Triết học cổ điển Đức
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC...............2
1. Khái niệm ...................................................................................................................2
2. Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học và đặc điểm của triết học cổ điển Đức...........2
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học....................................................................2
2.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức....................................................................3
II. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN
ĐỨC ..........................................................................................................5
1. Hêghen .......................................................................................................................5
1.1 Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen................................................................5
1.2 Quan niệm về thế giới..........................................................................................6
1.3 Quan điểm về nhận thức .....................................................................................8
1.4 Quan điểm về con người và chính trị xã hội......................................................8
2. Lutvích Phoiơbắc (1804-1872)................................................................................10
2.1 Sự phê phán triết học Hêghen............................................................................11
2.2 Quan niệm về thế giới........................................................................................11
2.3 Quan niệm về nhận thức....................................................................................12
2.4 Quan niệm về con người....................................................................................13
2.5 Quan niệm về xã hội...........................................................................................13
III. ĐÁNH GIÁ VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC.............................14
CHTM6B 2011-2013
1
Triết học cổ điển Đức
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1. Khái niệm
“Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của
nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu
từ hệ thống triết học của Cantơ trải qua Phíchtơ, Sêlinh đến triết học duy
tâm của Hêghen và triết học duy vật của Phoiơbắc.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học và đặc điểm của triết
học cổ điển Đức
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc
biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn cịn là một
quốc gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một
liên bang Đức chỉ cịn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ
cơng nghiệp, cơng nghiệp, nơng nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phổ
Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ,
cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước
bao trùm bầu khơng khí bất bình của đơng đảo quần chúng.
Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở
nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu
Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của
các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản
Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư
sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương
quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính
trị nên khơng thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến
hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với tầng
CHTM6B 2011-2013
2
Triết học cổ điển Đức
lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải
quyết những vấn đề phát triển đất nước.
Trước địi hỏi của q trình phát triển phương thức sản xuất tư bản
ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát
hiện ra điện, phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát
hiện ra tế bào của Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và
Sielo... Những thành tựu đó chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực
tiễn xã hội đang diễn ra. Nó địi hỏi cần có cách nhìn mới, phương pháp
mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con người. Triết học cổ
điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
2.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là
một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề
triết học. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt
động của chính mình; tư duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát
triển trong q trình con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức
xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập
với phương pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc
phát hiện ra những quy luật và phạm trù của Hêghen đã làm cho phép
biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa cách mạng
trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ điển Đức.
Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có
tham vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm
nền tảng cho thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa
học của các khoa học. Do vậy, trong học thuyết triết học của Cantơ,
CHTM6B 2011-2013
3
Triết học cổ điển Đức
Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên,
pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.
Tuy lac hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đạt được
sự phát triển chưa từng có về triết học,văn hố nghệ thuật . Gần đây cần
có cách nhìn mới về hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại,
cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt động của con người.Và triết
học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng với sứ mạng lịch sử đó của khơng
chỉ riêng nước Đức ,mà cả phương Tây nói chung cho nên nó có những
đặc điểm chính sau :
Thứ nhất đây là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức
cuối thế kỷ 18- nửa đầu thế kỷ 19. Hầu hết các đại biểu như Cantơ,
Hêghen ..., đều xuất thân từ những tầng lớp thượng lưu trong xã hội.
Nhận thấy sự trì trệ của xã hội Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ của
giai cấp tư sản nhiều nước nhất là cách mạng tư sản Pháp (1789-1794), họ
thể hiện nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản đấu tranh vỡ một trật tự
xó hội mới ở Đức,nhằm đem lại sự thịnh vượng phồn vinh và thống nhất
cho đất nước. Và nói chung trong thế giới quan của cỏc nhà triết học cổ
điển Đức thể hiện khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng và khoa học về
tư tưởng với sự bảo thủ, cải lương về lập trường chính trị- xã hội.
