với tư cách là công chức, họ phải tuân
thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người công chức trong
hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo đức của nghề công
chức.
Đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được thể chế
hóa trong nền cơng vụ. Nếu thiếu sự thể chế hóa thì những ngun tắc, chuẩn mực, giá
trị đạo đức cũng chỉ là những lời giáo huấn, lý thuyết chung chung, khơng có sức sống
trong thực tế. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc thì sức mạnh
của đạo đức là niềm tin cá nhân, là truyền thống dân tộc, là sức mạnh của dư luận xã
hội. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức đạo đức thành hành vi
đạo đức, thành thực tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần thiết trong đời sống xã hội

của đội ngũ công chức.
Nâng cao đạo đức cơng vụ là q trình tác động tích cực, có mục đích của các
chủ thể tới đối tượng nhằm làm biến đổi đời sống đạo đức của đội ngũ công chức theo
hướng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách. Nâng cao đạo đức công vụ cho đội
ngũ công chức là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao
thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư
trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng
pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ. Nâng cao đạo đức cơng vụ
cho cơng chức có tầm quan trọng đặc biệt bởi:
Một là, đội ngũ cơng chức có vai trị và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng dân tộc. Trong đội ngũ công chức, một bộ phận không nhỏ là đảng viên, là
cán bộ lãnh đạo, quản lý, là người tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cơng chức có vai trị quan trọng trong việc xây
dựng và phát triển đất nước; trong việc bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các quyền
tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật
tự xã hội, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trong thực
thi công vụ, người công chức phải chú tâm, công bằng, không thiên vị. Đội ngũ công
chức cịn là người đóng vai trị tiên phong trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng và các tiêu cực khác để làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Hai là, một bộ phận công chức chưa nêu cao năng lực phẩm chất đạo đức cách
mạng, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng. Đại bộ phận cơng chức có ý thức rèn
luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tôn trọng nhân dân, tận tâm
phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Bên cạnh đó, vẫn cịn một bộ phận cơng chức yếu
cả về năng lực và phẩm chất; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí.
Cần có cơ chế sớm loại đội ngũ cán bộ, công chức yếu kém ra khỏi bộ máy, để đội ngũ
6



công chức thực sự trở thành “công bộc” của dân, chăm lo phục vụ nhân dân, bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.
Ba là, bối cảnh quốc tế và khu vực thay đổi đòi hỏi càng phải nâng cao chất
lượng đạo đức công vụ để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trong bối cảnh thế
giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu
cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen hết sức phức tạp, nhiệm vụ
chính trị mới nặng nề, địi hỏi Đảng và Nhà nước phải đào tạo lực lượng lao động có
chất lượng cao; xây dựng được đội ngũ công chức ngang tầm phục vụ sự nghiệp cách
mạng. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học - công
nghệ.
Thực trạng vấn đề đạo đức công vụ của công chức, viên chức
Hiện Việt Nam có 2,8 triệu cơng chức. Nhìn chung, cán bộ cơng chức, viên
chức ở Việt Nam có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống;
có thái độ tơn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng; thực hiện
tốt lời dạy luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể; có lịng u nghề, tận tụy
với cơng việc; tơn trọng đồng nghiệp, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức Việt Nam về cơ bản đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ.
Công chức, viên chức tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp phát huy tốt vai trò
và khả năng của mình, khơng ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, góp phần
quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị.
Bên cạnh những ưu điểm đã được khẳng định, góp phần quan trọng vào thắng
lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vẫn còn một
bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; quyền làm chủ của nhân
dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí
cịn nghiêm trọng. Trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và một số
cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc.

Những sai phạm về đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn
hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: đất đai, xây dựng, công an,
kiểm lâm, y tế, giao thông... Trong đó, có nhiều vụ việc cán bộ, cơng chức, viên chức
vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số
vụ công chức kiểm lâm, viên chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng lơ là, thiếu trách
nhiệm để cho "lâm tặc" phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành y tế lợi
dụng vị trí việc làm vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm nhân
phẩm, danh dự và sức khỏe của người khác; một số cán bộ dự án “rút ruột” cơng trình
xây dựng; một số công chức, viên chức thanh tra giao thông, công an giao thông nhận
tiền “mãi lộ” của lái xe và doanh nghiệp; một số cơng chức địa chính cố ý sai phạm để
7


