Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội. Phân tích tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ý nghĩa trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.6 KB, 24 trang )

1

1

Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội. Phân tích tính tất yếu con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ý nghĩa trong tình hình hiện nay.
Mở đầu:
Sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta đã trải qua hơn 20 năm. Toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta, đang ra sức thực hiện nghị quyết đại hội X của Đảng.
Nhìn khái quát hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chúng ta thấy
đã đạt được những thành tựu rất to lớn, đã đưa lại cho đất nước ta một sự thay
đổi cơ bản và toàn diện, làm cho thế và lực, uy tín quốc tế của nước ta tăng lên
nhiều so với trước. Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao. Tình hình văn hố xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong
cơng cuộc xố đói giảm nghèo, đời sống chính trị-xã hội ổn định quốc phòng an
ninh được tăng cường quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.
Công tác xây dựng đảng đạt một số kết quả tích cực. Tuy nhiên cơng cuộc đổi
mới của đất nước cũng gặp khơng ít những khó khăn thách thức làm trở ngại đến
con đường phát triển đất nước. Đó là tình trạng tăng trưởng kinh tế chưa tương
xứng với khả năng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hố- xã hội
chậm đổi mới nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh
vực quốc phòng an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Những mặt hạn chế
đó có nhiều nguyên nhân, trong đó tư duy của đảng trên một số lĩnh vực chậm
đổi mới, chủ trương lớn chậm làm rõ chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, xây



2

2

dựng kế hoạch chưa đồng bộ. Một bộ phận cán bộ Đảng viên còn yếu kém cả về
phẩm chất và năng lực, tinh thần trách nhiệm, có một bộ phận nhận thức con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn mơ hồ, chủ quan duy ý chí, nhận thức về sự
vận động của xã hội còn phiến diện. Một mặt chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực
thù địch, luôn tìm mọi cách chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính
vì vậy, hơn lúc nào hết việc nhận thức đúng và bảo vệ, vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác về hình thái kinh tế –xã hội là nhiệm vụ cấp bách. Với ý nghĩa đó
cần làm rõ một số nội dung:
Nội dung:
1. Học thuyết hình thái kinh tế -xã hội. Phương pháp tiếp cận khoa học
của chủ nghĩa Mác-Lênin:
1.1. Sự khác nhau về phương pháp tiếp cận lý luận hình thái kinh tế xã
hội.
Trong lịch sử tư tưởng triết học trước Mác đã có nhiều người quan tâm đến
xã hội. Chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo khi đi giải thích xã hội rơi vào quan điểm
duy tâm, chẳng hạn như tôn giáo họ cho rằng xã hội vận động và phát triển là do
thượng đế. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan, mà đại biểu đó là
Hêghen ơng cho rằng xã hội vận động phát triển là do ý niệm tuyệt đối. Còn duy
tâm chủ quan cho rằng sự vận động xã hội do chủ quan con người. Ngay cả Phoi
ơ bắc là nhà triết học duy vật triệt để về tư nhiên nhưng ông lại duy tâm về lịch
sử ông cho xã hội vận động phát triển là do tôn giáo, chỉ cần thay tơn giáo này
bằng tơn giáo khác đó là tơn giáo tình u, ơng cho rằng mọi người cứ ơm nhau
đi thì xã hội sẽ phát triển. Hoặc rơi vào quan điểm siêu hình máy móc, một số
học giả tư sản cho rằng xã hội phát triển là do khoa học kỹ thuật…chỉ đến khi
chủ nghĩa mác ra đời mới giải thích một cách đúng đắn khoa học. Nếu như quan
điểm của các nhà triết học trước Mác, giải thích xã hội và sự vận động phát triển



