Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN TRONG TÁC PHẨM “CHỐNG ĐUY RINH” CỦA PH.ĂNGGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.31 KB, 14 trang )

1

NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN
TRONG TÁC PHẨM “CHỐNG ĐUY RINH” CỦA PH.ĂNGGHEN

1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Chống Đuyrinh là tác phẩm nổi tiếng của Ăngghen, công trình bút
chiến chống lại Đuyrinh - nhà tư tưởng tiểu tư sản Đức, được Ăngghen viết từ
năm1876 đến năm1878 (Mác đã đọc bản thảo của tác phẩm này và viết
chương X của phần II). Từ năm 1877 đến năm1878, tác phẩm được công bố
dưới hàng loạt bài báo trên tờ tiến lên. Năm 1878, cuốn sách được xuất bản
toàn bộ nhưng ngay sau đó bị cấm lưu hành. Vào năm 1875 Đuyrinh đã viết
một loạt bài cơng kích gay gắt chủ nghĩa Mác. Những quan điểm triết học của
Đuyrinh là sự trộn lẫn một cách chiết trung cả chủ nghĩa duy vật tầm thường,
cả chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy tâm. Điều nguy hiểm là ở chỗ sự
công kích chủ nghĩa Mác mà Đuyrinh thực hiện lại được một số thành viên
của đảng xã hội dân chủ Đức vừa mới thành lập đồng tình ủng hộ, thậm chí có
những người đã chuẩn bị truyền bá những tác phẩm đó. Trước tình hình đó
Ăngghen đã tiến hành phê phán học thuyết của Đuyrinh nhằm ngăn chặn
khuynh hướng chia rẽ trong Đảng và bảo vệ chủ nghĩa Mác. Ăngghen đã phê
phán tất cả các lĩnh vực mà Đuyrinh đặt ra, đồng thời trình bày và phát triển
những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác. Như vậy, do nhu cầu tất yếu của
phong trào cộng sản, một tác phẩm dưới hình thức bút chiến và bách khoa về
nội dung đã ra đời. Nội dung trong tác phẩm bao gồm cả những tư tưởng về
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị
học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong tác phẩm này Ăngghen đã trình bày
những vấn đề quan trọng nhất của triết học, của khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội.

1



2

2. Kết cấu và tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen in trong C.Mác và
Ph.Ăngghen, tồn tập, tập 20, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1994,
từ 15 đến trang 450 , gồm lời tựa cho ba lần xuất bản I, II, III, lời mở đầu:I.
nhận xét chung. II. Ông Đuyrinh hứa những gì và 3 phần chính, trình bày ba
bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Phần thứ nhất: Triết học từ chương III đến chương thứ XIV (từ trang
53 đến trang 206). Thông qua phê phán các quan điểm của Đuyrinh về không
gian, thời gian, thiên thể học, vật lý học, hóa học, giới hữu cơ, Ph.Ăngghen đã
trình bày những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ph.Ăngghen
cũng tập trung bàn về các vấn đề về đạo đức, pháp quyền phê phán quan điểm
của Đuyrinh về “Chân lý vĩnh cửu” đồng thời trình bày các quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật.
Phần thứ hai: Kinh tế chính trị học, gồm 10 chương (từ trang 207 đến
trang 355), riêng chương thứ X về lịch Kinh tế chính trị do C.Mác viết.
Phần thứ ba: Chủ nghĩa xã hội, gồm 5 chương (từ trang 356 đến trang
450).
Tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen không những đã phê
phán một cách sâu sắc những quan điểm sai lầm của ông Đuyrinh mà cịn góp
phần đập tan các quan điểm sai trái của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, duy vật
sinh học. đồng thời trong tác phẩm này, Ăngghen đã trình bày một cách có hệ
thống quan điểm Triết học, Kinh tế chính trị học, và Chủ nghĩa xã hội khoa
học của C.Mác. Lo sợ trước ảnh hưởng to lớn của tác phẩm này, Nhà nước
Đức đã phải ban hành đạo luật đặc biệt để ngăn chặn việc xuất bản và truyền
bá cuốn sách “Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen vào phong trào công nhân
thế giới, đồng thời cấm lưu hành ở Đức.


