Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.21 KB, 29 trang )

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ
QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời của một
phương thức sản xuất, nhưng không phải lúc nào chúng cũng tương hợp với
nhau. Tính phức tạp của mối quan hệ này thể hiện ở chỗ: trong quá trình vận
động và phát triển chúng vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau. Vì thế,
nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hẹ sản xuất
trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể là một yêu cầu tất yếu để giải quyết mâu
thuẫn của chúng. Đối với nước ta hiện nay, việc tìm hiểu mối quan hệ này
đang là một là địi hỏi cấp bách, khách quan để tìm ra những hình thức, bước
đi thích hợp trên con đường đổi mới, hội nhập nhằm đưa đất nước ta thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát minh vĩ đại của C.Mác.
Vượt qua tất cả các nhà triết học trước đó, Mác đã phát hiện ra những quy luật
của lịch sử từ một sự thật tưởng như đơn giản; đó là: “Con người trước hết
cần phải ăn, uống, ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ
thuật, tơn giáo…”1
Khi phân tích q trình phát triển sản xuất của xã hội loài người, C.Mác
đã kết luận: phương thức sản xuất đời sống vật chất quy định các q trình
chính trị, tinh thần xã hội của đời sống nói chung. Theo Ơng, trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử, hay nói cách khác, trong mỗi , trong mỗi
chế độ xã hội nhất định, con người tiến hành sản xuất theo những phương
thức sản xuất nhất đinh. Phương thức sản xuất là một tổng thể thống nhất của
lực lượng sản xuất của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Điều đó có
nghĩa là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt gắn bó mật thiết
trong một phương thức sản xuất nhất định. Mỗi mặt đều lấy mặt kia làm tiền
đề, chúng tác động qua lại biện chứng lẫn nhau làm cho sản xuất phát triển.
Lao động sản xuất là đặc trưng riêng của con người và xã hội lồi người.
Trong q trình sản xuất con người đồng thời tham gia vào hai mối quan hệ


cơ bản mà C.Mác gọi là “Mối quan hệ song trùng”. Để tiến hành sản xuất, con
1 C.Mác- Ph.Ăngghen tuyển tập, Nxb sự thật, Hà nội, 1983, t5, tr662

1


người phải quan hệ với tự nhiên, tác động, cải tạo giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của mình. Lực lượng sản xuất là biểu
hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên trong quá trình tạo ra của cải vật
chất. Đồng thời, con người khơng thể sản xuất có kết quả nếu tiến hành hoạt
động một cách đơn lẻ, riêng rẽ, mà phải liên kết với nhau, quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau trong q trình sản xuất, đó chính là quan hệ sản xuất. Quan
hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất. Thiếu một trong hai mối quan hệ này sản xuất không thể tiến hành và
phát triển được. Mối quan hệ gắn bó, thống nhất khơng tách rời của lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất như hai mặt của một quá trình sản xuất xã hội là
do tính thống nhất của các mối quan hệ của chủ thể sản xuất quyết định. Tuy
nhiên trong mối quan hệ đó, lực lượng sản xuất ln giữ vai trị quyết định.
Bởi vì thực chất, lực lượng sản xuất là kết quả hoạt động trao đổi của con
người với tự nhiên, là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi
người. Do đó, nó cũng quyết định các mối quan hệ xã hội của con người.
Quan hệ sản xuất bị quyết định bởi lực lượng sản xuất , nhưng đến lượt quan
hệ sản xuất nó có tác động trở lại hoặc kìm hãm, hoặc thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều là kết quả hoạt động có ý
thức, có mục đích của con người, song bản thân chúng và mối quan hệ của
chúng lại không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà tuân theo
quy luật khách quan. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên

là sự thống nhất hữu cơ giữa lao động đã được tích luỹ và lao động sống,
nghĩa là toàn bộ những yếu tố vật và người của nền sản xuất cần thiết để từ
những đối tượng của tự nhiên sản xuất ra những vật có khả năng thoả mãn
những nhu cầu của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động
với những kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là cơng cụ
lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất phụ thuộc các yếu tố cấu thành lực

2


lượng sản xuất, mà người lao động là yếu tố quan trọng nhất, “lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại”1.
Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kỹ năng lao dộng của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết
là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải
vật chất. Con người có vai trị quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Bởi
lẽ, người lao động với lao động cơ bắp và lao động trí tuệ, cùng quá trình lịch
sử lâu dài của xã hội lồi người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao
động, làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn; con người
chế tạo ra các công cụ lao động, cải tiến đối tượng lao động và chính con
người quyết định việc sử dụng các phương tiện, công cụ lao động và ngun
vật liệu trong sản xuất. Khơng có con người với trí tuệ, biết chế tạo và sử
dụng cơng cụ lao động thì cũng khơng có bất cứ tư liệu lao động và q trình
lao động nào. Cơng cụ lao động dù có hiện đại đến đâu cũng là sản phẩm của
đơi bàn tay và khối óc của con người, với bản chất của con người là hoạt động
có mục đích và sáng tạo, bằng trí tuệ và các công cụ sản xuất mới nhằm tác
động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển khơng ngừng của
cơng cụ sản xuất từ thủ cơng đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá, đưa nền
văn minh của xã hội loài người chuyển từ thấp đến cao, tự nó cũng đã nói lên
tính vơ tận và sức mạnh vơ cùng to lớn của trí tuệ con người.