3

3

của xã hội từ đời sống tinh thần, hoặc từ một lực lượng bên ngồi thì Mác cho
rằng quan niệm của họ về sự phát triển của xã hội ngược với quy luật. Mác cho
rằng động lực phát triển xã hội không phải từ đời sống tinh thần mà đi từ đời
sống hiện thực của xã hội. C. Mác đã vận dụng phép biện chứng vào nghiên cứu
đời sống xã hội, xuất phát từ đời sống hiện thực của xã hội và lấy con người làm
trung tâm, để nghiên cứu và trong tất cả lĩnh vực của đời sống hàng ngày C.Mác
đã làm nổi bật vấn đề kinh tế, bằng cách là đi nghiên cứu nền sản xuất vật chất.
Trong sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sản xuất
ra chính bản thân con người. Ba q trình này khơng tách biệt với nhau, trong đó
sản xuất vật chất giữ vai trị là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, và xét
đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội. Khi nghiên cứu
các quan hệ xã hội, Mác đã làm nổi bật quan hệ sản xuất và coi đây là quan hệ cơ
bản ban đầu quyết định tất cả quan hệ khác. Lênin chỉ rõ “Mác đã xây dựng tư
tưởng căn bản đó bằng cách nào? Bằng cách là trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất
cả mọi quan hệ xã hội, ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó
là những quan hệ cơ bản đầu tiên và quyết định cả mọi quan hệ khác” 1. Thật vậy
con người ta liên hệ và tác động lẫn nhau trước hết là trong quá trình sản xuất vật
chất. Chính trên nền tảng của quan hệ sản xuất mà hình thành các quan hệ xã hội
khác. C.Mác đã phát hiện ra những mối quan hệ có tính lặp lại trong mọi xã hội,
nhờ đó tìm ra trong sự phát triển của nó. Mác coi quan hệ sản xuất là cái sườn
của cơ thể xã hội và là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác nhau giữa các
hình thái kinh tế xã hội đồng thời Mác nghiên cứu quan hệ sản xuất gắn liền kiến
trúc thượng tầng xã hội.

1 Lênin Toàn tập, tập 1.Nxb Mácxcơva 1974, tr159.


4

4

C.Mác không dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội và quan hệ sản xuất
nói chung, mà ơng đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế xã hội cụ thể đó là xã
hội tư bản chủ nghĩa và chỉ ra những yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế xã hội
với những mâu thuẫn vốn có trong lịng của nó và sự tồn tại của xã hội.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng khơng phải ngẫu nhiên
mà Mác tìm ra được điều quan trọng đó, mà đó là một kết quả của một q trình
nghiên cứu cơng phu trong tồn bộ xã hội, đặc biệt là quá trình giải phẫu xã hội
tư bản chủ nghĩa, chính trong q trình đó, Mác đã phát hiện ra những mối quan
hệ bản chất lặp đi lặp lại trong mọi xã hội. Đồng thời thấy rõ những mâu thuẫn
vốn có trong lịng của xã hội, đi từ mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, từ đó dẫn tới sự vận động biến đổi của xã hội. Với phương pháp cách
mạng khoa học đó đã chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của bọn cơ hội nhằm
mất đi tính cách mạng khoa học.
1.2. Nội dung phạm trù hình thái kinh tế xã hội.
Mác cho rằng xã hội là một chỉnh thể có hệ thống, và Mác đã đưa ra khái
niệm phạm trù hình thái kinh tế xã hội đó là: Phạm trù hình thái kinh tế xã hội là
một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiểu kiến
trúc thượng tầng tương ứng, được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Ở đây, Mác
đã chỉ ra cho chúng ta rằng, cấu trúc xã hội bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng xã hội. Trong đó lực lượng sản xuất là nền tảng
vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt thời đại kinh tế, là yếu

tố xét đến cùng qui định sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ
sản xuất là quan hệ khách quan cơ bản hình thành trong quá trình sản xuất, là
quan hệ quyết định chi phối mọi quan hệ xã hội, là tiêu chuẩn để phân biệt bản


5

5

chất xã hội ở từng giai đoạn khác nhau của lịch sử. Trong tác phẩm sự khốn cùng
của triết học, Mác đã nêu một tư tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản
xuất đối với việc thay đổi quan hệ sản xuất. Mác việt “Những quan hệ xã hội đều
gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được lực lượng sản xuất
mới lồi người thay đổi phương thức sản xuất của mình. Cái cối xay quay bằng
tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có
nhà tư bản cơng nghiệp”2. Đồng thời Mác cũng đề cập tới kiến trúc thượng tầng
xã hội, kiến trúc thượng tầng thể hiện bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội do cơ
sở hạ tầng quyết định, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối tác động trở lại
cơ sở hạ tầng. Sự tác động lẫn nhau của các yếu tố trong hình thái kinh tế xã hội,
đã hình thành hai quy luật vận động chung của xã hội, đó là quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ
tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Sự tác động của hai quy luật là động lực
thúc đẩy xã hội phát triển, trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố suy đến cùng
quyết định sự vận động phát triển của xã hội, nó vận động từ nền sản xuất xã hội,
ngồi ra cịn có các quan hệ xã hội khác như giai cấp, đấu tranh giai cấp, truyền
thống thói quen, gia đình …Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội nhấn mạnh vai
trò quyết định xét đến cùng của nhân tố kinh tế, nhưng không bao giờ coi kinh tế
là nhân tố duy nhất trong lịch sử. Ph.Ăng-ghen viết trong thư gửi J.Block ngày
21 tháng 9 năm 1890 “Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong
quá trình lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực.

Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Cịn có ai xuyên tạc luận
điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người
đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vơ nghĩa” 3.
2 C,Mác và Ph.Ăng-ghen.Tồn tập tập 4,NxbCTQG, H1995,tr187
3 C.Mác và Ph.Ăng-ghen:Toàn tập Nxb CTQG,H 1997 tập 37, tr 641,644


6

6

“Mác và tơi phần nào có lỗi trong việc là giới trẻ đôi khi coi trọng mặt kinh tế
nhiều hơn mức cần thiết. Trong khi phản bác những người chống chúng tôi,
chúng tôi đã phải nhấn mạnh nguyên lý chủ yếu mà họ bác bỏ, và không phải lúc
nào cũng tìm được thời gian, địa điểm và khả năng đánh giá đúng những nhân tố
còn lại tham gia vào sự tác động qua lại” 4. Ở đây chúng ta thấy rằng sự tác động
lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ,
mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất
của sự vận động của đời sống xã hội. Khuynh hướng sản xuất xã hội là không
ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét cho cùng bao giờ
cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là
công cụ lao động, quan hệ sản xuất mặc dù chậm biến đổi tuy nhiên đến một
mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất thì tất yếu nó phải bị thay đổi, để cho phù hợp sự
thay đổi, tuy nhiên không thể dùng sắc lệnh mà nó thay đổi được mà phải tiến
hành bằng một cuộc cách mạng. Trong các mối quan hệ biện chứng với lực
lượng sản xuất, Mác tập trung luận giải toàn diện cả ba mối quan hệ quan hệ sở
hữu, tổ chức quản lý, quan hệ phân phối. Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất là quan hệ quyết định chi phối các quan hệ khác. Mác đã nhận thấy rằng
mâu thuẫn kinh tế đó là sự đối lập giữa sở hữu và sử dụng dẫn đến mâu thuẫn về

mặt xã hội. Chính trong quá trình nhận thấy những mâu thuẫn vốn có trong lịng
xã hội tư bản mà khẳng định sẽ có một xã hội mới thay thế xã hội tư bản chủ
nghĩa, đó là chủ nghĩa cộng sản. Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản
xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp
với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ
4 C.Mác và Ph.Ăng-ghen:Toàn tập Nxb CTQG,H 1997 tập 37, tr 641,644


7

7

kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nhưng con
người không phát hiện được, cũng như mâu thuẫn đã được phát hiện mà không
được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai lầm, chủ quan.. thì tác dụng kìm
hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản
xuất. Đối với xã hội được biểu hiện mâu thuẫn giai cấp, một bên giai cấp thống
trị bóc lột, một bên giai cấp khơng có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động làm
thuê cho chúng, đến một mức độ cần phải đấu tranh để lật đổ thay thế giai cấp
thống trị bằng giai cấp tiến bộ hơn, bảo vệ lợi ích cho đơng đảo quần chúng nhân
dân lao động.
Mác không dừng lại khi tiếp cận lịch sử ở đời sống vật chất của xã hội mà
còn nghiên cứu đời sống tinh thần và chính trị, đó là kiến trúc thượng tầng. Theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì tồn bộ những quan điểm chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế
xã hội tương ứng của chúng như nhà nước đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã
hội là cái được hình thành được xây trên nền tảng của những cơ sở hạ tầng nhất
định, hợp thành kiến trúc thượng tầng xã hội. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước
là cơ quan có vai trị đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu

cho chế độ hiện tồn. Chính nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị gán được cho
xã hội hệ tư tưởng của mình. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ
ở sự đối lập quan điểm đối lập về quan điểm tư tưởng của giai cấp đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng cũng bắt nguồn từ mâu thuẫn
trong cơ sở hạ tầng. Trong kiến trúc thượng tầng của các xã hội có đối kháng giai
cấp, ngồi bộ phạn chủ yếu đóng vai trị là cơng cụ của giai cấp thống trị để bảo
vệ cơ sở kinh tế của nó, cịn có những yếu tố đối lập với bộ phận đó. Đó là
những tư tưởng, quan điểm, những tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị. Để