2


3
3. Nội dung cơ bản về Triết học của tác phẩm
Thứ nhất, vấn đề thế giới quan duy vật.
Khẳng định lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ph.Ăngghen
đã phê phán Đuyrinh: “Ơng Đuyrinh nói lên những ngun lý rút ra từ tư
duy, chứ không phải từ thế giới bên ngồi, đến những ngun lý hình thức
phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và lồi người, do đó, giới tự nhiên và
loài người phải phù hợp với chúng”1. Phê phán quan điểm duy tâm của
Đuyrinh về vấn đề cơ bản của triết học, Ph.Ăngghen viết: “Không phải là giới
tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên
lý chỉ đúng trong chừng mực chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử. Đó
là quan điểm duy vật duy nhất đối với sự vật, cịn quan điểm của ơng Đuyrinh
chống lại quan điểm ấy là quan điểm duy tâm, là quan điểm hoàn toàn đặt
lộn ngược mối quan hệ hiện thực và cấu tạo thế giới hiện thực từ tư duy, từ
những đồ thức, từ những phương án hay những phạm trù tồn tại vĩnh cửu ở
đâu đó trước khi có thế giới, hoàn toàn theo kiểu của… một Hêghen nào đó”2.
Từ đó Ph.Ăngghen chỉ ra rằng nhận thức của con người về vũ trụ không phải
được rút ra từ những bộ óc mà từ thế giới hiện thực, nhận thức của con người
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của chúng ta.
Nói về phạm trù tồn tại, Đuyrinh cho rằng: “Khi chúng ta nói đến tồn
tại và chỉ nói đến tồn tại thơi thì tính thống nhất chỉ có thể bao hàm ở chỗ: tất
cả những đối tượng mà chúng ta nói đến, đều có, đều tồn tại. Chúng được tư
duy tập hợp lại trong thể thống nhất của tồn tại ấy, chứ không phải trong thể
thống nhất nào khác”3. Ph.Ăngghen đã phê phán quan điểm duy tâm trên của
Đuyrinh và khẳng định: “Tính thống nhất của thế giới không phải là ở sự tồn
tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi

thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã…
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb, CTQG, H.1994, t20, tr. 54.
2 Sđd, t 20, tr. 54.
3 Sđd, t 20, tr. 66.

3


4
Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật
chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm
trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và
khoa học tự nhiên”4.
Theo Ph.Ăngghen vận động phải được hiểu trước hết như một phương
thức tồn tại của vật chất. Vật chất và vận động không tách rời nhau, bởi vì vận
động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của vật chất. Không ở đâu
và nơi nào lại có vật chất khơng vận động. Bất cứ sự vật hiện tượng nào dù
trong tự nhiên hay trong xã hội, là vật thể lớn như các ngôi sao, thiên hà, siêu
thiên hà,…hay vật thể nhỏ như các hạt cơ bản, dù thuộc giới vô sinh hay hữu
sinh cũng đều tồn tại trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng. Vật
chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua sự vận động mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Do đó muốn nhận thức được sự vật phải nhận thức
nó trong q trình vận động.
Vận động của vật chất là Sự tác động qua lại giữa các yếu tố, bộ phận
khác nhau của thực thể vật chất hay giữa các sự vật. Chứ không phải như
Đuyrinh quy vận động thành lực cơ giới và coi đó dường như là hình thức cơ
bản của vận động.
Ph.Ăngghen cũng khái quát các hình thức vận động trong thế giới, bao
gồm năm hình thức vận động cơ bản là: vận động cơ học, vận động vật lý,
vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Tất cả những hình

thức vận động đó khơng phải tách rời, mà liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau, trong
khơng gian và thời gian. Ph.Ăngghen viết: “Vận động trong không gian vũ
trụ, vận động cơ học của những khối nhỏ hơn trên mỗi thiên thể riêng biệt,
dao động phân tử dưới hình thức nhiệt, hay dưới hình thức dịng điện hoặc
dịng từ, phân giải hóa học và hóa hợp hóa học, đời sống hữu cơ - đó là
những hình thức vận động mà mỗi một nguyên tử vật chất riêng biệt trong vũ
trụ, trong mỗi lúc nhất định, đều nắm dưới một hình thức vận động hay dưới
4 Sđd, t 20, tr. 67.