trục lợi cá nhân; có cán bộ làm cơng tác đền bù, giải phóng mặt bằng thiếu quản lý, tắc
trách để cấp dưới gây ra những sai phạm khiến dư luận, người dân bức xúc; thậm chí
cơng chức làm cơng tác văn thư, lưu trữ của cơ quan chuyên môn cũng hách dịch, rề
rà, gây khó dễ cho các cá nhân đến liên hệ cơng tác... Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ,
công chức, viên chức bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công
việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích cơng việc cho người dân một cách lịng vịng,
khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt tình và sự thân thiện khi tiếp cơng dân.
Ngun nhân của sự suy thối đạo đức ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức chủ yếu do:
Thứ nhất, năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, cơng chức, viên chức cịn rất hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý nhà nước. Một số cán bộ, cơng
chức, viên chức có năng lực cơng tác, phẩm chất đạo đức cịn hạn chế trong thực hiện,
cơng vụ, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của bộ máy công quyền.
Thứ hai, lãnh đạo cơ quan chưa thật sự gương mẫu về đạo đức, lối sống và trách
nhiệm trong công việc. Sự thiếu quan tâm đúng mức cũng như thiếu sự gương mẫu
trong công việc và cuộc sống của lãnh đạo đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của cấp
dưới trong thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến giáo

dục tinh thần trách nhiệm, cũng như xử lý trách nhiệm nghiêm đối với các trường hợp
vi phạm đạo đức cơng vụ. nên chưa thật sự có tính răn đe, làm gương.
Thứ ba, việc ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước chậm, thiếu quyết
liệt trong thực thi nên hiệu quả chưa cao. Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn
vị về trách nhiệm của cán bộ, công chức; cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát của tổ
chức và thủ trưởng đơn vị cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, cơng
chức, viên chức cịn hạn chế, chưa thường xun, chưa nghiêm túc và thiếu đồng bộ.
Thứ tư, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xuyên,
mang tính hình thức. Cần đẩy mạnh tun truyền, giáo dục cán bộ, cơng chức nhận
thức rằng mình là “đầy tớ” của dân, cần hết sức phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Giải pháp nâng cao đạo đức công vụ cho công chức, viên chức
Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức
tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và
thách thức, đan xen hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, cơng
chức có chất lượng, ngang tầm, toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp cách mạng, đào
tạo được một lực lượng lao động có chất lượng cao. Để góp phần nâng cao đạo đức
công vụ cho đội ngũ công chức, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hành vi vi phạm đạo đức cơng
vụ, có cơ chế xử lý nghiêm khắc. Đối với cơng chức, hệ thống pháp luật hồn chỉnh là
cơ sở để hoàn thiện hệ thống thể chế về đánh giá, giám sát hoạt động của công chức,
đặc biệt là cơ chế giám sát trực tiếp từ phía nhân dân. Kết quả đánh giá công chức
8


khách quan, trung thực vừa là cơ sở để tiến hành đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng hay
kỷ luật, vừa thúc đẩy vai trị tích cực của cơng chức trong hoạt động quản lý.
Mặc dù pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ ở Việt Nam đã được quy định
trong một số luật liên quan đến công chức, viên chức như: Luật Cán bộ, công chức;
Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018; Luật Khiếu nại;