8

8

khắc phục những quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của đời sóng kinh tế
xã hội bằng những nguyên nhân thuộc về ý thức tư tưởng hoặc thuộc về vai trò
của nhà nước và pháp quyền, chủ nghĩa mác khẳng định : Quan hệ kinh tế, quan
hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hệ chính trị, pháp luật
và tư tưởng…Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét
đến cùng quyết định mâu thuẫn trong đời sống tinh thần, lĩnh vực tư tưởng, cuộc
đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện của những đối
kháng trong đời sống kinh tế. Mác đã khẳng định “Không thể lấy bản thân những
quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự
phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và
hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn
từ những điều kiện sinh hoạt vật chất… nếu ta không thể nhận định về một người
căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng khơng thể
nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái
lại, phải giải thích ý thức bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự

xung đột hiện có giữa lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã
hội”5. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không
chỉ sản sinh kiến trúc thượng tầng tương ứng, quy định tính chất kiến trúc
thượng tầng. Giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội về kinh tế thì nó cũng chiếm
địa vị trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay
muộn sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra. Q trình đó thực hiện
khơng chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng-xã hội này sang xã
hội khác, mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình thái xã hội. Tuy
5 C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG,H1995 t20tr 14-15


9

9

nhiên quá trình biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra hết sức phức tạp.
Nguyên nhân của quá trình đó xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Song sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi
của cơ sở hạ tầng, cịn chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, đến lượt nó mới làm
cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản. Tuy cơ sở hạ tầng, có vai
trị quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, nhưng chủ nghĩa duy vật lịch sử
cũng chỉ ra tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng và sự ảnh hưởng sự
tác động trở lại to lớn của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Toàn bộ
kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố và các lĩnh vực của nó có tính độc lập
tương đối. Sự phụ thuộc của chúng vào cơ sở hạ tầng, không trực tiếp và không
giản đơn, kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ
tầng, mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế
của xã hội. Bản thân các yếu tố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có tác
động qua lại lẫn nhau. Trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ nhà
nước, pháp luật mới có tác động to lớn tới cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác

của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tơn giáo, cũng đều có khả năng
gây ra những biến động không nhỏ tới cơ sở hạ tầng, sự tác động đó của các bộ
phận bằng nhiều hình thức khác nhau, theo cơ chế khác nhau. Tác dụng của kiến
trúc thượng tầng sẽ là tích cực khi nó tác động cùng chiều vận động của những
quy luật kinh tế khách quan. Ngược lại, nếu tác động ngược chiều với những quy
luật đó thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển, gây trở ngại thậm chí cịn làm hại cho sự
phát triển và là lực cản cho sự động phát triển của xã hội. Tuy nhiên ở mỗi chế
độ xã hội sự vận động của các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không phải bao
giờ cũng đi theo một xu hướng. Kiến trúc thượng tầng được nảy sinh trên cơ sở
hạ tầng, do hạ tầng quyết định vì vậy nó ln bảo vệ cơ sở hạ tầng hiện tồn,
chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại sự tồn tại của chế độ kinh tế


