Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.78 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng không phải là quyền lực
mà đảng tự đặt ra cho mình, cũng khơng phải do sự áp đặt đối với quần chúng, mà phải
do quần chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy, Đảng mới đồn kết được dân
tộc, mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam tn theo những quy luật khách quan, đó
chính là sự vận dụng, phát triển của phong trào công nhân kết hợp với chủ nghĩa mác –
Lênin và phong trào yêu nước của dân tộc. Bởi vậy, từ khi Đảng xuất hiện theo quy luật
vừa phổ biến vừa đặc thù đó đã đưa cách mạng Việt Nam vào một bước ngoặt, mở ra một
chân trời triển vọng mới cho dân tộc ta phát triển.
Có thể nói lịch sử thăng hoa của đất nước ta hôm nay gắn liền với lịch sử thăng
trầm sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, nhờ có
lý luận tiên phong dẫn đường, Đảng đã dẫn đường nhân dân ta dành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (1986) đến nay, Đảng đã có
nhiều đóng góp trong sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận điểm mới chủ nghĩa xã
hội và con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới, nhìn chung công tác lý luận vẫn không
kịp sự phát triển của thực tiễn, vẫn khơng ít cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên chưa nắm
chắc những vấn đề lý luận về cơng tác tư tưởng. Thậm chí, ở một số nơi, tình trạng này
vẫn cịn vơ hiệu hóa các giải pháp có giá trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng của cấp ủy, các tổ chức Đảng. Do đó nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng
trong giai đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục tiêu phấn đấu
2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Địi hỏi cần
phải có một sự lãnh đạo của Đảng và sự hưởng ứng nhiệt tình đơng đảo quần chúng nhân
dân thì đất nước mới hồn thành sứ mệnh lịch sử. Đặc biệt, trong cơng cuộc đổi mới, thực
hiện CNH – HĐH thì vai trị lãnh đạo của Đảng càng mang tính thời sự và cấp thiết .
Xuất phát từ những lý do trên tôi nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về


vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

2


2. Mục đích của đề tài
Mỡi cơng dân Việt Nam cần phải xác định đúng đắn, nhìn nhận được tầm quan
trọng của vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lý luận kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.
- Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình
cách mạng Việt Nam.
4.Kết quả của đề tài
- Cung cấp cho bạn đọc thấy rõ hơn và toàn diện hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết và cũng như việc đánh giá đúng vị trí vai
trị lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay.

B. NỘI DUNG
3


1. Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và ý nghĩa của vấn đề
trong cơng tác xây dựng Đảng hiện nay.
1.1 Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu di sản của các bậc thầy là những luận điểm lớn về cách
mạng và phương pháp luận. Bản chất của lý luận Mác – Lênin là chống trì trệ xương
cứng, chống giáo điều rập khn, chống duy ý chí, trái quy luật, chống tách rời cuộc
sống, xa cách nhân dân. Đặc biệt thời kỳ từ thập kỷ 60 của thế kỷ XIX trở đi, khi xuất
hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền – chủ nghĩa đế quốc, kéo theo trào lưu thực dân, đè nén

ba phần tư lồi người, thì chủ nghĩa Mac – Lênin đã không ngừng được làm giàu thêm
bởi diển biến lịch sử ngày càng phong phú. Tuy nhiên, cũng như Mác – Lênin sống và
hoạt động chủ yếu ở châu Âu, không thể vượt qua hạn chế của lịch sử. Trong 60 năm từ
lúc sáng lập nhà nước Xô viết đến khi qua đời, Lênin đã có những chỉ dẫn quan trọng, nở
ra một thời đại mới cho các dân tộc thuộc địa, nhưng khơng thể xây dựng hồn chỉnh lý
luận về cách mạng của các dân tộc bị áp bức đang bùng lên giải phóng.
- Nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam bao giờ cũng phải đặt mỗi sự kiện,
mỗi vấn đề trong tổng lộ tuyến mà sự khởi đầu là cách mạng muốn thắng lợi trước hết
phải có đảng cách mạng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin và quốc tế cộng sản.
Đó là bài học cách mạng tháng mười Nga và từ học thuyết Mac – Lênin
Xét trên một ý nghĩa nào đó thì cơ sở lý luận và thực tiễn để thành lập một Đảng
cộng sản Việt Nam đã xuất hiện. Nhưng Hồ Chí Minh chưa vội làm cơng việc cực kỳ
quan trọng – xác lập nhân tố hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam thắng lợi. Bởi vì
những cơ sở nêu trên chưa phù hợp với thực tiễn mang tính đặc thù ở Việt Nam khi mà
giai cấp công nhân và phong trào cơng nhân cịn nhiều hạn chế, đang ở trình độ “tự phát”.
Cịn những thanh niên u nước Việt Nam rất hăng hái nhưng lại bế tắc về đường lối cứu
nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải chuẩn bị chu đáo về đường lối chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Sự chuẩn bị đó trước hết là việc nghiên cứu thấu đáo lý luận Mác – Lênin về quy
luật ra đời của một Đảng Cộng sản.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh người đã từng tham gia sáng
lập Đảng cộng sản Pháp vào cuối năm 1920 vẫn trăn trở nhiều vấn đề đặt ra trên mảnh
đất thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn: điều kiện thành lập Đảng Cộng sản ở nước ta đã chín
muồi chưa? Chủ nghĩa cộng sản có thâm nhập vào châu Á hay khơng? Lộ trình thành lập
4