4


5
nhiều hình thức vận động cùng một lúc” 5. Sự tồn tại của các hình thức vận
động, tuân thủ các ngun tắc đó là: các hình thức vận động khơng tác rời
nhau mà chúng có quan hệ hữu cơ với nhau, các hình thức vận động cao bao
giờ cũng nảy sinh từ các hình thức vận động thấp, trong các hình thức vận
động cao các hình thức vận động thấp khơng bị triệt tiêu, hình thức vận động
cao bao giờ cũng bao hàm các hình thức vận động thấp; ở mỗi sự vật có thể
cùng tồn tại nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng sự vật nào cũng chỉ
có một hình thức vận động đặc trưng, thường là hình thức vận động cao nhất
của sự vật.Bên cạnh đó Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ vật chất tồn tại gắn liền với
không gian và thời gian: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian
và thời gian; tồn tại ngồi thời gian thì cũng hết sức vơ lý như tồn tại ở ngồi
khơng gian”6. Từ đó mà chúng ta rút ra nguyên lý thế giới quan duy vật triệt
để là: Thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động, và vật chất vận
động trong không gian và thời gian.
Thứ hai, tư tưởng về phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng theo quan niệm của Ph.Ăngghen, chính là công cụ để
nhận thức giới tự nhiên và lịch sử. Từ trong giới tự nhiên và lịch sử, mà tư

duy biện chứng hình thành và phát triển. Ph.Ăngghen khẳng định: “Giới tự
nhiên là hòn đá thử vàng đối với phép biện chứng, và cần phải nói rằng khoa
học tự nhiên hiện đại đã cung cấp cho sự thử nghiệm ấy những vật hết sức
phong phú và mỗi ngày một tăng thêm, và do đó đã chứng minh rằng trong tự
nhiên, rút cục lại, mọi cái đều diễn ra một cách biện chứng chứ khơng phải
siêu hình”7.
Trong tác phẩm chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen cũng nêu ra định nghĩa
kinh điển về phép biện chứng: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên,
5 Sđd, t 20, tr. 89.
6 Sđd, t 20, tr. 78.
7 Sđd, t 20, tr. 38 -39.

5


6
của xã hội loài người và của tư duy” 8. Với định nghĩa đó, phép biện chứng là
hình thức cao nhất của tư duy khoa học theo quan niệm của Ph.Ăngghen.
Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình, vì “Đối với những nhà siêu hình
thì những sự vật và phản ánh của chúng trong tư duy, tức là những khái niệm,
đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn,
phải được xem xét cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia” 9. Như vậy,
phép biện chứng duy vật là khoa học của phương pháp nhận thức, phương
pháp tư duy, nó xem xét sự vật hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, trong tính hệ thống, trong q trình vận động theo khuynh hướng
tiến lên. Đó là bản chất của phép biện chứng duy vật. Đồng thời Ph.Ăngghen
cũng khẳng định sự khác biệt giữa phép biện chứng của triết học Mác với
phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, Ơng viết: “Có thể nói rằng hầu
như chỉ có Mác và tơi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát

khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự
nhiên và về lịch sử”10. Điều đó có nghĩa rằng, phép biện chứng không phải
được rút ra từ tư duy chủ quan của con người, khơng có mối liên hệ nào với
thực tại khách quan, mà ngược lại là sự phản ánh của giới tự nhiên và lịch sử
vào trong tư duy của con người. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Không thể đưa những
quy luật biện chứng từ bên ngoài vào giới tự nhiên, mà là phát hiện ra chúng
từ trong giới tự nhiên và rút chúng ra từ giới tự nhiên”11.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã trình bày tư tưởng
biện chứng của thế giới tự nhiên thông qua sự phát triển của khoa học tự
nhiên của lịch sử xã hội và kinh tế chính trị. Sự phát triển của tư duy phản ánh
thế giới khách quan được Ph.Ăngghen trình bày trong hệ thống các quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nói về quy luật thống nhất và đấu tranh
8 Sđd, t 20, tr. 201.
9 Sđd, t 20, tr. 36.
10 Sđd, t 20, tr. 22.
11 Sđd, t 20, tr. 25.