Trình độ người lao động thể hiện ở sự khéo léo, ở kỹ năng, kỹ xảo, kinh
nghiệm mà mỗi người lao động tích luỹ, rút kinh nghiệm và đặc biệt nhất là
trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào quá trình sản xuất. Khi sự phát triển của cách mạng công nghiệp,
cách mạng khoa học kỹ thuật, rồi cách mạng công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, cũng như để sử dụng có hiệu quả những thành tựu do các
cuộc cách mạng đó đem lại trình độ năng lực trí tuệ của người lao động khơng
ngừng được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá
11 V.I Lênin: toàn tập , Nxb tiến bộ ,Mãtcơva, 1977, tập 38, tr 430

3


trình sản xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm tỷ lệ
không đáng kể ở thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay ở các nước
phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng
giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 90%, vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10 - 20% tổng giá
trị sản phẩm . Hiện nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang đưa nền kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển vận động đến nền kinh tế tri thức. Ở những nước này, lao động trí tuệ
ngày càng chiếm tỷ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ chất xám chiếm 1/2
giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ đạt tới mức mà nhờ nó
con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt trước” hay phỏng theo
những đặc tính trí tuệ của chính con người. Bằng những kỹ thuật - cơng nghệ
hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra mà nhân loại đang chứng
kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trước
đây, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên. Ngày nay,
đối tượng lao động còn là sản phẩm của lao động, của khoa học - công nghệ
mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm, không phụ thuộc

một cách tiên quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên mà phụ thuộc chủ yếu
vào con người với năng lực trí tuệ cao. Tư liệu lao động gồm công cụ lao
động và phương tiện lao động, trong đó cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng
nhất và cách mạng nhất. Công cụ lao động là kết tinh trí tuệ của con người, do
con người chế tạo ra, nhưng khi sử dụng nó đã thiết thực giúp con người nối
dài bàn tay và các giác quan của mình. Do đó, trình độ phát triển của cơng cụ
lao động là thước đo trình độ tự nhiên của con người, là yếu tố động nhất của
lực lượng sản xuất, do sự hồn thiện của cơng cụ sản xuất đã dẫn đến những
biến đổi sâu sắc trong lực lượng sản xuất và dẫn tới những cải biến trong xã
hội, những sự thay đổi trong các quan hệ sản xuất, các hình thái kinh tế xã
4


hội. Để giảm bớt lao động nặng nhọc và nâng cao năng xuất lao động, con
người không ngừng cải tiến, hồn thiện và chế tạo ra những cơng cụ sản xuất
mới. Ngày nay, q trình tự động hố ở nhiều nước phát triển đã ở vào giai
đoạn cao, công cụ lao động ngày càng hiện đại. Do vậy, đòi hỏi người lao
động phải khơng ngừng nâng cao trình độ để sử dụng được những cơng cụ
hiện đại đó.
Khi lực lượng sản xuất ở trình độ càng cao thì phân cơng lao động ngày
càng chuyên sâu, quy mô sản xuất càng mở rộng, việc ứng dụng kỹ thuật hiện
đại vào sản xuất ngày càng phổ biến. Khi sản xuất dựa trên kỹ thuật cơ khí
hiện đại, nhiều người lao động cùng tham gia vào một dây truyền sản xuất,
mỗi người đảm nhận một khâu trong dây truyền đó, tính chun mơn hố
ngày càng sâu thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hố ngày càng
rộng. Ngược lại, khi trình độ người lao động cịn thấp, sử dụng cơng cụ thủ
công là chủ yếu, phân công lao động kém phát triển, mỗi người có thể đảm
nhiệm tất cả các khâu của quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất mang tính
cá thể.
Trong một phương thức sản xuất chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất

nhất là công cụ sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, do con người ở
mỗi thế hệ luôn kế thừa lực lượng sản xuất của các thế hệ đi trước và phát
triển, nâng cao chúng lên, nó có ý nghĩa quyết định năng xuất lao động,
nhưng cơng cụ chỉ có thể trở nên “sống động” phát huy được tác dụng khi kết
hợp được với nhân tố con người, bởi vì ngay từ thời kỳ mà cơng cụ sản xuất
hồn tồn là thủ cơng thì nó đã khơng ngừng được con người cải tiến, sử dụng
các chất liệu khác nhau, làm ra nhiều kiểu dáng khác nhau cho phù hợp với
đều kiện cụ thể cho quá trình lao động sản xuất được dễ dàng hơn và năng
xuất cao hơn. Khi khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
thì các công cụ và các phương tiện ngày càng phong phú, đa dạng, các thế hệ
máy móc được đổi mới, hồn thiện rất nhanh chóng và tính chất xã hội hoá
5


ngày càng cao, nhiều sản phẩm công nghiệp hiện nay từ khi sản xuất từng chi
tiết đến khi được lắp ráp hoàn chỉnh là sự kết hợp liên kết sản xuất của nhiều
nhà máy, nhiều cơng ty, thậm chí được thực hiện ở rất nhiều nước khác nhau
trên thế giới .
Quan hệ sản xuất là quan giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một
cách khách quan, khơng hồn tồn tn theo ý muốn chủ quan của con người.
Để tiến hành sản xuất, con người chẳng những phải quan hệ với tự nhiên, dựa
vào tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất, từng bước nâng cao điều kiện
sống của mình mà cịn phải quan hệ với nhau, do đó sản xuất bao giờ cũng
mang tính xã hội. Vì vậy, Mác viết: “Trong sản xuất người ta không chỉ quan
hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với
nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ
của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn ra trong khuôn khổ
những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”4.