Đảng như thế nào? Hồ Chí Minh đã dành trọn khoảng thời gian 10 năm để nghiên cứu
thấu đáo mọi vấn đề từ lý luận đến thực tiễn, qua khứ tới hiện tại, phương Đông và
phương Tây, các nước tư bản và thuộc địa, đặc biệt là cách thức hình thành, tổ chức đội
tiên phong của giai cấp tư sản và của cả dân tộc như thế nào. Bằng trí tuệ và bản lĩnh của

mình, Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo lớn trong việc vận dụng quy luật về sự ra đời
của Đảng theo chủ nghĩa Mac – Lênin để hướng tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Trên cơ sở đó, ngay từ năm 1921, Người bắt tay ngay vào việc đưa chủ nghĩa
Mac- Lênin đã được “Việt nam hóa” vào Việt Nam. Người tận dụng mọi cơ hội và điều
kiện như viết báo, sách, diễn đàn hội nghị và đại hội này.
Tuy nhiên, sự dễ dàng cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á không
đồng nghĩa với việc truyền bá nhanh chủ nghĩa cộng sản trong một thời gian ngắn. Bởi
vì, chính sách ngu dân của thực dân Pháp là một trở ngại lớn.
Trong tình đó cần thiết phải có sự giáo dục, giác ngộ mọi người, trước hết cho lớp
trẻ. Vấn đề có tính ngun lý là mù chữ và ngu dốt thì sẽ đứng ngồi chính trị. Trong thời
gian này, một mặt Hồ Chí Minh phải nhanh chóng đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo
của cách mạng thế giới. Mặt khác, Người phải chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
để thành lập Đảng. Trước sau người nhất quán quan điểm cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân. Nhưng quần chúng chỉ có sức mạnh thật sự khi được thích tỉnh và
giác ngộ. Muốn vậy phải có đường lối, có lý luận, có tổ chức. Bởi vì “khơng có lý luận
cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng”. Và một khi lý luận đã thâm nhập vào
quần chúng thì sẽ biến thành một lực lượng vật chất. Muốn giác ngộ, vận động, tổ chức
dân chúng, đồn kết quốc tế thì phải có đảng cách mạng.
Từ thực tế phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX với
nhiều tổ chức chính trị như Duy Tân hội, Việt nam Quang phục hội,Tâm tâm xã, Việt
Nam quốc dân Đảng... Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự yếu kém của đường lối và tổ chức cũng
như phương pháp tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng. Các tổ chức đó cịn thiếu
và yếu, chưa vạch ra được một đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn theo hệ tư
tưởng tiên tiến của thời đại, nên vẫn như đi trong hầm, khơng có lối ra.
Nhất định phải có Đảng cộng sản thay thế các tổ chức kiểu cũ theo hệ tư tưởng
phong kiến, tư sản, nhưng không phải thành lập ngay. Cách làm vội vàng khi người dân
5



chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải có đảng thì khơng những đêm lại kết quả mà hậu
quả khơn lường. Mười năm cho việc thành lập đảng có thể nhận thấy Hồ Chí Minh đặc
biệt sáng tạo trên máy phương diện sau:
Một là, đưa lý luận Mác – Lênin sau khi đã được “Việt Nam hóa” vào phong trào
cách mạng Việt Nam, bao gồm cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hồ Chí
Minh đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin với ý nghĩa là một học thuyết mang
bản chất cách mạng và khoa học, là thế giới quan là phương pháp luận, cơ sở tư tưởng
của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Chính phong trào yêu nước theo
khuynh hướng cách mạng vô sản với lực lượng cơ bản, đông đảo là nông dân, tầng lớp tri
thức, học sinh tiểu tư sản, có cùng mục tiêu với phong trào cơng nhân là giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc là một trong ba yếu tố tạo thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, trong khi tuyên truyền lý luận Mác – Lênin vào Việt Nam, sau nhiều bước
“dọn dường” đến độ chín muồi, Hồ Chí Minh mới nói tới Đảng. Nghiên cứu báo thanh
niên ta thấy rõ điều này. Từ số 1 ngày 21/6/1925, xuyên suốt lịch sử của mình đến tháng
5/1927, báo thanh niên ra được 200 số. Hồ Chí Minh trực tiếp phụ trách 88 số đầu với ý
nghĩa là tác giả, vừa tổng biên tập. Trong 88 số đó Người đã đề cập đến nhiều vấn đề như
mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc Pháp, giữa dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa đế quốc nói chung. Khẳng định con đường cách mạng chống con đường cải lương.
Lực lượng cách mạng là tồn dân, lấy cơng nơng làm gốc. Cần phải có tinh thần cách
mạng và phương pháp cách mạng đúng đắn...
Ba là, về mặt tổ chức, Hồ Chí Minh quan tâm tới loại tổ chức chưa phải là Đảng
Cộng sản, nhưng cũng không thể tổ chức kiểu cũ hay chỉ là tổ chức mang tính chất đồn
thể đơn thuần. Sáng tạo của Hồ Chí Minh là lập ra Hội Vệt Nam cách mạng thanh niên có
“cộng sản đồn” làm nịng cốt. Tổ chức này đóng vai trị là tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Chính nhờ tổ chức này mà công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được
tiến hành kịp thời và với lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mac –
lênin càng có điều kiện ăn sâu bắn rễ trong phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Khi phong trào công nhân được ánh sáng cách mạng tiên tiến của thời đại soi sáng
thì ngày càng phát triển, yếu tố “tự phát” ngày càng rơi rụng dần và yếu tố tự giác ngày
càng tăng lên. Điều này có nghĩa là phong trào cơng nhân đã có những chuyển biến trong