Thứ hai là đặc biệt đề cao vai trị tích cực của hoạt động con người,
thực hiện bước ngoặt trong lịch sử trong lịch sử triết học phương Tây từ
chỗ chủ yếu bàn về những vấn đề bản thể luận...đến chỗ coi con người
như một chủ thể hoạt động là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề
triết học.
Thứ ba, triết học cổ điển Đức là một cách nhìn biện chứng về thế
giới hiện thực. Các nhà triết học cổ điển Đức, những tư tưởng biện chứng
trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện
chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu
các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Triết học cổ điển Đức đã đưa lại cho
CHTM6B 2011-2013
4
Triết học cổ điển Đức
chúng ta phương pháp tư duy biện chứng, một phương pháp tư duy mà
sau này, khi được Cac.Mac và Ăngghen cải tạo trở thành "linh hồn của
chủ nghĩa Mác"
Thứ tư, với cách nhìn biện chứng bao quát toàn bộ hiện thực nhiều
nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hố tồn bộ những tri thức và
thành tựu mà nhân loại đạt được từ trước tới giờ.Tiếp thu những tinh hoa
của siêu hình học thế kỷ17 trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ
thống hóa tồn bộ tri thức con người, các triết học từ Cantơ tới Hêghen
đều có ý xây dựng một hệ thống triết học vạn năng của mình làm nền
tảng cho tồn bộ thế giới quan con người, khơi phục lại quan niệm coi
triết học là khoa học của mọi khoa học.
II. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU CỦA TRIẾT HỌC CỔ
ĐIỂN ĐỨC
1. Hêghen
Heghen sinh năm (1770 -1831) ở Stuttgart là con một cơng chức
cao cấp. Hồi cịn trẻ theo học trường đại học Tubingue. Sau khi tốt nghiệp
ông làm giáo sư dạy tư trong các gia đình, làm hiệu trưởng trường trung
học Nuremberg, rồi làm giáo sư trường đại học Heldeberg. Trong q
trình giảng dạy ơng để nhiều thời gian nghiên cứu và viết các tác phẩm
triết học như: “Hiện tượng học tinh thần” (1807), “Khoa học logic”
(1812-1814), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” (1817), ...
Hêghen là một nhà biện chứng lỗi lạc, nội dung triết học bao quát nhiều
lĩnh vực. Do vậy chúng ta khơng thể có điều kiện nghiên cứu tất cả mà
chỉ nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu sau:
1.1 Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen
Hệ thống triết học của ông gồm ba phần:
CHTM6B 2011-2013
5
Triết học cổ điển Đức
Lôgic học, đây là học thuyết về các quy luật phổ biến của vận động
và phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi dạng tồn
tại. Lôgic học bao gồm ba bộ phận: Tồn tại, bản chất, khái niệm.
Triết học về tự nhiên, đây là học thuyết về sự phát triển của giới tự
nhiên dưới hình thức duy tâm. Triết học tự nhiên bao gồm cả ba bộ phận:
Thuyết máy móc, thuyết hóa học, thuyết hữu cơ.
Triết học về tinh thần, đây là học thuyết về lịch sử của con người và
sự nhận thức của con người, nguồn gốc tạo thành mọi dạng tồn tại. Phần
này được chia thành ba bộ phận: Tinh thần chủ quan, tinh thần khách
quan, tinh thần tuyệt đối.
1.2 Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới của ông được thể hiện trong tác phẩm
“Hiện tượng học tinh thần” và “Lơgic học”.