Như vậy, trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người dù
muốn hay không cũng buộc phải thực hiện các mối quan hệ nhất định với
nhau. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan
hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất trên ba mặt cơ bản:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ về phân phối kết quả sản xuất
Ba nội dung trên là ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, chúng có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
đóng vai trị quyết định.
Về mặt quan hệ đối với tư liệu sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất nói lên rằng: trong quá trình sản xuất, người lao động đang sử dụng
4 C.Mác và Ăngghen,toàn tập, tập 6, Nxb chính trị quốc gia hà nội 1993,tr 552

6


những tư liệu sản xuất đó là của ai và ai là người có quyền định đoạt tư liệu
sản xuất đó, hoặc là quan hệ sở hữu phản ánh quyền sở hữu đối với tư liệu sản
xuất chứa đựng các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Các
quyền này có thể hợp nhất trong một chủ thể, cũng có khi tách rời nhau và
thuộc các chủ thể khác nhau, nhưng quyền định đoạt có tính quyết định bao
giờ cũng thuộc về người sở hữu.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng
vai trị quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản xuất. Cho nên,
quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của
quan hệ sản xuất. Chính nó quyết định mục đích, hình thức tổ chức kinh
doanh, phương thức quản lý, chi phối việc phân phối sản phẩm làm ra, tức là
quyết định địa vị của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội.
Trong xã hội có phân chia giai cấp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư

liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã
hội, nắm quyền thống trị xã hội. Tuy nhiên, trong sự tác động lẫn nhau của
các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất thì quan hệ về tổ chức và quản lý, quan
hệ phân phối sản phẩm cũng có vai trị rất quan trọng.
Q trình phát triển của lịch sử xã hội cho ta thấy có hai loại hình sở
hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất đó là sở hữu công cộng và sở hữu cá nhân.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân cơng lao động của xã hội
đã làm cho các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên đa
dạng.
Trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất thấp kém,
đối với con người giá trị tự nhiên là thần bí, xa lạ. Để chống đỡ với những
hiện tượng tự nhiên và tồn tại, con người phải dựa vào nhau. Các hoạt động
kinh tế chủ yếu mang tính chất chiếm đoạt các sản phẩm có sẵn trong tự nhiên
như săn bắt, hái lượm. Do vậy, chỉ có một hình thức sở hữu duy nhất là sở
hữu công cộng của thị tộc, bộ lạc. Nhưng từ xã hội nô lệ qua xã hội phong
7


kiến đến xã hội tư bản, do lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công
lao động ngày càng sâu sắc thì các hình thức sở hữu khác ra đời và ngày càng
phong phú, đó là sở hữu tư nhân, sở hữu Nhà nước và các hình thức sở hữu
hỗn hợp. Hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng có nhiều loại khác
nhau, đó là sở hữu nhỏ của những người nông dân, của các thợ thủ công cá
thể, sở hữu của các chủ nô lệ, các điền chủ thời phong kiến và sở hữu của các
nhà tư bản. Các hình thức sở hữu tư nhân trên đây đã hàm chứa các kiểu quan
hệ sản xuất khác nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra của cải vật chất cho xã hội, tương ứng với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Hiện nay, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất có thêm nội dung và tính chất
mới đó là sở hữu trí tuệ. Bởi, tri thức đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ

yếu, các nhân tố sản xuất truyền thống như đất đai, lao động và tư bản không
bị mất, nhưng tầm quan trọng của nó khơng cịn như cũ, các yếu tố sản xuất
truyền thống phân theo quy luật lợi nhuận giảm dần, còn tri thức lại tạo ra cơ
chế lợi nhuận tăng dần. Trong nền kinh tế tri thức, trí tuệ là nguồn lực cơ bản
nhất của quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, thì người đó có khả năng điều tiết và
chi phối sự phát triển của xã hội theo mục tiêu và lợi ích của mình. Điều quan
trọng hơn là trong xã hội tri thức, người lao động làm thuê được quyền sở hữu
cơng cụ sản xuất - trí tuệ của bản thân họ. Mác đã có phát kiến vĩ đại cho
rằng: người cơng nhân khơng có nhà máy và khơng thể sở hữu tư liệu sản
xuất, do vậy bị “tha hố”. Ơng chỉ rõ, người cơng nhân khơng thể sở hữu máy
hơi nước và không thể lấy máy hơi nước đi cùng với mình, khi họ chuyển từ
cơng việc này sang công việc khác. Nhà tư bản cần phải sở hữu động cơ hơi
nước và cần phải kiểm sốt nó. Thế nhưng, những đầu tư thực sự trong xã hội
tri thức khơng phải vào máy móc hay cơng cụ, mà chính vào người cơng nhân
trí thức, khơng có người cơng nhân trí thức thì cho dù máy móc có hiện đại và
tinh vi đến đâu chăng nữa cũng không thể hoạt động được.
8