chất lượng đấu tranh. Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã làm tròn sứ mệnh lịch sử
6


của mình, cần được thay thế bằng cộng sản thực sự. Nhìn nhận lại vị trí, vai trị của tổ
chức tiền thân này, trong báo cáo gửi quốc tế cộng sản, ngày 18/2/1930 và ngày 5/3/1930,
Người viết: “Hội An Nam Thanh niên cách mạng do chúng tôi tổ chức từ năm 1925. Trên
cơ sở đó, Người đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng Cộng sản duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930, một cái
tên vừa phản ánh được nguyên lý và bản chất chung nhất là Đảng Cộng sản, vừa thể hiện
nét đặc thù của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, sau 46 năm khi sự nghiệp giải phóng dân
tộc hồn tồn thắng lợi, đất nước thống nhất, giang sơn quy về một mối, Đảng ta lại trở
lại với tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2 Ý nghĩa của vấn đề xây dựng Đảng.
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được
lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận.
Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”(1), giai cấp mà
khơng có Đảng lãnh đạo thì khơng làm cách mạng được. Trong cuốn sách Đường cách
mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước
hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì lien
lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(2).
Tư duy bao trùm về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh
phải bắt nguồn từ luận điểm sáng tạo về sự ra đời của Đảng: “chủ nghĩa Mác – Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong tào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng
Cộng Sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Luận điểm này phải được thấu suốt trong
việc vạch đường lối, lựa chọn, giáo dục rèn luyện đảng viên, nâng cao trình độ đảng viên,
thắt chặt quan hệ mật thiết giữa đảng với quần chúng, làm cho đảng ta “là đạo đức, là văn
minh”, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Cần nhận thức ý nghĩa của vấn đề Đảng ra đời với

công tác xây dựng Đảng hiện nay trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đi từ “mảnh đất màu cờ” của dân tộc là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam đến chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản , và ngay từ đầu đã làm
cho đảng bắt rễ sâu xa trong lòng dân tộc. Người đã giác dân tộc ngộ phát triển đến giác
7


ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp để đi tới kết luận: chủ nghĩa
Mác – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng, làm cho Đảng có thể trở
thành hình thức tở chức cao nhất của quần chúng lao động. Với việc có thêm yếu tố mới
là phong trào yêu nước, thì vai trị của chủ nghĩa Mác – Lênin là mặt trời soi sáng con
đường cách mạng của chúng ta. Theo người, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa MácLênin “làm cốt”. Bởi vì đó là học thuyết cơ sở tư tưởng, về tổ chức, về lý luận chiến lược
và sách lược của Đảng cách mạng. Chủ nghĩa Mác – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng
mạnh chỉ đạo Đảng, làm cho Đảng có thể trưởng thành hình thức tổ chức cao nhất của
quần chúng lao động, hiện thanh của trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại. Với bản
chất cách mạng và khoa học, học thuyết Mác – Lênin chỉ ra thế giới quan, nhân sinh quan
và phương pháp luận đúng đắn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với việc có
thêm yếu tố mới là phong trào u nước, thì vai trị của chủ nghĩa Mác – Lênin càng quan
trọng trong việc nâng cao trình độ tư tưởng và trình độ chính trị đảng viên làm cho Đảng
viên theo đúng lập trường vơ sản.
Thứ hai, vai trị lãnh đạo của Đảng xây dựng trên xứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và xây dựng Đảng vững mạnh dựa vào chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là luận
điểm kinh điển về Đảng Cộng sản. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa có tính
kinh điển vừa mạng tính đặc thù. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân, mặc dù từ năm 1930 Hồ Chí Minh đã chỉ ra “Đảng phải thu phục cho được đại bộ
phận” giai cấp công nhân. Đảng phải thu phục tập hợp đa số quần chúng nông dân và các
lực lượng khác với tiêu chuẩn chính là lịng chân thành u nước.
Nhận thức này có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng Đảng hiện nay. Trong khi mở
rộng biên độ thành phần xã hội, kết nộp những người ưu tú vào Đảng để tránh căn bệnh
cơ độc, biệt phái , hệp hịi thì phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng

Hồ Chí làm cho Đảng tồn tâm, tồn ý theo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Thứ ba, phải chỉ mở rộng thành phần xuất thân vào Đảng, mà một điều quan trọng
là đảng phải tăng cường chính sách đại đồn kết. Học tinh thần Hồ Chí Minh từ khi Đảng
vừa ra đời và trong suốt quá trình Người cùng đảng lãnh đạo cách mạng, hiện nay Đảng
vẫn tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kế dân tộc bằng cách thực hiện đại đoàn kết
8


người trong Đảng và người ngoài đảng, các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, xóa bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai lấy mục tiêu giữ vững độc, thống nhất, vì dân giàu ,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng. Gốc rễ của vấn
đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay phải xuất từ chỡ đó.
2 Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
2.1 Vai trò của Đảng trong giành chính quyền
Trong Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của
đảng cách mạng – nhân tố đầu tiên, quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Thấu hiểu bài
học lịch sử về sức mạnh của quần chúng, lại được soi rọi dưới ánh sang của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Người chỉ rõ: công nông là gốc cách mạng, nhưng “trước phải làm cho dân
giác ngộ”. Dân phải được tổ chức, được lãnh thì mới trở thành lực lượng to lớn, mới là
chủ, là gốc cách mạng được. Nếu dân khơng được tổ chức thì như đũa “mỡi nơi một
chiếc”. Để Đảng vững được “phải có chủ nghĩa làm cốt”(3). Thành lập Đảng là để mọi
thành viên trong Đảng đó thống nhất về tư tưởng, từ đó thống nhất trong hành động.
Người đã nghiên cứu nhiều học thuyết trên thế giới, tìm tịi, suy ngẫm, lựa chọn và khẳng
định: “Bây giời học thuyết nhiều, chủ nghỉa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác –Lênin”(4). Tóm lại, Hồ Chí Minh nhất qn cho rằng:
cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác –Lênin.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chất
của giai cấp cơng nhân. Đảng không bao giờ “hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân

và nông dân cho giai cấp khác”. Đảng dìu dắt giai cấp vơ sản, lãnh đạo giai cấp vô sản,
lãnh đạo cách mạng Việt Nam là để đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân
tộc. Đảng không phải là một tổ chức tự than và vì vậy, mục đích, tơn chỉ của Đảng là “tận
tâm”, “tận lực”, “phụng sự”, và “trung thành” với lợi ích của dân tộc Việt Nam.
Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc
cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

9


Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo tồn thể dân
tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó cũng là thời
điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
2.2 Vai trò của Đảng kháng chiến và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
Vấn đề hàng đầu của Đảng cộng sản thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của
đội tuyên phong của giai cấp công nhân là đề ra đường lối cách mạng đúng đắn.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên nêu
trong Hội nghị thành lập Đảng, Đảng đã nêu ra chủ trương “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cụ thể đó là nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng. Cương lĩnh
ấy hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân ta. Đảng đã đoàn
kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình. Do đó, quyền
lãnh đạo của Đảng ta, Đảng của giai cấp công nhân – không ngừng củng cố và tăng
cường.
Ở thời điểm Đảng ta ra đời có một tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách
mạng dân chủ tư sản là Việt Nam Quốc dân Đảng cũng được thành lập (12/1927). Tổ
chức này thiếu một lý luận cách mạng tiên tiến làm cơ sở cho đường lối và phương pháp
cách mạng đúng đắn, lại khơng có chỗ dựa vững chắc trong quần chúng công nông , cho
nên Việt Nam Quốc dân Đảng thiên về manh động và khủng bố cá nhân. Sau khởi nghĩa
Yên Bái (9/2/ 1930), Việt Nam Quốc dân Đảng với tư cách là chính Đảng hồn tồn phá

sản.
Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã hoàn toàn tin tưởng vào Đảng Cộng sản bởi vì việc
thành lập Đảng chứng tỏ giai cấp vơ sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Vừa ra đời, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo một phong trào quần chúng mạnh lớn mà
xưa nay chưa từng có ở nước ta – phong trào cách mạng 1930 – 1931. Đây là phong trào
đấu tranh nhân dân chống thực dân Pháp và tay sai. Riêng ở hai tĩnh Nghệ An và Hà Tĩnh
đã phát triển thành một cuộc biểu tình có vũ trang đánh đỡ chính quyền địch ở nhiều địa
phương, thành lập chính quyền cách mạng kiểu Xô Viết, tiến hành chia ruộng cho nông
dân cày, bài trừ mê tín dị đoan, trấn áp phản cách mạng, ban bố quyền tự do dân chủ cho
nhân dân lao động.
10


Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xơ Viết Nghệ Tĩnh thành cơng
trên nhiều mặt. Nó chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân Việt
Nam mà trước hết là khối liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phong trào
rèn luyện cách mạng tháng tám thắng lợi sau này. Đây có thể coi là phát thảo đầu tiên là
bài học vỡ lịng về chính quyền cách mạng, mà nếu khơng có nó thì sẽ gặp rất nhiều khó
khăn cho những bài học tiếp theo. Đồng chí Trường Chinh nhận xét: ”Thắng lợi lớn nhất
của Đảng ta trong phong trào cách mạng năm 1930 – 1931 là Đảng đã thực hiện được
khối liên minh cơng nơng, do đó đã giành được nhiều quyền lãnh đạo cho giai cấp công
nhân”.
Qua phong trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xơ Viết Nghệ Tĩnh, uy tín
và ảnh hưởng của Đảng ta trong các nước thuộc địa đã tăng lên. Một trong những biểu
hiện cụ thể là trong phiên họp 11/4/ 1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban Chấp
hành Quốc tế cộng sản đã quyết định Đảng cộng sản Đông Dương là một bộ phận độc lập
trực thuộc Quốc tế cộng sản. Đó là một vinh dự lớn đối với Đảng vừa ra đời và hoạt động
hơn một năm .
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, thời kì 1930 – 1931 và đến
1935 Đảng có những lúc có những nhận thức ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng “ tải” ,