Theo Hêghen thì đầu tiên có tinh thần tuyệt đối tồn tại, bên trong
chứa đựng các mặt đối lập; hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh
với nhau làm cho nó ln vận động phát triển khi đạt tới dạng hồn thiện
thì “Tha hóa” (biến thành cái khác nó, nhưng chính là nó ở trạng thái
khác và hình thức khác) biểu hiện thành giới tự nhiên. Trong giới tự
nhiên cũng chứa đựng các mặt đối lập chúng vừa thống nhất và đấu tranh
với nhau cho nên tạo ta động lực thúc đẩy giới tự nhiên phát triển từ vô
cơ đến hữu cơ rồi đến con người. Vì trong con người chứa đựng các mặt
đối lập cho nên, ln nằm trong q trình hồn thiện, nhưng khơng phải
là hồn thiện mặt thể xác mà hoàn thiện, phát triển về mặt tinh thần ý
thức. Khi phát triển đến mức độ hoàn thiện nhất con người không những
nhận thức được thế giới tự nhiên, tự nhận thức được mình mà nhận thức
được tinh thần tuyệt đối biểu hiện qua hình thức tơn giáo, nghệ thuật, triết
học.
CHTM6B 2011-2013
6
Triết học cổ điển Đức
Ở đây điểm khởi đầu là “tinh thần” điểm kết thúc của sự phát triển
cũng là “tinh thần”, chỉ có khác lúc đầu là “tinh thần thế giới”, còn điểm
kết thúc là “tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Do đó,
triết học của Hêghen xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan.
Bởi vì, ơng thừa nhận tinh thần có trước, giới tự nhiên (vật chất) có sau
phụ thuộc và phát sinh từ tinh thần tuyệt đối.
Hêghen còn cho rằng, khi các dạng tồn tại được “tinh thần tuyệt
đối” tạo ra thì khơng ngừng biến đổi theo các ngun lý:
Một là: mỗi dạng tồn tại không những khác nhau mà cịn làm
“trung giới cho nhau” tức có liên hệ với nhau.
Hai là: Mỗi dạng tồn tại đều trải qua q trình vận động, phát triển;
q trình đó được thực hiện trên cơ sở của ba nguyên tắc:
- Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những
chuyển hóa về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và người lại.
- Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển tạo ra sự
chuyển hóa giữa nội dung với hình thức, bản chất và hiện tượng,
nguyên nhân và kết quả, khả năng và hình thức, v.v.
- Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát
triển diễn theo hình thức xốy ốc.
Những ngun lý và ngun tắc trên là nội dung chủ yếu của phép
biện chứng mà Hêghen xây dựng. Phép biện chứng này tuy có hạn chế ở
chỗ trình bày trên cơ sở của quan điểm duy tâm nhưng nó đã phản ánh
đầy đủ quá trình vận động và phát triển chúng; trong nó đã chứa đựng hạt
nhân hợp lý: khơng có cái gì nhất thành bất biến, mọi cái luôn biến đổi.
Đây là một giá trị lý luận chủ yếu của triết học Hêghen.
CHTM6B 2011-2013
7
Triết học cổ điển Đức
1.3 Quan điểm về nhận thức
Quan điểm nhận thức của Hêghen được trình bày trong tác phẩm
“Hiện tượng học tinh thần” và “Lôgic học”.
Nếu như Cantơ cho rằng đối tượng nhận thức là sự vật thì Hêghen
lại cho rằng đối tượng của nhận thức là nguyên nhân tạo thành các dạng
tồn tại tức “tinh thần tuyệt đối”. Trong “Lôgic học” ông khẳng định nhận
thức của con người là sự tự nhận thức “tính thần tuyệt đối”.
Với quan điểm biện chứng Hêghen cho rằng, nhận thức là một
q trình phát triển, tự hồn thiện; q trình này gắn với lịch sử phát triển
của xã hội. Trong thời kỳ thượng cổ con người chỉ mới có ý thức cảm
tính, người thượng cổ nhìn thế giới một cách trực tiếp. Đến giữa thời kỳ
chiếm hữu nô lệ theo ông, con người mới tự ý thức được sự tồn tại của
chính mình. Thời trung cổ, ý thức con người bước vào bất hạnh vì chỉ biết
tuân theo ý chúa. Chỉ đến thời kỳ khoa học phát triển thì khả năng trí tuệ
của con người mới đạt tới trình độ lý tính, mới mang tính xã hội. Lúc đó
con người sử dụng khái niệm để tư duy do vậy mới nhận thức được “tinh
thần tuyệt đối”.