Về quan hệ trong tổ chức và quản lý, chúng ta thấy rằng: thích ứng với
một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định.
Trong các chế độ mà nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất thì người sở hữu tư liệu sản xuất là kẻ bóc lột, cịn người lao động khơng
có tư liệu sản xuất là người bị quản lý và bị bóc lột. Điển hình của sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất trong lịch sử phát triển xã hội lồi người phải kể đến
ba loại hình là: sở hữu chiếm hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa. Trong các chế độ xã hội mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ
cơng hữu thì mọi thành viên đều có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã
hội và phân phối sản phẩm. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã từng tồn
tại trong buổi đầu của xã hội lồi người - chế độ cơng xã ngun thuỷ và

trong chế độ cộng sản chủ nghĩa mà loài người đang hướng tới mà giai đoạn
đầu của nó là xã hội chủ nghĩa.
Thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong chế độ cộng sản chủ
nghĩa, thực hiện bình đẳng trong tổ chức quản lý và các mặt quan hệ khác là
một q trình, chỉ có thể thực hiện từ thấp đến cao thông qua nhiều bước
trung gian quá độ.
Tuy phụ thuộc vào quan hệ đối với tư liệu sản xuất, nhưng trong thực tế
quan hệ tổ chức và quản lý cũng có vai trị rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ
sở hữu chưa có gì thay đổi nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản
xuất vẫn phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp
đến quy mô, tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế, khi lợi ích của người lao
động mâu thuẫn với chủ sở hữu và quản lý nếu quan hệ tổ chức được điều
chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì quan hệ trên mang tính hợp tác, dân chủ
hơn, do vậy có thể khai thác được tính chủ động, sáng tạo của người lao động.
Quan hệ phân phối sản phẩm là cách thức phân phối kết quả sản xuất
cho những người có quan hệ với q trình sản xuất, điều đó phụ thuộc vào
quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở hữu rất đa dạng nên
9


phương thức phân phối cũng rất phức tạp. Chính ở những khía cạnh này đã
bộc lộ những mâu thuẫn về lợi ích giữa những người tham gia vào q trình
sản xuất, cho nên đã xuất hiện các quan hệ khác nhau trong cách thức phân
phối. Trong lịch sử phát triển của xã hội, người ta đã từng biết tới các phương
thức phân phối gắn với chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất thuộc giai cấp
chủ nô, của giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản. Dưới chế độ bóc
lột, người lao động bị chèn ép, bị bóc lột và quan hệ phân phối là khơng bình
đẳng. Sống dưới chế độ tư bản người lao động được tự do về thân thể, tự do
đi làm thuê, việc phân phối được tính theo chi phí sản xuất hàng hố và nó
được xác định thơng qua thị trường. Mác đã bóc trần cách phân phối mà ở đó

nhà tư bản đã chiếm đoạt giá trị thặng dư của người cơng nhân, ở đó tuy
người lao động tự do về thân thể, nhưng lại bị trói chặt hơn vào guồng máy
kinh tế tư bản và phương thức phân phối mang tính bóc lột trở nên tinh vi
hơn, được che đậy kín hơn.
Trong ba nội dung trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất đóng vai trị quyết định, nó chi phối các mặt khác của quan hệ
sản xuất. Khi chế độ sở hữu thay đổi căn bản thì chế độ quản lý phân phối
cũng thay đổi theo. Chẳng hạn, khi chế độ sở hữu công cộng kiểu thị tộc bộ
lạc được thay thế bằng chế độ sở hữu tư nhân, dưới chế độ chiếm hữu nơ lệ
thì quan hệ quản lý khơng như trước nữa, mà tính chất thống trị, chuyên chế
và quan hệ phân phối mang tính chất bất bình đẳng có lợi cho kẻ nắm giữ tư
liệu sản xuất.
Từ sau chế độ công xã nguyên thuỷ, nền kinh tế xã hội tồn tại nhiều
hình thức quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, phản ánh
trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Giữa nhiều mối quan hệ tác động
qua lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, Mác và Ăngghen đã nhận
thấy có một mối quan hệ bản chất tất yếu, mối quan hệ này xác lập quy luật