10

10

xã hội đang tồn tại. Trong bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì vai trị của nhà
nước đóng vị trí hết sức quan trọng, nó chi phối trong nhiều trường hợp, quyết
định khả năng tác động của các bộ phận khác, yếu tố đạo đức, truyền thống tập
quan thói quen… cũng có vị trí quan trọng. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa thì vai trị của nhà nước giữ vai trị đặc biệt
quan trọng. Khơng có chính quyền của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động
thì khơng thể xây dựng được cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ và tạo lập cơ
sở hạ tầng mới. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhận thức rằng không được tuyệt
đối hố nó bởi nếu tuyệt đối hố sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm, và khơng thấy
được tiến trình phát triển của lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự
sản xuất, và tái sản xuất ra đời sống xã hội là nhân tố quyết định, nếu xét đến
cùng với lịch sử nghĩa là đói với tất cả các lĩnh vực của văn hố tinh thần nói

chung, chính điều đó người ta mới thấy nhân tố kinh tế đóng vai trị quan trọng
và quyết định sự phát triển xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn
bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đã khắc phục được quan niệm trừu tượng về xã
hội, nó bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung, phi lịch sử. Học thuyết hình
thái kinh tế xã hội là cơ sở phương pháp luận của sự phân tích khoa học về xã
hội, do đó là một trong những nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung và triết học Mác- Lênin nói riêng. Cho phép chúng ta thấy động lực của
lịch sử khơng phải do một lực lượng thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn
của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy động lực của lịch sử nằm ngay trong hoạt động thực tiễn vật
chất của con người. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là quan niệm duy vật
biện chứng được cụ thể hoá trong đời sống xã hội. Đã cung cấp cho khoa học xã


11

11

hội, một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để phát hiện và tìm kiếm quy luật xã
hội. Nó cho chúng ta đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử, thâý rằng sự vận
động của xã hội tuân theo quy luật khách quan vốn có, vạch ra sự thống nhất
trong cái muôn màu muôn vẻ của các sự kiện lịch sử ở các nước khác nhau trong
các thời kỳ khác nhau. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã khắc phục được
quan điểm quy tâm, trừu tượng, vô căn cứ về xã hội. Nó bác bỏ cách mơ tả một
cách chung chung, phi lịch sử. Là cơ sở phương pháp luận của các khoa học xã
hội, là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là một trong những
nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Nó đã đem lại cho khoa học sợi
dây dẫn đường để phát hiện những mối liên hệ nhân quả. Là cơ sở khoa học để
tiếp cận đúng đắn khi giải quyết vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất
đa dạng. Ngày nay, thực tiễn lịch sử, và kiến thức về lịch sử có nhiều phát triển

và bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên những giá trị mà học thuyết hình
thái kinh tế xã hội cung cấp đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Trong tình hình hiện
nay trước những thành tựu của khoa học và công nghệ, một số nhà xã hội
phương tây đã giải thích sự tiến hoá xã hội chỉ như là sự chống chọi nhau, sự
thay thế nhau giữa các nền văn minh, công nghiệp và hậu công nghiệp. Hoặc họ
cho rằng xã hội tư bản chủ nghĩa là tột đỉnh vinh quang bởi những thành tựu kinh
tế nà nó đem lại. Những nhận thức đó là hồn tồn sai lầm họ đa chỉ coi trình độ
phát triển của khoa học cong nghệ, của lực lượng sản xuất là yếu tố duy nhất và
trực tiếp đối với mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, của con người, bỏ qua vai
trò của các quan hệ sản xuất, giai cấp, dân tộc, chế độ chính trị, đạo đức…
Tóm lại tất cả cách tiếp cận của các nhà triết học trước Mác và của các nhà
học giả tư sản và nhà xã hội học chưa có cách tiếp cận một cách khoa học, chưa
thấy rõ hết bản chất của xã hội mà chỉ có học thuyết của Mác mới có đủ luận cứ
luận chứng khoa học nó mới bao quát hết được sự phát triển của xã hội.


12

12

1.3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử- tự
nhiên.
Trong quá trình nghiên cứu của mình các nhà kinh điển Mác và Ph. Ăngghen không những chỉ ra các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế xã hội, mà cịn
xen xét xã hội trong quá trình biến đổi và phát triển không ngừng. Mác viết “Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử- tự
nhiên”6. Kế thừa những tư tưởng của Mác và Ph.Ăng-ghen, Lê nin là người
thường xuyên bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa
Mác sống động và có sức sống mãnh liệt và trường tồn. Lênin đã đấu tranh
không khoan nhượng trước sự chống phá của kẻ thù trên tất cả các nội dung.
Trong đó lý luận về học thuyết hình thái kinh tế xã hội là nội dung quan trọng.