biệt phái và giáo điều rập khn máy móc. Luận cương chính trị tháng 10/ 1930; thư của
Trung ương gửi cho các cấp đảng bộ ngày 9/12/1930...bên cạnh việc khẳng định lại
nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng ở nước ta mà các văn kiện trong hội
nghị hợp nhất đã nêu lên, cịn bộc lộ nhận thức máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và giai cấp trong xứ thuộc địa; không vạch được mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam
với bọn xâm lược Pháp và tay sai của chúng, do đó khơng nêu được vấn đề dân tộc lên
hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Việc nhận thức về vai trò cách mạng của các
giai cấp tư sản, tư sản dân tộc, nhận thức về khả năng phân hóa giai cấp địa chủ...chưa
thật đầy đủ, đúng đắn.
Ngay cả cao trào cách mạng 1930 – 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, bên cạnh xây
dựng khối liên minh công nông vững chắc, Đảng ta chưa nhận thức đầy đủ vấn đề mặt
trận dân tộc thống nhất chống thực dân xâm lược và tay sai. Lúc bấy giờ, Đảng có chủ
trương lập Hội phản đế đồng minh, nhưng việc giáo dục cho đảng viên và tổ chức thực
hiện chủ trương ấy thì chưa có kết quả.
11


Mặc dầu bị tổn thương nặng nề, Đảng vẫn tồn tại, giữ được liên hệ với quần
chúng. Có ba điều cơ bản để khẳng định vấn đề này. Một là, đội ngủ đảng viên dù trong
tù hay hoạt động ngoài vẫn giữ được phẩm chất cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối
với Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân
mình. Về mặt này Hồ Chí Minh đã tổng kết: “biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta
đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lí luận. Một lần nữa, việc đó lại
chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn
trở được bước tiến cách mạng, mà trái lại nó cịn trở nên một thứ lửa vàng, nó rèn luyện
cho người cách mạng càng cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng đế quốc thua.”
Hai là, với ý chí kiên cường vơ bờ bến của Đảng, sự giúp đỡ to lớn của quốc tế
cộng sản đã tăng cường thêm sức mạnh để Đảng dần dần khôi phục được tổ chức. “tháng
6/1932 bản chương hành động của Trung ương lâm thời Chấp ủy Đảng cộng sản Đơng
Dương ra đời. Bản Chương trình hành động có giá trị như một Cương lĩnh, soi sáng các

vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong thời điểm trước mắt và lâu
dài. Đó cịn là bản tổng kết quan trọng về lý luận và kinh nghiệm đấu tranh của Đảng ta
từ khi bước lên vũ đài chính trị.
Ba là, từ năm 1932 phong trào cách mạng của quần chúng trong cả nước với nhiều
hình thức và mức độ khác nhau đã bắt đầu phục hồi với việc gây dựng lại cơ sở Đảng và
các tổ chức quần chúng. Các cuộc đấu tranh của công nhân vẫn giữ vai trò nòng cốt của
trào.
Ý kiến dưới đây của Mácxit, trùm mật thám Pháp ở Đông Dương trong báo cáo về
Đảng Cộng sản Đông Dương từ tháng 10/1933 cho thấy rõ sự phục hồi của Đảng: “việc
tổ chức lại Đảng Đơng Dương có đủ những yếu tố cần thiết cho sự mở rộng nhanh chóng
với sự thúc đẩy của những người lãnh đạo có năng lực. Có những người lãnh đạo có năng
lực như thế, và chúng ta không nghi ngờ họ sẽ cố gắng hết sức để nối lại liên lạc với
những tổ chức được xây dựng lại. Đảng Cộng sản Đơng Dương lại có những khả năng
mới về tuyên truyền và hành động mà nó chưa hề biết đến từ cuộc đàn áp năm 1931.”
Tuy nhiên, thiếu sốt của đại hội là “không nhạy cảm với tình hình mới , khơng
thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát
xít, chống bọn phản động thuộc địa, địi tự do, cơm áo, hịa bình. Do vậy, Đại hội không
đề ra chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược và biện pháp phù hợp với tình hình mới”.
12


Tháng

7/1935, Đại hội lần thứ VII củ Quốc tế cộng sản được triệu tập ở

Matxcova, Báo câos chính trị của Đimitorop nhấn mạnh phải dựa vào khối liên minh
công nông, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chống chiến tranh, địi
tự do dân chủ, cơm áo, hịa bình.
Dưới ánh sáng của Đại hội VII, Hơi nghị ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương họp tại Thượng Hải dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong đã được triệu