10


liên hệ giữa hai mặt của nền sản xuất, đó là quy luật phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Vậy thế nào là sự phù hợp và tại sao quan hệ sản xuất lại phải phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với quan hệ sản xuất là sự tác động một cách hợp lý giữa chúng để đem lại sự
kết hợp tối ưu các yếu tố của quan hệ sản xuất với các yếu tố của lực lượng
sản xuất, giữa người lao động với tư liệu sản xuất, làm cho quá trình sản xuất
phát triển nhanh chóng. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản

xuất. Sự phù hợp này xuất phát từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, phải
lấy lực lượng sản xuất làm chuẩn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất Mác viết: “trong đời sống xã hội, con người có những quan
hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ
sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất”5. Đó chính là u cầu của quy luật, là sợi dây liên hệ quy
định sự hình thành của quan hệ sản xuất và tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất
phải thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu khơng có sự phù
hợp thì các mối quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là không
xác định, khơng có “điểm tựa” ràng buộc lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất nhất định.
Các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất cũng tác động qua lại lẫn nhau
làm cho quan hệ sản xuất vận động, nhưng chậm chạp hơn so với vận động
của lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất mang tính thể chế, tính
pháp luật nên tương đối ổn định. Trong khi, lực lượng sản xuất thường xuyên
biến đổi, phát triển. Cho nên, nó sẽ tạo ra mâu thuẫn, phá vỡ mối quan hệ
tương đối ổn định giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hiện thời, tạo
ra một phương thức sản xuất mới thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đó là mâu
thuẫn tích cực, mâu thuẫn do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Sự
55 C.Mác và Ăngghen tuyển tập, gồm 6 tập, tập 2 Nxb sự thật hà nội,1981 tr637

11


phù hợp của quy luật đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Như vậy, khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cịn trái lại nếu khơng phù
hợp sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mác viết: “tới
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản xuất vật chất

của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay đây chỉ là
biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những
quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát
triển”6. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Ăngghen viết: “chúng ta
vẫn xuất phát từ công cụ sản xuất và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở
hữu tư nhân, ở những giai đoạn công nghiệp nhất định. Trong công nghiệp
khai khống, sở hữu tư nhân cịn hồn tồn ăn khớp với lao động cũng như
trong công nghiệp nhỏ và trong tồn bộ nơng nghiệp. Cho tới nay, sở hữu là
hiệu quả tất yếu của những công cụ sản xuất hiện có. Trong cơng nghiệp lớn,
mâu thuẫn giữa cơng cụ sản xuất và sở hữu tư nhân là sản phẩm của một nền
cơng nghiệp đã đạt đến một trình độ phát triển cao mới có thể tạo ra mâu
thuẫn ấy”7. Quan hệ sản xuất phù hợp tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất
phát triển, nhưng khi quan hệ sản xuất khơng cịn phù hợp, mâu thuẫn với lực
lượng sản xuất thì khi đó: “từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng
sản xuất. Khi đó bắt đầu của một cuộc cách mạng xã hội”8. Khi đã mâu
thuẫn, quan hệ sản xuất trở thành những ràng buộc, cản trở gây khó khăn cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, cần phải thay thế quan hệ sản
xuất cũ, đã lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
66 C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15
77 C.Mác và Ăngghen, tuyển tập, gồm 6 tập , t 1,Nxb sự thật ,hà nội 1980,tr 332
88 C.Mác và Ăngghen, tồn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15

12


Lực lượng sản xuất mang tính kế thừa, là kết quả của sự phát triển kinh
tế xã hội loài người. Các thế hệ sau khi ra đời đã có những lực lượng sản xuất
do thế hệ trước để lại. Đó là, cơ sở hạ tầng, công cụ sản xuất và những tri thức

mà thông qua đào tạo lớp người sau có thể học tập sử dụng các tư liệu lao
động đã có, tiếp tục sáng tạo ra những tư liệu lao động mới. Từ tính khách
quan của lực lượng sản xuất và tính quyết định của nó đối với quan hệ sản
xuất, con người không thể tuỳ tiện tạo lập một quan hệ sản xuất theo ý muốn
chủ quan, cho dù điều đó là hết sức tốt đẹp về đạo lý, là nguyện vọng của con
người luôn hướng tới. Ngược lại, người ta cũng khơng thể duy trì một quan hệ
sản xuất đã lạc hậu, để bảo vệ lợi ích của một số người trong xã hội. Mác đã
chỉ ra: “khơng một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi các lực lượng sản
xuất trong hình thái xã hội đó tạo ra được đầy đủ cơ sở cho hình thái kinh tế
xã hội mới ra đời và những quan hệ sản xuất mới cao hơn, cũng không bao
giờ xuất hiện trước khi những điều kiện vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ”9.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lòng xã hội phong kiến đã
dẫn đến sự ra đời của sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất và cùng với nó
các quan hệ phân phối, quản lý tổ chức của nền kinh tế tư bản ra đời, thay thế
quan hệ sản xuất phong kiến. Sự tồn tại và biến đổi quan hệ sản xuất là do lực
lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất như thế nào, thì quan hệ sản
xuất như thế ấy. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, nó khơng ngừng biến
đổi, bởi vì trong q trình sản xuất, người lao động dần dần tích luỹ được
kinh nghiệm nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của mình. Họ tìm cách cải tiến công
cụ sản xuất để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất vì chính lợi ích của
mình. Đạt được những kết quả xã hội đó, chính là nhờ sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phụ thuộc vào sự biến đổi của quan hệ sản xuất mà trong đó
quan hệ kinh tế giữa người với người trong xã hội cũng biến đổi. Mác viết:
“những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất.
99 C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 16