Mặt khác ơng cịn cho rằng, sự phát triển của khả năng nhận thức
cá nhân như là sự lặp lại và thu gọn toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhận
thức con người đã trải qua.
Như vậy, Hêghen bộc lộ quan điểm có thể biết trên cơ sở thế giới
quan duy tâm.
1.4 Quan điểm về con người và chính trị xã hội
Quan điểm về con người và chính trị xã hội được Hêghen trình bày
trong tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”.
Khi bàn đến vấn đề con người, ông không giống như các nhà triết học
Anh và Pháp thế kỷ XVI - XVIII chia tách con người thành hai phần mà
ông quan niệm con người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ thể
đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình, chính qua
CHTM6B 2011-2013
8
Triết học cổ điển Đức
quá trình hoạt động mà ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do
của con người mới phát triển. Do đó, con người mới hồn thiện. Như vậy,
ở đây Hêghen khơng bàn đến con người cụ thể mà bàn đến con người trìu
tượng, lý tính phi lịch sử.
Quan niệm con người trong triết học Hêghen thường gắn với quan
điểm về nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng định mọi
người về bản tính vốn bình đẳng là khơng đúng ..., cần phải nói ngược lại
rằng con người về bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây dẫn tới quan
điểm: mọi sự bất công trong xã hội là hiện tượng tất yếu xuất phát từ bản
tính con người. Vì thế trong xã hội thường xuyên xảy ra những mẫu
thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau. Chính từ
đó nhà nước xuất hiện. Theo Hêghen, nhà nước ra đời nhằm dung hòa các
mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp nhằm định hướng sự phát triển của xã hội.
Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà là tổng thể các quy chế, kỷ
cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, văn hóa. Vì thế
nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử. Nhà nước theo ông
là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống xã hội nó có quá trình
phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự phát triển đó, vì nó là đại
biểu cho cơng lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn tại mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp
lý, thì sẽ hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”; ở đây, Hêghen đã lập
luận để bảo vệ sự tồn tại của nhà nước phong kiến Phổ.
Khi bàn đến chiến tranh, Hêghen cho rằng, chiến tranh là một hiện
tượng vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể trạng
đạo đức của dân tộc được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh
khỏi sự thối nát.
Hêghen cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và
tính chủ quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn
ra theo ý muốn chủ quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất
yếu trải qua các thời đại. Sự phát triển tự do của con người là chuẩn mực,
CHTM6B 2011-2013
9
Triết học cổ điển Đức
ưu việt của thời đại này so với thời đại khác. Nhưng ông hiểu tự do một
cách duy tâm: tự do còn thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo ý chúa.
Tóm lại, vai trị lịch sử của triết học Hêghen là ở chỗ đã xây dựng
được phép biện chứng, những vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng
hiện đại đã được ông đề cập đến một cách bao quát và sâu sắc. Vì vậy,
ông được Ph. Ăng ghen đánh giá rất cao "ông khơng chỉ là một thiên tài
sáng tạo, mà cịn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi
lĩnh vực ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại".
Đánh giá về tư tưởng triết học của Heghen
Đóng góp: Nêu ra được các phạm trù và quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy tâm ; Trình bày thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần
dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi và phát triển; đồng thời cố
gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của nó.