tập (7/1936), Hội nghị bổ sung Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng tổ chức và
sách lược của Đảng theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản.
Nghị quyết Hội nghị 7/1936 và các Hội nghị tiếp theo, một cao trào cách mạng
mới nổi lên ở Đông Dương – cao trào đấu tranh dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng; đây
là một cuộc vận động quần chúng rộng lớn và sôi nổi chưa từng thấy thời thời Pháp thống
trị. Về mục tiêu, các cuộc đấu tranh đòi hịa bình, dân chủ, dân sinh. Về lực lượng quy tập
được nhiều giai cấp và tầng lớp, cả nông thôn và thành thị. Hình thức đấu tranh rất phong
phú: cơng khai và bí mật, hợp pháp và khơng hợp pháp, đấu tranh ngoài thành phố trong
nghị trường... Thành quả cụ thể được thể hiện qua phong trào đại hội Đông Dương; đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, báo chí, văn hóa trong đó nỡi lên phong trào truyền bá chữ
quốc ngữ. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh của công nhân và nơng dân với những u sách
thích hợp diễn ra trong phạm vi cả nước.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp thi hành chính sách kinh
tế, chính trị, quân sự thời chiến. Mâu thuẩn giữa thực dân Pháp với các dân tộc Đông
Dương ngày càng trở nên gây gắt. Tháng 9/1940, đế quốc Nhật xâm chiếm Việt Nam và
câu kết với thực dân Pháp để xâm chiếm nước ta. Tình hình mới đã dặt cơng tác dành
chính quyền thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng.
Để kịp thời chuyển hướng đấu tranh, Ban chấp hành Trưng ương đã triệu tập Hội
nghị lần thứ VI (11/1939), thứ VII (11/1940), và sau khi Hồ Chí Minh về nước, Người đã
triệu tập và chủ trì hội nghị lần thứ VIII (5/1941).
Trong thời kì này Đảng đã có sáng tạo lớn là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu , tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng
khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và việt gian chia cho dân cày nghèo, thực
hiện giảm tô, giảm tức. Như vậy vấn đề cách mạng đang từng bước ở những mức độ khác
nhau, nhưng trước mắt đều tập trung cho nhiệm vụ giải phong dân tộc. Những vấn đề đó
13


được giải quyết theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đảng chủ trương thành
lập ở mỗi nước một mặt thực hiện quyền dân tộc thống nhất rộng rãi, ở Việt Nam đó là

Mặt Trận Việt Nam độ lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Các giới quần chúng được tổ
chức và tập hợp thành các đoàn thể cứu quốc để đoàn kết chặc chẽ mọi lực lượng yêu
nước chống Phát xít và thực dân. Về mặt nhà nước Đảng đã xác định, sau khi đánh đuổi
thực dân Pháp, Nhật sẽ thành lập Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Dưới ánh sáng các nghị quyết Trung ương, việc vận động giải phóng dân tộc dưới
sự lãnh đạo của Đảng do Hồ chí Minh đứng đầu diển ra sơi nổi, khẩn trương. Đảng đã
xây dựng lực lượng quần chúng hùng mạnh ở cả nông thôn và thành thị, mà nòng cốt là
mặt trận Việt Minh. Đảng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và căn cứ địa cách
mạng, trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng. Đảng cũng tập trung lãnh đạo đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, củng cố thống nhất trong Đảng, tăng cường đội ngũ
cán bộ đảng viên
Sự lãnh đạo của Đảng rất kiên quyết và kịp thời, không do dự lưng chừng để bỏ
mất thời cơ. Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy ở cả thành thị và nông thôn trong đó khởi
nghĩa ở ba đơ thị lớn Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố quan trọng khác giữ vai trò
quan trọng. Nghệ thuật nắm giữ thời cơ và lãnh đạo của Đảng còn ở chổ khởi nghĩa dành
chính quyền ở nơi đầu não của kẻ thù là Hà Nội và các trung tâm chính trị khác, trong lúc
kẻ thù khơng kịp thời ra tay đối phó. Vì vậy, chỉ vòng trong 15 ngày, cuộc tổng khởi
nghĩa đã thắng lợi hồn tồn, nhanh gọn, ít đỡ máu.
Với cách mạng tháng tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây nhân dân lao động làm chủ xã
hội. Đây là thành quả lớn nhất mà cách mạng đã đêm lại cho nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đảng ta cũng đáng tự hòa là Đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới mới mười
lăm tuổi trưởng thành Đảng cầm quyền trên tồn quốc.
Có được độc lập - tự do – dân chủ như bản tuyên ngôn độc lập nhấn mạnh là
thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mac –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh khẳng định: “lần đầu trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dânViệt
Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của lực lượng hịa bình, dân chủ và xã hội chủ
14



nghĩa trên thế giới. Một lần nũa chủ nghĩa Mac – Lênin đã soi sáng cho giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam kháng chiến cứu quốc thành công, giữ gìn thành quả cách
mạng của mình”.
2.3 Vai trị của Đảng trong xây dựng đất nước
Nói tới sự lãnh đạo của Đảng là nói tới đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn và sáng tạo, kết tinh trí tuệ và bản lĩnh của một đảng trải qua bốn năm năm từ lúc ra
đời, đã được tôi luyện và tôi thành qua nhiều cuộc tổng diển tập. Giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã quy tụ sức mạnh của nhân dân và lực lượng vũ
trang cả nước; khơi dậy được sức mạnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, sự đoàn kết
liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ, Đảng ta xác định: “nhiệm vụ quan trọng nhất
của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn
hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải
tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
dài”.
Theo tinh thần đó, Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội
chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa, thực hiện kế hoạch năm thứ nhất, chuyển
hướng xây dựng kinh tế khi đế quốc Mỹ chiến tranh phá hoại.
Sau đại thắng 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Lộ trình đã được Đảng xác định ngay khi Đảng ra đời và trở thành
đường lối chiến lược nhất quán không hề thay đổi.
Nhìn chung bước vào giai đoạn mới chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản, song cũng
gặp rất nhiều khó khăn chồng chất, về mặt nào đó cịn đáng lo ngại hơn các thời kỳ trước.
Trước hết phải thấy “đặc điểm to hất của tatrong thời quá độ là một nước nông nghiệp lạc
hậu, vốn là thuộc địa kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, trãi qua hàng chục
năm chiến tranh tàn phá... tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua thời kỳ phát triển tư
bản chủ nghĩa, vẫn tiếp tục chi phối. Tình hình thế giới diển biến khơn lường. Vào những