6


7
của các mặt đối lập, Ph.Ăngghen đã chứng minh tính khách quan và tính phổ
biến của mâu thuẫn với ý nghĩa là quy luật tồn tại trong bản thân sự vật hiện
tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, trong mọi quá trình phát
triển của mỗi sự vật hiện tượng. Ph.Ăngghen cho rằng: “…Bản thân sự vận
động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một cách máy móc và giản
đơn sở dĩ có thể thực hiện được, cũng chỉ là vì một vật trong cùng một lúc
vừa ở nơi này vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ lại vừa không ở chỗ đó” 12.
Sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong chính bản thân sự vật và các q
trình, khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng khơng còn nữa và cái chết xảy

đến. Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng với tư duy biện chứng thì việc nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc động lực của sự phát triển.
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại đã được Ph.Ăngghen làm rõ thông qua sự phát triển của khoa học
và trong đời sống xã hội. Bản chất của quy luật chính là mối quan hệ biện
chứng giữa chất và lượng trong thế giới khách quan. Lượng biến đổi để dẫn
tới chuyển hóa về chất, chất mới ra đời có tác động trở lại sự thay đổi về
lượng. Quá trình này liên tục diễn ra tạo thành khuynh hướng của sự vận động
phát triển của sự vật hiện tượng vừa tuần tự vừa nhảy vọt trong thế giới và
hình thành nên một trong những quy luật phổ biến chi phối sự vận động phát
triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Ph.Ăngghen đã
khẳng định: “Vô số trường hợp thay đổi về lượng làm cho chất của sự vật
biến đổi, cũng như thay đổi về chất làm cho lượng của sự vật biến đổi…
Chúng ta có thể kể ra một việc này chẳng hạn: sự hợp tác của nhiều cá nhân,
sự dung hợp của nhiều sức thành một hợp sức, sẽ tạo ra, nói theo lối nói của
Mác, một sức mới nào đó, căn bản khác với tổng số những sức cá biệt hợp
thành nó”13.

12 Sđd, t 20, tr..172 - 173.
13 Sđd, t 20, tr. 181.

7


8
Về quy luật thứ ba của phép biện chứng -- Quy luật phủ định của phủ
định , Ph.Ăngghen cũng rất chú ý chỉ ra tính khách quan và phổ biến của nó
trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Ph.Ăngghen viết: “Vậy, phủ
định cái phủ định là gì ? là một quy luật vơ cùng phổ biến và chính vì vậy mà
có một tầm quan trọng và có một tác dụng vơ cùng to lớn về sự phát triển của

tự nhiên, của lịch sử và của tư duy; một quy luật, như ta đã thấy, biểu hiện
trong giới động vật và thực vật, trong địa chất học, tốn học, lịch sử, triết
học”14. Như vậy, đây khơng phải là một quy luật đặc thù, mà nó tồn tại và
phát triển trong mọi lĩnh vực của thế giới khách quan và tư duy của con
người. Chính quy luật phủ định của phủ định đã chỉ ra khuynh hướng của sự
phát triển, sau mỗi lần phủ định của phủ định sự vật ngày càng hoàn thiện
hơn. Bản chất của quy luật phủ định của phủ định theo Ph.Ăngghen, là ở chỗ
cái mới dường như trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Với ví dụ về sự
phát triển của hạt lúa mì, Ph.Ăngghen minh họa sự tác động của quy luật này
trong lĩnh vực thế giới hữu cơ, cũng như trong các ngành hóa học, địa chất
học, tốn học, triết học và cả lịch sử xã hội nữa, sự thay thế các chế độ sở hữu
trong lịch sử xã hội lồi người từ chế độ cơng hữu sang chế độ tư hữu và cuối
cùng lại trở về chế độ cơng hữu nhưng trên cơ sở cao hơn, đó chính là q
trình phủ định của phủ định. Trong tác phẩm này, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra sự
khác nhau cơ bản giữa phủ định biện chứng và phủ định siêu hình: “Phủ định
trong phép biện chứng khơng phải chỉ có nghĩa là nói: khơng, hoặc giả tun
bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào
đó…”15, mà phủ định biện chứng là sự phủ định gắn liền với sự phát triển, là
sự kế thừa lịch sử của cái mới đối với cái cũ. Có thể khái qt rằng trong
“Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã trình bày tư tưởng về phép biện chứng khá
toàn diện, nhất là về ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Thứ ba, một số vấn đề về nhận thức luận trong tác phẩm.
14 Sđd, t 20, tr. 200.
15 Sđd, t 20, tr. 200.