Lênin đã chỉ ra những cơ sở và giải thích luận điểm của Mác đó là “ Chỉ có đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy nhưỡng quan
hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được những
cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là
một quá trình lịch sử- tự nhiên”7. Đây là luận điểm quan trọng của Mác khi
nghiên cứu về xã hội, những nhà tư tưởng trước Mác do quan niệm duy tâm về
lịch sử, nên họ coi sự phát triển của xã hội chỉ là sự ngẫu nhiên, hoặc là kết quả
của một lực lượng siêu nhiên nào đó, như thần thánh, chúa trời. Chủ nghĩa Mác
đã chỉ ra xã hội là một kết cấu vật chất đặc thù được hình thành trong quá trình
phát triển lâu dài của thế giới vật chát, là sản phẩm của sự tác động giữa người
với người. Nói đến xã hội là nói đến con người, và là sản phẩm cao nhất của quá
trình vận động lâu dài của thê giới vật chất. Từ thế giới vô sinh đến thế giới hữu
sinh, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao, từ vượn chuyển thành người.
6 C.Mác và Ph. Ăng-ghen;toàn tập NxbCTQG, H1993, t23, tr21
7 V.I.Lênin: Toàn tập Nxb tiến bộ Mácxcơva, 1974, t1, tr163


13

13

Như phần trình bày ở trên đã cho chúng ta thấy Mác coi lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, là những yếu tố hợp
thành không thể thiếu được của hình thái kinh tế xã hội, đồng thời ơng cũng coi
mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động của các yếu tố đó chính là
những quy luật phát triển của các hình thái kinh tế xã hội với tư cách là quá trình
lịch sử tự nhiên. Từ quá trình nghiên cứu trong xã hội tư bản và tính lặp lại của
các xã hội, sự vận động phát triển hình thái kinh tế xã hội tuân theo quy luật
khách quan vốn có. Vì sao như vậy? Vì xã hội loài người là một bộ phận đặc thù,
kết cấu vật chất cao nhất của giới tự nhiên, chính vì vậy nó phải vận động theo

quy luật khách quan vốn có của nó. Chỉ co người nào theo quan điểm quy vật
mới xác định được như vậy, các quy luật chi phối thế giới vật chất thì chi phối
giới tự nhiên. Mác viết “Xã hội dưới bất kỳ hình thái nào đều là sản phẩm của sự
tác động lẫn nhau giữa người”8. Khi nói đến con người là nói đến xã hội loài
người là sản phẩm của thế giới vật chất thống nhất vô cùng vô tận, là một bộ
phận của thế giới vật chất cho nên nó cũng có một kết cấu vật chất, cũng mang
tính chung bị chi phối bởi những quy luật chung của thế giới vật chất. Nhưng
khác với kết cấu khác của vật chất xã hội là một kết cấu vật chất đặc thù, tính đặc
thù ở chỗ, bản thân con người không phải là một thực thể vật chất đơn thuần mà
nó là một thực thể vật chất có ý thức, hoạt động của con người khơng phải để
thích nghi với hồn cảnh , mà là hoạt động có ý thức, tác động trở lại và cải tạo
hoàn cảnh, cải tạo điều kiện tự nhiên, xã hội, và cải tạo chính bản thân con
người. Chính vì vậy xã hội là một kết cấu vật chất có tính năng động nhất. Sự
vận động của xã hội cũng tuân theo những quy luật khách quan vốn có của nó.

8 C.Mác và Ph. Ăng-ghen;tồn tập NxbCTQG, H1991,t2, t540


14

14

Tuy nhiên nó cũng có tính đặc thù, nó chỉ được biểu hiện và phát huy tác dụng
qua hoạt động có ý thức của con người.
Xã hội vận động theo những quy luật, không những phụ thuộc vào ý thức, ý
chí của con người mà ngược lại cịn quyết định cả ý chí và ý thức của con người.
Lịch sử là lịch sử hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân
mình, nhưng khơng tuỳ tiện hoạt động mà nó phải tuân theo quy luật khách quan.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội được coi như một cơ thể sống tự phát triển theo
những quy luật vốn có, một cơ thể riêng biệt có những quy luật riêng về sự ra đời