Hạn chế : Phép biện chứng duy tâm của Heghen là phép biện
chứng ngược đầu: Coi biện chứng của ý niệm sinh ra biện chứng của sự
vật, chứ khơng phải ngược lại. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được
cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó
2. Lutvích Phoiơbắc (1804-1872)
Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, sinh năm
1804 trong một gia đình luật sư ở Đức. Ông theo học trường đại học tổng
hợp Beclin, tham gia nhóm Hêghen trẻ. Về sau tách khỏi nhóm này trở
thành người phê phán Hêghen, xây dựng hệ thống triết học, duy vật của
mình. Ơng viết nhiều tác phẩm triết học, trong đó có những tác phẩm lớn
như: "Phê pháp triết học Hêghen" (1839); "Bản chất của đạo đức thiên
chúa", "Luận cương sơ bộ về cải cách triết học" (1842), "Những nguyên
lý của triết học tương lai" (1843), "Bản chất của tôn giáo", v.v. Học
thuyết triết học của ông thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau:
CHTM6B 2011-2013 10
Triết học cổ điển Đức
2.1 Sự phê phán triết học Hêghen
Sau khi Hêghen mất thì lực lượng kế tục có sự phân chia thành hai
phái, phái Hêghen già ủng hộ sự thống trị của "tinh thần tuyệt đối" đối
với thế giới hiện thực; phái Hêghen trẻ coi sự thống trị đó là những xiềng
xích trói buộc con người. Do chịu ảnh hưởng của các nhà duy vật Pháp
thế kỷ XVIII và sự phát triển khoa học đầu thế kỷ XIX, Phoi Ơ Bắc đã
nhận thấy những mặt rất hạn chế của cả hai phái và bắt đầu thực hiện phê
phán tồn bộ triết học Hêghen. Theo ơng, triết học Hêghen mắc sai lầm
ngay từ khởi điểm xuất phát và cả trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất với tinh thần, giữa con người với thế giới. Hạn chế cơ bản nhất
của Hêghen là ở chỗ dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm để xây
dựng học thuyết triết học. Cho nên triết học Hêghen không tạo ra được
bức tranh trung thực về thế giới. Ông cho rằng muốn xây dựng được một
học thuyết triết học đúng đắn phải dựa trên lập trường duy vật. Ông nhận
xét "Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý của thần
học".
2.2 Quan niệm về thế giới
Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại
là: tồn tại, chủ thể; tư duy, thuộc tính" Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh
những nguyên lý duy vật của mình. Ơng quan niệm, vật chất có trước, ý
thức có sau, tự nhiên tự nó tồn tại và người ta chỉ có thể giải thích tự
nhiên xuất phát từ bản thân nó. Ý thức khơng tự nó tồn tại được vì nó chỉ
là sản phẩm của một dạng vật chất.
Nếu như Cantơ quan niệm không gian và thời gian là hình thức
"tiên nhiên" thì Phoiơbắc quan niệm, khơng gian và thời gian tồn tại
khách quan, khơng có vật chất tồn tại vận động bên ngồi khơng gian và
thời gian. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên,
của quan hệ nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự
CHTM6B 2011-2013 11
Triết học cổ điển Đức
nhiên diễn ra một cách khách quan, từ đó dẫn tới sự xuất hiện của đời
sống hữu cơ, con người.
Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu
hình, coi vật chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất
vận động nhưng chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của
vận động.
2.3 Quan niệm về nhận thức
Phoiơbắc phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen ở
chỗ, coi đối tượng tư duy khơng có gì khác với bản chất của tư duy. Từ
đó ơng khẳng định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói
riêng là giới tự nhiên và con người. Ơng kêu gọi: Hãy quan sát giới tự
nhiên đi, hãy quan sát con người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn,
những bí mật của triết học. Phoi Ơ Bắc cho rằng, chủ thể nhận thức
khơng phải trìu tượng mà là con người cụ thể, con người có khả năng
nhận thức được giới tự nhiên, một người thì khơng thể nhận thức được
hoàn toàn thế giới tự nhiên, nhưng toàn bộ lồi người thơng qua các thế
hệ thì có thể nhận thức được. Con người nhận thức được thế giới trước
hết thơng qua cảm giác; "Bí quyết của sự hiểu biết trực tiếp tập trung
trong tính cảm giác".
Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận
thức cảm tính với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì
ơng khơng rút ra được kết luận rõ ràng.
Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức;
đã khẳng định, con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận
nhận thức đã bộc lộ hạn chế ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển
biện chứng của nhận thức, vai trị của hoạt động thực tiễn đối với nhận
thức. Cho nên, quan điểm nhận thức của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn
khổ của những phương pháp suy nghĩ siêu hình.
CHTM6B 2011-2013 12
Triết học cổ điển Đức
2.4 Quan niệm về con người
Phoiơbắc phê phán Hêghen đã quan niệm con người một cách trìu
tượng và thần bí coi đó như một lực lượng siêu tự nhiên; đây là một quan
niệm sai. Do vậy, theo ông phải xây dựng một quan niệm mới về con
người.
Phoiơbắc quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm
giác, biết tư duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình u thương; lịng u
thương vốn là bản chất của con người. Trong con người có sự thống nhất
giữa cơ thể với tư duy. Con người không phải là nô lệ của thượng đế hay
tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của
tự nhiên.
Thế nhưng trong xã hội con người bị kìm hãm trói buộc bởi giáo
lý tơn giáo và bởi các quy định của xã hội. Cho nên, cần phải giải phóng
con người khỏi sự ràng buộc đó; nhằm đem lại cho con người một quan
niệm mới về chính mình, tạo điều kiện để con người trở nên hạnh phúc.
Theo ông, đây cũng là nhiệm vụ của các nhà triết học.
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học
Phoiơbắc trở thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Đây là mặt tiến bộ so với các nhà trước học trước ông. Tuy nhiên ông đã
không thấy được phương diện xã hội của con người. Con người mà ông
quan niệm là con người bị tách khỏi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử.
Do vậy về lĩnh vực này ông chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan điểm
duy tâm.
2.5 Quan niệm về xã hội
Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật; còn trong
quan niệm về xã hội ơng lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ơng khẳng định
những thời kỳ lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay đổi
các hình thức tơn giáo; thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho
CHTM6B 2011-2013 13
Triết học cổ điển Đức
xã hội tiến lên. Ở đây, Phoiơbắc chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã
hội quyết định sự vận động phát triển của xã hội lồi người.
Khi bàn đến tơn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tơn giáo là sản phẩm tất
yếu của tâm lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo
thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và
điều kiện của xã hội. Chính con người đã bày đặt ra thần thánh bằng cách
trìu tượng hóa bản chất con người. Do vậy, cần thay thế tôn giáo cũ bằng
thứ tôn giáo mới không cần có thần thánh, chúa trời mà lấy tình u giữa
người với người làm nền tảng.
Những quan điểm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản vạch ra được
nguồn gốc tâm lý con người đối với tôn giáo. Tuy nhiên, ông chưa chỉ rõ
nguồn gốc thực sự của tôn giáo, chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế - xã
hội của vấn đề.
Mặc dù cịn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên
duy tâm trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về
con người nhưng Phoiơbắc đã có cơng lao trong việc khôi phục và phát
triển chủ nghĩa duy vật chống lại quan điểm duy tâm và tơn giáo; vì thế,
quan điểm duy vật của Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ
và phép biện chứng của Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết
học Mác - Lênin.
III. ĐÁNH GIÁ VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
Trước hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của
triết học duy vật thế kỷ 17, 18. Thành quả lớn nhất của nó là những tư
tưởng biện chứng đã đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép
biện chứng cổ đại Hy Lạp chưa đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ 17, 18
khơng có khả năng tạo ra.
CHTM6B 2011-2013 14
Triết học cổ điển Đức
Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học Cổ điển Đức là tính chất
duy tâm khách quan của Heegen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiobac
thì xét về thực chất chưa vượt qua đc trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ
17-18 Tây Âu.
CHTM6B 2011-2013 15