13



Do có được những lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi phương thức
sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất... loài người thay đổi
tất cả những quan hệ sản xuất xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay
đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có
nhà tư bản cơng nghiệp”10. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất đã phá bỏ cái vỏ chật
hẹp của sở hữu tư nhân tư bản trong buổi bình minh của nó. Các hình thức sở
hữu ngày càng càng được đa dạng hóa và thích ứng với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng
quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối của nó, điều này được biểu hiện:
quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai chiều hướng. Khi
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy,
ngược lại, khi khơng phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn phát triển khơng ngừng, cịn
quan hệ sản xuất ln có xu hướng duy trì sự ổn định nên thường phát triển
chậm chạp hơn so với lực lượng sản xuất. Tuy nhiên quan hệ sản xuất chỉ phát
triển chậm hơn chứ không phải là khơng phát triển.
Chính sự phát triển khơng đồng bộ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất khiến cho đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “hiện có” sẽ trở nên
lạc hậu, mâu thuẫn và kìm hãm các lực lượng sản xuất vốn trước đó được nó
tạo điều kiện và thúc đẩy. Lực lượng sản xuất luôn vận động và phát triển
không ngừng sẽ tất yếu phá vỡ quan hệ sản xuất đã trở nên không cịn phù
hợp với nó để thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Song giữa chúng
cũng bắt đầu nảy sinh những mâu thuẫn mới, để rồi đến một lúc nào đó quan
hệ sản xuất mới này lại bị thay thế bởi một quan hệ sản xuất mới khác. Cứ
như thế, sự thống nhất, phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
1010 C.Mác và Ăngghen, tồn tập, t 4,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1995,tr 187


14


là tạm thời và mang tính đứt đoạn. Cịn mâu thuẫn giữa chúng là liên tục và
xuyên suốt quá trình sản xuất xã hội. Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa
chúng là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển khơng ngừng. Vì thế, sự phát
triển, thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên.
Ngày nay, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản
xuất đồ sộ, tính chất xã hội hố của lực lượng sản xuất ngày càng cao mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Mâu thuẫn này phát triển đến độ ngày càng gay gắt.

15


Để khắc phục những mâu thuẫn này, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện q
trình điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế, chính sách xã hội, ứng dụng
khoa học kĩ thuật và cơng nghệ mới, hi vọng có thể điều hoà được những mâu
thuẫn đang phát sinh. Trước mắt, chủ nghĩa tư bản cịn có tiềm năng phát triển
kinh tế, nên mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản mà cơ bản là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chưa bùng nổ bằng một cuộc
cách mạng xã hội. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết triệt để bằng
cách mạng xã hội, chứ khơng thể giải quyết được bằng sự điều hồ, điều
chỉnh, thích nghi.
Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phù hợp và không phù hợp của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất cũng tồn tại khách quan, bên trong của nền sản
xuất vật chất như là yếu tố nội sinh của sự phát triển. Phát triển là một quá
trình không ngừng phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Chính vì thế,
chủ nghĩa xã hội phải thường xun đổi mới, cải cách, cải tổ để giải quyết sự

không phù hợp, đem lại sự phù hợp mới của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất.
Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ln
được tái tạo trong sự lặp lại có tính quy luật của quá trình sản xuất vật chất.
Vì vậy, việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn phải tiến hành thường xuyên,
tiên tục. Không thực hiện theo kiểu chiến dịch, vì qui luật quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất là qui luật xã hội thông qua hoạt động của con
người, cho nên, việc phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn bao giờ
cũng phụ thuộc vào nhân tố chủ quan đó là: trí tuệ, bản lĩnh và năng lực tổ
chức thực hiện.

16


Dù phù hợp hay không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất ln thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục tiêu xã hội của sản
xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành hệ thống
những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất.
Tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất của quan hệ
sản xuất chỉ có ý nghĩa tương đối. Với sự phát triển khách quan của lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất khi khơng cịn phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ
bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã
bộc lộ gay gắt, địi hỏi phải giải quyết, nhưng con người khơng phát hiện
được hoặc phát hiện mà không giải quyết được hay do sai lầm chủ quan trong
quá trình giải quyết mâu thuẫn, thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ
trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật

kinh tế – xã hội khác, đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người là do tác
động của hệ thống các quy luật xã hội và tự nhiên, trong đó quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản nhất.

17


Trong chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là khách quan, do đó yêu cầu phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu
thuẫn cũng là khách quan. Cho đến nay, tất cả các nước đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa không phải từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao mà
từ những nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình và thấp hoặc chưa trải
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa theo sự phát triển của lịch sử. Mặt khác, với
xu hướng tồn cầu hố ngày càng mở rộng, lực lượng sản xuất đã được quốc
tế hoá lại càng đòi hỏi chúng ta vận dụng sáng tạo phép biện chứng của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, chủ quan,
duy ý chí trong xây dựng và phát triển kinh tế.
Rõ ràng, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là một quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương
thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia, dân tộc nào. Điều đó địi hỏi
chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước phải nhận thức đúng để hành động
phù hợp với quy luật khách quan.
Ở nước ta, trong cơ chế hành chính tập trung quan liêu, bao cấp trước
đây đã có những lúc chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ
sản xuất cao hơn, đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Song kết quả diễn ra lại trái với mong muốn của chúng ta. Đó là lực lượng sản

xuất khơng phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, hàng hố sản xuất ra kém chất
lượng, giá thành cao khơng thể cạnh tranh với hàng ngoại,

lại

khan

hiếm

không đủ để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đời sống nhân dân rất
khó khăn.