8


9
Trong tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã làm sáng tỏ vấn đề về bản chất

của tư duy, về khả năng nhận thức chân lý, tính cụ thể của chân lý… theo
quan điểm duy vật biện chứng. Ông chỉ rõ tư duy của con người không phải là
nhận thức chân lý tuyệt đối như quan niệm của Đuyrinh, mà là sự phản ánh
của thế giới khách quan vào trong bộ não của con người, hơn nữa tư duy là
thuộc tính của bộ não người nên nó mang tính lịch sử xã hội phụ thuộc vào
trình độ phát triển cụ thể của lồi người.
Ph.Ăngghen khẳng định, tư duy của con người là một quá trình vừa
tương đối vừa tuyệt đối, Ph.Ăngghen viết “…tư duy của con người vừa là tối
cao vừa là không tối cao, và khả năng nhận thức của con người vừa là vơ
hạn, vừa là có hạn. Tối cao và vơ hạn là xét theo bản tính, sứ mệnh khả năng
và mục đích lịch sử cuối cùng; khơng tối cao và có hạn là xét theo sự thực
hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định” 16. Mâu thuẫn này,
theo Ph.Ăngghen chỉ có thể giải quyết được bằng q trình tiến lên vơ tận của
các thế hệ lồi người mà thơi.
Trên cơ sở đó, Ph.Ăngghen phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
chân lý và sai lầm, chân lý tương đối và tuyệt đối. Về vấn đề biện chứng giữa
chân lý và sai lầm, Ph.Ăngghen khẳng định “Chân lý và sai lầm, cũng giống
như tất cả những tính quy định của tư duy đang vận động trong những mặt
đối lập hồn tồn, chỉ có giá trị tuyệt đối trong một phạm vi cực kỳ hạn
chế”17. Với những chứng minh trong khoa học tự nhiên và trong lịch sử,
Ph.Ăngghen đã bác bỏ quan điểm của Đuyrinh về những chân lý bất biến và
tuyệt đối cuối cùng. Ph.Ăngghen nhấn mạnh đến đặc trưng tương đối của
nhận thức: “Còn kẻ nào đem vận dụng tiêu chuẩn của một chân lý thật sự,
bất biến, tuyệt đỉnh cuối cùng, vào những tri thức do chính bản chất của
chúng mà hoặc vẫn phải mang tính chất tương đối đối với một chuỗi dài
những thế hệ và phải được hoàn thiện dần từng mảnh một, hoặc thậm chí 16 Sđd, t 20, tr. 127.
17 Sđd, t 20, tr. 131.

9



10
như trong thiên thể học, địa chất học, lịch sử nhân loại - phải mãi mãi là
thiếu sót và khơng hồn thiện chỉ vì một lý do là thiếu tài liệu lịch sử, - thì kẻ
đó chỉ chứng tỏ sự ngu dốt và thiếu hiểu biết của bản thân ” 18. Như vậy, theo
Ph.Ăngghen nhận thức của con người là vơ hạn xét theo bản tính của nó,
nhưng lại là có hạn trong mỗi giai đoạn lịch sử và đối với mỗi con người cụ
thể.
Đuyrinh cho rằng việc phát hiện ra “cái chân lý vĩnh cửu” là nhiệm vụ
chính của nhận thức cịn Ph.Ăngghen chỉ ra rằng đó là những chân lý của sự
kiện, trong thực tế, các khoa học khác nhau, các chân lý vĩnh cửu không phải
là mục đích chính của nhận thứcvà cũng khơng thể làm được điều đó.
Ph.Ăngghen viết: “Nếu nhân loại đạt tới chỗ chỉ vận dụng toàn những chân
lý vĩnh cửu, những kết quả của tư duy có giá trị tối cao và có quyền tuyệt đối
nắm chân lý, thì điều đó có nghĩa là nhân loại đã tới một điểm mà tính vơ tận
của tri thức đã cùng kiệt xét về mặt hiện thực cũng như về mặt tiềm năng, và
như thế là đã thực hiện được cái điều thần kỳ nổi tiếng là đếm được sự hằng
hà vô số”19. Theo Ph.Ăngghen chân lý khơng phải là bất biến, vĩnh viễn mà
nó là một quá trình nhận thức từ thấp đến cao, phụ thuộc vào nhiều mối quan
hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức, tuyệt đối hóa tính tuyệt đối, tính vĩnh
cửu của chân lý như Đuyrinh thì chỉ dẫn đến chủ nghĩa duy tâm và siêu hình
về nhận thức. Ph.Ăngghen cũng chỉ ra tính lịch sử của chân lý cũng như quan
hệ đạo đức: “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại
khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng
thường trái ngược nhau”20. Như vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định những
nguyên lý cơ bản của quá trình nhận thức trên lập trường duy vật biện chứng,
đối lập với chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình của Đuyrinh.
Thứ tư, tư tưởng duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội.
18 Sđd, t 20, tr. 131.
19 Sđd, t 20, tr. 125.