năm cuối thập niên 80 trở đi, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và đi tới
thoái trào. Điều đó tác động tiêu cực tới phong trào cách mạng bằng nhiều thủ đoạn thâm
độc hòng thủ tiêu tồn bộ chủ nghĩa xã hội. Tình hình đó đặt cho Đảng ta nhiều vấn đề
15


cần được xem xét suy nghĩ một cách nghiêm túc. Vấn đề đối với Đảng và dân tộc ta sau
khi tổ quốc độc lập, thống nhất không phải là lựa chọn con đường khác, mà vẫn kiên trì
kiên định và trung thành với con đường tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa – con
đường đã được lịch sử lựa chọn từ năm 1920 và thực tiễn cách mạng Việt Nam qua 45
năm từ khi Đảng ra đời chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng điều mà Đảng trăn trở
theo di huấn của Hồ Chí Minh là: “Nếu độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng bao giờ có ý nghĩa lý gì? Chúng ta tranh được tự do, dân cứ chết đói,
chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi
mà dân được ăn no, mặc đủ”. Một trong những nỡi bận tâm của Hồ Chí Minh lúc sinh
thời là: “Hễ cịn có một người Việt Nam bị bốc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau
thương, cho đó là vì mình chưa làm trọn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính cơng việc
lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế tiên tiến,
đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết
cho đời sống hàng ngày của nhân dân”.
Điều cần ghi nhận trong 10 năm đầu sau ngày miền hội Nam hồn tồn giải
phóng, tuy vẫn đi theo mơ hình kinh tế cũ với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sớm
phá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa – và do vậy thành tựu kinh tế chưa nổi
bật, nhưng đây là thời kỳ “ló cái khơn”. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo từ những ngày
cách mạng, kháng chiến lại được Đảng phát huy trong sự nghiệp kinh tế, xây dựng đất
nước.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ghi nhận hội nghị lần thứ VI (khóa VI) tháng
8/1979 với chính sách làm cho sản xuất “bung ra” chống tập trung quan liêu, chú trọng
lợi ích nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động, lấy năng suất lao động, sự phát triển
của sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng đắn của

chính sách – đánh dấu mốc mở đầu cho quá trình đổi mới của Đảng.
Từ 1986 đến nay, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo đường lối
đổi mới.
Như trên đã trình bày, đến năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh tế xã hội nước ta đi
dần vào một cuộc khủng hoảng và mặc dù Đảng đã có nhiều nổ lực, cố gắng, nhưng đất
nước chưa tiến xa được bao nhiêu. Từ giữa thập kỷ 80 trở đi, nền kinh tế - xã hội nước ta
đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
16


Thực tiễn đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống cịn đối với sự
nghiệp cách mạng ở nước ta là phải đổi mới mạnh mẽ. Trở lại lịch sử cách mạng từ khi có
Đảng, một bài học lớn được rút ra là: đổi mới, sáng tạo trên tinh thần độc lập, tự chủ thì
cách mạng thắng lợi. Dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự đánh giá khách
quan, chính xác thực trạng đất nước, nhận ra cái sai để sửa, chính là động lực cho sự phát
triển. Đó là chân lý, là cuộc sống. Bác Hồ đã viết ra từ năm 1947: “một Đảng mà giấu
giếm khuyết điểm của mình là một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch
rõ những cái đó, vì đâu mà khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi
tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn,
chắc chắn, chân chính.
Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỡ đảng viên,
dạy dỡ quần chúng. Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn, tự túc, tức là “mèo
khen mèo dài đuôi”.
Đảng đã hồn tồn đúng khi trong q trình thực hiện đổi mới đã đứng vững trên
nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Về vấn đề này –
trên cơ sở nhận thức bước đầu bước đầu từ thập kỹ năm mươi – đến Đại hộiVI
(12//1986), Đảng ta khẳng định: “muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa di sản đáng quý về tư tưởng
và lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với quyết tâm đổi mới tổ chức lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và

khoa học, trên cơ sở đánh giá đúng mức thành tựu, đồng thời nhìn thẳng vào sự thật, đi
sâu phân tích những tồn tại và nghiêm tức tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong
lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, Đảng có ý thức rút ra những bài học kinh nghiệm lớn có ý
nghĩa quan trọng trong từng nhiệm kỳ Đại hội mà một trong những bài học quan trọng
nhất là “đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới”.
Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đến nay, xuất phát từ việc tổng kết thực tiễn
Việt Nam và thế giới, nghiên cứu lý luận, trung thành với việc học thuyết Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa
tinh hoa dân tộc tiếp thu trí tuệ của thời đại, bám sát vào thực tiễn và dựa vào dân, Đảng
đã từng bước thực hoàn thiện đường lối đổi mới. Tính đúng đắn của đường lối thể hiện ở
17