18


Tình hình trên đây do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau. Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp
đặt chủ quan một quan hệ sản xuất khơng phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất. Trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, phổ biến
là sản xuất nhỏ nhưng vì muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta
đã nhấn mạnh quá mức quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức tới quan hệ
tổ chức quản lý và quan hệ phân phối trao đổi. Từ đó, đã dẫn đến việc mở
rộng ồ ạt hai hình thức sở hữu tồn dân và tập thể, các thành phần kinh tế
khác bị ngăn cấm hoặc xoá bỏ để chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể
qua các đợt cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc
duy trì q lâu cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp và kèm theo
nó là phân phối bình qn, lợi ích cá nhân chưa được quan tâm đúng mức đã
kìm hãm sức sản xuất của xã hội. Các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà
nước chưa được phát huy tác dụng. Động lực sản xuất bị suy giảm, người lao
động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các kế hoạch sản xuất của tập thể và

Nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta trong những năm qua đã chứng
minh rằng: quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
không chỉ khi nó trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi
trước quá xa so với lực lượng sản xuất, một lần nữa quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất lại thể hiện rõ
tính phổ biến và tính tất yếu mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan
của con người. Dù mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố nền kinh tế, chúng ta cũng không thể
bất chấp quy luật, mà trái lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách
quan. Đó là một trong những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ.

19


Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một đất nước có nền sản xuất
nơng nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm chiến tranh, buộc Đảng ta phải đổi
mới cả trong nhận thức lý luận, cũng như thực tiễn xây dựng quan hệ sản xuất
sao cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đường
lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư ngày
13-1-1981 về khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong quá trình đổi mới. Nhưng
cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã
hội là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 với sự tỉnh
táo cách mạng, Đảng ta đã thấy được sai lầm trong việc sử dụng cơ chế kinh
tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp; thấy cần thiết một cuộc đổi mới
cơ chế kinh tế, đổi mới tư duy và Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới toàn

diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Nhưng
phải có bước đi thích hợp, trước hết là phải đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy
kinh tế. Với Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, chúng ta đã dứt khốt đoạn
tuyệt với cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành
phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới, động
viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Thực chất của cơng cuộc đổi mới trong q trình xây dựng và phát triển
quan hệ sản xuất ở nước ta từ năm 1986 đã được Đảng ta nhận thức ngày càng
đúng đắn và đầy đủ hơn. Nước ta đang trong quá trình tiến lên từ một nền sản
xuất nhỏ tới một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đó là quá trình chuyển từ
nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nền
20


kinh tế hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà tồn tại khách quan
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đúng như Lênin đã từng khẳng
định trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những mảnh,
những thành phần của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng các hình thức sở hữu,
nhưng hình thức cơng hữu đối với tư liệu sản xuất phải giữ vai trị chủ đạo chi
phối trong tồn bộ nền kinh tế là điều kiện cần thiết ở nước ta hiện nay. Có
nghĩa là chúng ta phát triển kinh tế nhưng phải giữ được bản chất của chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế là
giải phóng sức sản xuất, phát huy tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngồi
cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao hiệu quả kinh
tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường vận động theo quy luật

khách quan của nó, tất yếu sẽ phát huy tác dụng thúc đẩy các đơn vị kinh tế
hướng vào mục tiêu là phân phối và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế có
hiệu quả. Đồng thời, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Vì
vậy, Nhà nước cần phải hồn thiện hệ thống pháp luật, có chính sánh điều tiết
nền kinh tế vĩ mô, hướng các mục tiêu kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nhấn mạnh: “muốn
đưa nền kinh tế thoát khỏi rối ren, mất cân đối, dứt khoát phải sắp xếp lại nền
kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các vùng, các thành phần kinh
tế ... phải được bố trí cân đối, đan kết với nhau phù hợp với điều kiện thực tế,
bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”10.
Để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, phải mở rộng quan hệ hàng hóa
tiền tệ, tạo cho sản xuất hàng hóa phát triển, cần có sự đa dạng hóa các loại
hình sở hữu và gắn với nó là sự tham gia hoạt động của nhiều chủ thể kinh tế
1010 Văn kiện đại hội Đảng VI,tr 47

21


thuộc các thành phần kinh tế khác. Đây là vấn đề có tính quy luật địi hỏi
chúng ta phải tơn trọng, có chủ trương, chính sách, biện pháp hợp lí trong sử
dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã đưa ra quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần: “đi đôi phát
triển nền kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập
trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngồi, cần có chính sách sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”11.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6 - 1991) đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đã chỉ ra mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng với 6
đặc trưng cơ bản là.

- Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ nhau tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính
sách kinh tế và các công cụ khác. Đại hội lần thứ VII của Đảng đòi hỏi, phải
phát huy cho được “thế mạnh của các thành phần kinh tế” trong thời kỳ quá
độ ở nước ta là: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, các thành phần kinh tế này “vừa cạnh
tranh vừa hợp tác bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”.
Nhằm tạo ra sự đa dạng hóa trong sản xuất kinh doanh mở ra hướng đi mới
1111 Văn kiện đại hội Đảng VI,tr 56

22


cho nền kinh tế phát triển. Nhà nước khuyến khích mọi người kinh doanh sản
xuất làm giàu chính đáng, nhưng sẽ thơng qua chính sách điều tiết thu nhập và
các chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội để giảm bớt chênh lệch về thu nhập
quá lớn giữa các tầng lớp dân cư. Bằng cách đó Nhà nước sẽ thực hiện gắn
tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng xã hội là tư tưởng chủ đạo trong từng bước đi và trong suốt
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó cũng là yêu cầu cơ bản hàm

chứa cả nội dung kinh tế và chính trị, để giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nếu chỉ
nhấn mạnh đến cơng bằng xã hội mà khơng thấy sự kích thích từ lợi ích kinh
tế sẽ làm triệt tiêu sự hứng thú, lịng nhiệt tình hăng say sáng tạo của mỗi
người, với tư cách là những thành viên sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Cho nên, cần phải giải quyết hài hịa các lợi ích kinh tế, trong đó coi
trọng lợi ích trực tiếp của người lao động, đa dạng hóa các hình thức sản xuất
kinh doanh, các hình thức thu nhập đối với người lao động, xóa bỏ xu hướng
phân phối bình quân, thực hiện phân phối theo kết quả lao, hiệu quả trong sản
xuất kinh doanh, theo tài sản hay vốn đầu tư vào sản xuất và phân phối thông
qua các phúc lợi xã hội. Giải quyết đúng đắn chính sách thu nhập và các chính
sách xã hội khác sẽ góp phần tích cực vào q trình đổi mới tồn diện các
hoạt động kinh tế xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để tiếp tục phát triển đất nước. Đại hội đã đánh
dấu một mốc mới cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, nhờ có chủ
trương đổi mới đúng đắn của Đảng, nước ta đã dần thoát khỏi khủng hoảng về
kinh tế, bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đây là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ .

23


Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã vạch ra mục tiêu phát triển của lực
lượng sản xuất nói chung là: “từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần
lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện
khí hóa cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng xuất lao động xã hội và
hiệu qủa sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.

Khoa học tự nhiên và cơng nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng
được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình
thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ
cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển”12.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng đổi mới của các kỳ Đại hội VI,
VII, VIII. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương đó đã biểu hiện rõ trong xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết phải ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất. Bởi vì, một nền sản xuất phát triển cao trước hết phải dựa vào lực
lượng sản xuất hiện đại, do đó phát triển xã hội là phải tập trung cho phát
triển lực lượng sản xuất và xác lập quan hệ sản xuất cũng nhằm giải phóng và
phát triển lực lượng sản xuất. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là có một nền
sản xuất phát triển cao, dựa trên một lực lượng sản xuất hiện đại. Đối với nền
kinh tế nước ta còn nhiều mặt lạc hậu thì phải tập trung sức phát triển lực
lượng sản xuất là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Mặt khác, có thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển từ đó mới có thể xác lập quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chống chủ quan, duy ý chí,
nóng vội trong cải tạo quan hệ sản xuất.
1212 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,Nxb chính trị quốc gia, 1996,tr 80,81

24


Để phát triển lực lượng sản xuất có hàm lượng công nghệ cao cần phải
tận dụng mọi khả năng để nắm bắt được trình độ tiên tiến, xây dựng và phát
triển nền kinh tế tri thức. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “phát huy lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên

tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều, ở mức cao và phổ biến hơn những thành tựu mới về
khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”13, coi “phát triển
khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”14. Đồng thời, phát huy mọi nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần
của người Việt Nam, phải coi con người là lực lượng sản xuất hàng đầu, là
“yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”15.
Đối với phát triển quan hệ sản xuất, Đại hội IX khẳng định: “phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản xuất mới phù hợp trên
tất cả ba mặt sở hữu quản lý và phân phối”16. Đồng thời, khẳng định nền kinh
tế trong thời kỳ q độ cịn nhiều hình thức sở hữu, nhưng trong đó có ba hình
thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân tác
động qua lại, tồn tại đan xen, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau, trong đó
phải lấy sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng và kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xác lập quan
hệ sản xuất mới phải dựa trên cơ sở không ngừng thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển và trên cơ sở trình độ và tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất, từng bước xác lập quan hệ sản xuất phù hợp. Đặc biệt, phải chú trọng sử
dụng các hình thức kinh tế trung gian quá độ để cải tạo và xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp với quy luật khách quan.

1313 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 91
1414 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 112
1515 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 109
1616 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 87

25



×