20 Sđd, t 20, tr. 135.

10


11
Đây là một trong những nội dung quan trọng đã được Ph.Ăngghen đề
cập trong tác phẩm này. Ph.Ăngghen khẳng định, điều kiện kinh tế xã hội, sự
phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ sở hữu là những cơ sở có ý nghĩa
quyết định trong việc hình thành các giai cấp trong xã hội chứ không phải là
bạo lực và chiến tranh là cơ sở để hình thành các giai cấp trong xã hội như
quan điểm của Đuyrinh, bạo lực và chiến tranh chỉ là nhưng điều kiện góp
phần thúc đẩy sự hình thành nên các giai cấp nhanh hơn mà thơi. Ngun
nhân sâu xa của sự hình thành giai cấp là sự phát triển của lực lượng sản xuất
cịn ngun nhân trực tiếp chính là sự xuất hiện chế độ chiếm hũu tư nhân về
tư liệu sản xuất, Ph.Ăngghen viết “…những cuộc xung đột không chỉ giữa
những giai cấp do đại cơng nghiệp sinh ra, mà cịn giữa lực lượng sản xuất
và những phương thức trao đổi do nó tạo ra nữa - và mặt khác, đại cơng
nghiệp ấy, thơng qua sự phát triển lớn lao của chính lực lượng sản xuất ấy,
cũng cung cấp những phương tiện để giải quyết những xung đột đó”21.
Ph.Ăngghen phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanhximông,
Phuriê, mặc dù ý tưởng của các ông là tốt đẹp nhưng không dựa trên những
tiền đềtất yếu của điều kiện kinh tế xã hội. ý thức về xã hội, lịch sử, pháp
quyền chỉ có thể có được trên cơ sở tồn tại xã hội. Từ đó, Ph.Ăngghen bác bỏ
quan niệm của Đuyrinh về chân lý đạo đức và pháp quyền vĩnh cửu vượt qua
mọi giai đoạn lịch sử của mỗi dân tộc và thời đại khác nhau. Ngược lại, tư
tưởng về đạo đức và pháp quyền chỉ có thể dựa trên những quan hệ về kinh tế,
xã hội và giai cấp nhất định trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
Để nhận thức và vận dụng quy luật vào đời sống xã hội, Ph.Ăngghen đã
nêu lên quan niệm về tất yếu và tự do: “Tự do không phải ở sự độc lập tưởng

tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được những
quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc những
quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định…
Như vậy, tự do của ý chí khơng phải là cái gì khác hơn là cái năng lực quyết
21 Sđd, t 20, tr. 358.

11


12
định một cách hiểu biết cơng việc. Do đó, sự phán đoán của một người về một
vấn đề nhất định, càng tự do bao nhiêu thì nội dung của sự phán đốn đó sẽ
được quyết định với một tính tất yếu càng lớn bấy nhiêu”22.
Trong tác phẩm này, Ph.Ăngghen cũng đánh giá sự phát triển của triết
học trong lịch sử, từ triết học cổ đại tới chủ nghĩa duy vật hiện đại. Đó là q
trình liên hệ thống nhất giữa triết học và khoa học. Triết học ra đời từ thời cổ
đại, từ đó đến nay triết học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau.
Trong quá trình phát triển đó, đối tượng của triết học cũng thay đổi theo từng
giai đoạn lịc sử. Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia gữa lao động
chân tay và lao động trí óc, tri thức của lồi người cịn rất ít, chưa có sự phân
chia gữa triết học với các khoa học khác thành các khoa học độc lập. Lúc đó
đối tượng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây cũng là
nguyên nhân sâu xa để về sau dẫn đến quan niệm cho rằng: “Triết học là khoa
cuả mọi khoa học”. Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ,
đặt nền móng cho sự phát triển về sau khơng chỉ đối với triết học mà còn cả
đối với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nữa. Đến thời trung cổ ở Tây
Âu, do sự thống trị của Giáo hội thiên chúa giáo trên mọi mặt của đời sống xã
hội, triết học trở thành bộ môn của thần học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là
lý giải và chứng minh cho tính đúng đắn của các nội dung trong kinh thánh,
đó là thứ triết học kinh viện. Trong khuôn khổ chật hẹp của đêm dài trung cổ,