chổ từng bước Đảng tìm ra được lộ trình của cách mạng Việt Nam, phản ánh quy luật
khách quan của sự phát triển đất nước.
Đường lối đúng không chỉ thể hiện một đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức đúng
đắn mà điều quan trọng là đường lối đó đã huy động được quần chúng nhân dân đông đảo
với một sự chân thành, tự giác thật sự “dân tin, dân phục, dân yêu” dân đi tận cùng sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Và cuối cùng phải được nhìn nhận bằng nhiều
thành tựu cụ thể theo nguyên lí thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Đại hội IX của Đảng ghi nhận cho đến năm 2000 chúng ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng; kinh tế tăng trưởng; văn hóa – xã hội cơ bản ổn định, quốc phịng
và an ninh tăng cường. Cơng tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống
chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Tuy nhiên, Đại hội cũng thẳng thắng chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm: Nền
kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn
hóa – xã hội bức xúc và gây gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách khơng đồng bộ
và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình hình tham nhũng suy thối về tư tưởng,

chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm
trọng.
Gần đây, đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ IX ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam đã được tiến hành từ ngày 5 – 12/1/2004 tại thủ đơ Hà Nội, Hội nghị
lần này có nhiệm vụ quan trọng đặc biệt kiểm điểm nữa nhiệm nữa nhiệm kỳ thực hiện
nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những việc làm được và
chưa làm được, phân tích rõ nguyên nhân. Hội nghị khẳng định những thành tựu là “kết
quả phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, trong
đó có vai trị quan trọng của sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa
phương”.
Nhìn nhận như vậy để thấy rằng trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi thành tựu
và hạn chế của sự nghiệp cách mạng đều liên quan tới sự lãnh đạo của Đảng.Theo tinh
thần và tư tưởng của Hồ Chí Minh, lúc nào Đảng ta giữ vững được “đạo đức và văn
minh” thì sẽ thực hiện được “thống nhất, độc lập, hịa bình, ấmno”. Khi nào chúng ta
khơng làm đúng lời dạy của Người, thì sẽ gặp khó khăn, hạn chế sự phát triển.
18


3. Những yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới
3.1 Xây dựng một lí luận tiên phong dẫn đường
Muốn hồn thành vai trị là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và tộc dân việt Nam, Đảng phải có lí luận tiên phong dẫn đường. Thiếu lí luận tiên
phong Đảng mất vai trị chỉ đường, dẫn lối, khơng tập hợp và lãnh đạo được quần chúng
cách mạng và tự phủ định mình trước lịch sử của dân tộc. Một trong những nhiệm vụ lí
luận quan trọng trong giai đoạn hiện nay, Đảng phải xây dựng và thực hiện được con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất ngắn, để nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước công nghiệp.
3.2 Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh như một

giáo lý, một tín điều. Nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nắm lập
trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lêni, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
một lập trường cách mạng triệt để, phấn đấu cho thắng lợi hoàn tồn độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Đó là quan điểm khoa học, phát hiện quy luật và làm theo quy luật. Đó
là phương pháp biện chứng: thực tiễn, lịch sử - cụ thể, toàn diện, phát triển. Trong điều
kiện mới, Đảng phải không ngừng vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xứng đáng là đội ngủ tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc.
3.3 Nâng cao trình độ khoa học và cơng nghiệp đáp ứng địi hỏi của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chế biến vật liệ mới... có bước phát
triển nhảy vọt. Khoa học và công nghệ càng ngày trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
thúc đẩy sự phát triển tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc
các lĩnh vực xã hội. Vì vậy, Đảng phải nâng cao trình độ hiểu biết về khoa học và công
nghệ để xây dựng được đường lối phát triển nhanh, tận dụng mọi thời cơ để đưa nước ta
thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Chúng ta phải tận dụng được thuận lợi của những người
đi sau, sử dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ để rút ngắn khoảng cách so
với các nước phát triển ở khu vực và thế giới.
19


3.4 Từng bước làm sáng tỏ những vấn đề lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
là một con đường chưa có tiền lệ. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã cố gắng vận dụng
một cách sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
để tìm kiếm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với nước ta trong điều kiện toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tuy những nhận thức xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội đã ngày càng rõ hơn, nhưng trong qua trình đổi mới cịn rất nhiều do thực tế đặt ra

chưa có lời giải đáp. Chính vì vậy chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, lý luận tổng kết thực
tiễn dưới sự chỉ dẫn về phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải đáp những vấn đề do sự nghiệp đởi mới đặt ra, từng bước tiếp tục làm sáng
tỏ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

C. KẾT LUẬN
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội, vì Đảng khơng có mục đích tự thân, ngồi lợi ích của giai cấp cơng
nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của tồn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến
bộ trên thế giới, Đảng khơng có lợi ích nào khác.
20


Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng đầu từ sự lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được lịch sử thực tế chứng minh, khơng có
một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được. Mọi mưu toan nhằm hạ thấp hoặc xóa bỏ
vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuyên tạc thực tế lịch sử cách mạng
dân tộc ta, trái với mặt lý luận lẫn thực tiễn, đều đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội
Việt Nam.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

(1).Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.9, tr.290.
(2).Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, tr.267-268.

(3),(4). Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, tr.267-268
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, tr.136-136.
Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, XB chính trị quốc gia – sự
thật, 24 Quang Trung - Hà Nội.
21


6.

/>
voi-thuc-tien-dat-nuoc-55661/
7. />
22



×