Luật Tố cáo; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Tuy nhiên, chưa xây dựng
luật riêng quy định cụ thể về đạo đức cơng vụ. Do đó, để đáp ứng yêu cầu về tăng
cường xây dựng đạo đức công vụ trong bối cảnh mới hiện nay, cần nghiên cứu xây
dựng và ban hành Luật Đạo đức công vụ hay Luật Đạo đức của công chức. Việc ban
hành luật này khơng những có tác dụng nêu lên các ngun tắc, chuẩn mực về đạo đức
cơng vụ, mà cịn đưa ra những quy định cụ thể về mục đích đạo đức, hành vi đạo đức
và công cụ đạo đức trong quá trình cán bộ, cơng chức tiếp xúc, làm việc với cơ quan,
xã hội, doanh nghiệp và người dân. Việc ban hành luật này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động giám sát việc thực thi đạo đức cơng vụ.
Có chế tài cụ thể hơn về khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật đối với cán bộ,
công chức, viên chức. Về nguyên tắc, tất cả công chức vi phạm pháp luật khơng thể ở
lại cơ quan hành chính nhà nước, sẽ “tạo ra tấm gương xấu” cho xã hội. Kiên quyết xử
lý ngay vi phạm chuẩn mực pháp lý về thực thi công vụ; thi hành pháp luật. Đồng thời
có cơ chế khen thưởng xứng đáng cho những ai “chấp hành nghiêm chỉnh chuẩn mực
pháp lý”, bằng cả vật chất lẫn tinh thần.
Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, gương mẫu của công chức trong thực
thi công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là cơng việc thường xun, lâu
dài, địi hỏi sự tham gia tích cực khơng chỉ của đội ngũ cơng chức mà của toàn thể
nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cũng như tồn xã hội,
đạo đức công vụ của đội ngũ công chức Việt Nam sẽ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu
cầu, nhiệm vụ mới.
Thứ ba, tăng cường giáo dục đạo đức công vụ và đổi mới phương pháp giáo
dục đạo đức công vụ. Giáo dục đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức giúp
họ hiểu được giá trị của đạo đức công vụ và tiêu chuẩn hành vi trong thực thi cơng vụ,
qua đó khơi dậy động cơ đạo đức và thúc đẩy hành vi đạo đức của cán bộ, công chức.
Cốt lõi của giáo dục đạo đức công vụ là làm cho cán bộ, công chức hiểu được vai trị
và nghĩa vụ của mình, hiểu được giá trị và ý nghĩa của công việc mà bản thân mình
đang thực hiện; nắm được các tiêu chuẩn hành vi trong thực thi công vụ. Các nước
OECD đã thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng về
đạo đức cơng vụ, chịu trách nhiệm chính trong việc thiết kế chương trình đào tạo, bồi

dưỡng về đạo đức cơng vụ; tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cho các đối
tượng khác nhau. Việc đào tạo, bồi dưỡng không nặng về lý thuyết, coi trọng hơn thực
hành đạo đức công vụ, giúp cho người học có khả năng đưa ra lựa chọn hợp lý trong
bối cảnh có sự xung đột giữa lợi ích tư và lợi ích cơng.
9


Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đạo đức công vụ của cán
bộ, công chức. Hoạt động kiểm tra, giám sát về việc thực hiện đạo đức công vụ cần
được tiến hành thường xuyên dưới các hình thức báo cáo, kiểm tra đột xuất, lấy ý kiến
của người dân… Thông qua kiểm tra, giám sát, lãnh đạo hiểu đạo đức công vụ được
thực hiện thế nào, hiệu quả ra sao, cịn hạn chế những gì nhằm bổ sung, sửa đổi, ngăn
chặn các nội dung sai lệch với việc thực hiện đạo đức công vụ. Xây dựng và thực hiện
cơ chế giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện đạo đức công vụ nhằm nêu cao
tinh thần trách nhiệm của công chức và bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.
Thứ năm, đổi mới cơng tác tuyển chọn, đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ. Để
xây dựng đạo đức công vụ không chỉ dựa vào sự nỗ lực tự giác của mỗi cán bộ, công
chức trong phấn đấu, rèn luyện về đức và tài, khơng chỉ địi hỏi cần phải đẩy mạnh
giáo dục, tuyên truyền, mà phải chấn chỉnh tổ chức, gắn chặt với công tác tổ chức,
khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ, nhất là khâu tuyển chọn, bố trí, sử
dụng cán bộ (cách dùng người). Dùng người khơng đúng, khơng cơng tâm, khách
quan, khơng vì sự nghiệp chung sẽ có hại cho dân, cho nước, sẽ suy yếu văn hóa đạo
đức. Vì thế, phải cải cách thể chế, đổi mới công tác cán bộ theo hướng đánh giá đúng
cán bộ và sử dụng đúng cán bộ, thực hiện dân chủ hóa trong cơng tác cán bộ, khắc
phục hiện tượng bổ nhiệm và sử dụng cán bộ không theo năng lực, yếu kém về phẩm
chất. Đây là giải pháp then chốt về xây dựng đạo đức công vụ ở Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập.
Tóm lại, nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức là một đòi
hỏi tất yếu và cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm giúp mang lại giá trị

đạo đức, sự hướng thiện của con người, tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển
và ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Bồi dưỡng và nâng cao đạo đức
công vụ trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, công chức; đồng thời, là sự
nỗ lực chung của các tổ chức đoàn thể của toàn xã hội. Nâng cao đạo đức công vụ cho
công chức là công việc thường xun, lâu dài, địi hỏi sự tham gia tích cực khơng chỉ
của đội ngũ cơng chức mà của tồn thể nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy
đảng, chính quyền và xã hội, đạo đức cơng vụ của công chức, viên chức Việt Nam sẽ
đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới hiện nay./.

10



×