triết học phát triển rất chậm chạp. Vào thế kỷ XV - XVI, khi trong lòng xã hội
phong kiến các nước Tây Âu xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, khoa học tự nhiên phát triển. Khi đó triết học duy vật phát triển gắn
liền với yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự
phát triển của khoa học tự nhiên. Đặc biệt, đến thế kỷ XVII - XVIII khi cách
mạng tư sản nổ ra ở nhiều nước Tây Âu, khi khoa học tự nhiên diễn ra quá
trình phân ngành sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu sâu sắc, triết học duy
vật phát triển mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn
22 Sđd, t 20, tr. 163 - 164.

12


13
giáo, ở thời kỳ này mặc dù khoa học tự nhiên đã hình thành các bộ mơn khoa
học độc lập nhưng triết học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, chưa xác định
rõ đối tượng nghiên cứu của mình. Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX,
triết học Đức phát triển mạnh mẽ nhưng trên lập trường duy tâm mà đỉnh cao
là triết học Hêghen. Hêghen xem triết học của mình là một hệ thống phổ biến
của tri thức khoa học, mà trong đó các ngành khoa học cụ thể chỉ là những
mắt khâu của triết học. Triết học Hêghen là hệ thống triết học cuối cùng xem
triết học là: “khoa học của mọi khoa học”.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân và sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ,
triết học Mác đã ra đời. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm: “triết học
là khoa học của mọi khoa học” và xác định đối tượng nghiên cứu của mình là
tiếp tục giải quyết mối quan hệ giũa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật
biện chứng, nghiên cứu những quy luật chung của tự nhiên xã hội và tư duy,
tù đó định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ. Đánh giá

về sự phát triển của triết học trong lịch sử, Ph.Ăngghen viết: “Nói chung, đây
khơng cịn là một triết học nữa, mà là một thế giới quan, nó khơng cần phải
được chứng thực và biểu hiện thành một khoa học đặc biệt nào đó của các
khoa học, mà được chứng thực và biểu hiện trong các khoa học hiện thực”23
Cùng với tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" và "L.Phoiơbắc sự
cáo chung của Triết học cổ điển Đức", tác phẩm “Chống Đuyrinh" của
Ph.Ăngghen là một trong ba tác phẩm gối đầu giường của người cơng nhân có
tri thức. Tác phẩm này có thể coi là từ điển triết học của chủ nghĩa Mác. Với
tác phẩm này, Ph.Ăngghen trình bày có tính chất tổng kết tồn diện sự phát
triển của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Ph.Ăngghen trình
bày một cách hồn chỉnh thế giới quan duy vật MácXít về chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khoa kinh tế chính trị và chủ nghĩa
23 Sđd, t 20, tr. 197.

13


14
xã hội khoa học. Ông chỉ ra sự liên hệ không tách rời và phụ thuộc lẫn nhau
giữa ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.
Dưới hình thức bút chiến, Ph.Ăngghen đã kiên quyết đấu tranh vạch
trần những sai lầm của Đuyrinh và những người theo chủ nghĩa Đuyrinh,
góp phần bảo vệ chân lý khoa học, cách mạng của triết học Mác nói riêng,
chủ nghĩa Mác nói chung, đưa học thuyết Mác xâm nhập vào phong trào
công nhân.
Tác phẩm của Ph.Ăngghen đã đưa ra hàng trăm thứ tiếng trên thế giới,
hàng triệu người đã được đọc và tiếp nhận nội dung tư tưởng của Ph.Ăngghen
trình bày trong tác phẩm - Chủ nghĩa Mác, thế giới quan và phương pháp luận
khoa học đã giúp họ nhìn nhận giải thích đúng đắn các vấn đề lý luận và thực
tiễn đặt ra. Ngày nay, có một số luận điểm Ph.Ăngghen trình bày trong tác

phẩm có thể khơng cịn phù hợp, song giá trị khoa học của phép biện chứng
duy vật và tư tưởng nhân văn, nhân đạo của chủ nghĩa Mác trình bày trong tác
phẩm thì sống mãi, nó là giá trị vĩnh hằng, sống mãi theo thời gian, đã và
đang là hành trang của nhiều thế hệ trong nhận thức và cải tạo thế giới.

14



×