của nó, về hoạt động của nó và bước chuyển lên hình thức cao hơn,tuy nhiên
khơng thể tuỳ tiện thay đổi quy luật khách quan. Con người làm ra lịch sử của
mình, họ tạo ra những quan hệ xã hội của mình, đó là xã hội. Sự thay thế kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế xã hội xã hội cộng sản nguyên thuỷ được thay thế
bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bởi xã hội
phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng chế độ xã hội tư bản chủ
nghĩa…đó là q trình tiến hoá bao hàm những bước nhảy vọt đã tạo nên sự tiến
bộ trong lịch sử loài người. Từ việc nghiên cứu quá trình vận động xã hội và
những mâu thuẫn vốn có trong lịng chế độ tư bản chủ nghĩa Mác đã đi đến kết
luận khoa học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế xã hội mới đó là hình thái
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa sự vận động phát triển của những hình thái
kinh tế xã hội vận động theo quy luật. Theo Mác, sự thay thế một hình thái kinh
tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác, thường được thực hiện
thông qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của các cuộc cách mạng đó là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, khi quan hệ sản xuất trở
thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Chính trong sự vận động phát triển đó
của xã hội chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong đó có hai quy luật cơ bản:


15

15

Một là: Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Hai là : Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng, và kiến trúc thượng
tầng
Ngoài hai quy luật trên trong xã hội còn bị chi phối bởi nhiều quy luật, như
trong xã hội có đói kháng giai cấp, tính tất yếu của đấu tranh giai cấp, quy luật
hình thành Đảng, quy luật chiến tranh…Sự vận động của hình thái kinh tế xã hội

bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì con người muốn sống, trước
hết phải được thoả mãn nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, và những nhu cầu khác. Để
thoả mãn nhu cầu đó người ta phải sản xuất, không ngừng cải tiến ra cơng cụ lao
động, chính vì vậy con người đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển không
ngừng từ thấp đến cao. Thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi
giai đoạn lịch sử, con người có quan hệ với nhau trong q trình sản xuất, những
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và do lực lượng sản xuất quyết định. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mọt
trình độ nhất định, quan hệ sản xuất khơng cịn phù hợp sẽ dẫn tới mâu thuẫn, để
giải quyết mâu thuẫn đó địi hỏi cần phải làm cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ
sản xuất thay đổi tức cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn tới sự thay đổi tồn bộ những tư
tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức…cùng với những tổ chức tương ứng với
những quan hệ ấy. Đến đây một hình thái kinh tế xã hội cao hơn đã hồn tồn
thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ,xã hội hoàn thành một bước nhảy vọt, chấm
dứt một giai đoạn trong sự phát triển của mình, bước vào giai đoạn phát triển
mới, và diễn ra tương tự tuân theo quy luật, cứ như vậy xã hội loài người phát
triển từ thấp đến cao qua các hình thái kinh tế xã hội.
Quá trình lịch sử tự nhiên thể hiện tính liên tục vừa thể hiện tính đứt đoạn.
Tính liên tục của sự phát triển xã hội được quy định bởi sự phát triển không


16

16

ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu đòi hỏi của con người là vô tận do vậy sự
phát triển của lực lượng sản xuất là tất yếu khách quan. Tính đứt đoạn trong sự
phát triển của xã hội có nhiều nguyên nhân, từ sự thay đổi về chất các quan hệ xã
hội. Trong đó sự thay đổi của quan hệ sản xuất giữ vai trị quyết định, tuy nhiên
tính liên tục và tính đứt đoạn trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội ở

mỗi giai đoạn là rất phức tạp. Trong q trình vận động cịn thể hiện tính phong
phú , nhiều hình nhiều vẻ. Được biểu hiện ở các khu vực khác nhau, lịch sử diễn
ra khác nhau. Trong cùng một thời gian nhất định, có những nước đã tiến lên một
hình thái kinh tế xã hội cao, lại có những nước cịn ở trình độ thấp. Chẳng hạn
như ở Châu Âu, hoặc Châu Mỹ, hoặc ở Châu Á cũng đều biểu hiện như vậy. Ví
dụ như: I.Ta.Li.A, Pháp, Tây Ban Nha,.. chế độ phong kiến đã bắt đầu hình thành
trong lịng chế độ chế độ chiếm hữu nô lệ. Hay như Nga, Ba Lan, Đức chế độ
phong kiến ra đời không phải từ chế độ chiếm hữu nô lệ, ở Mỹ chế độ tư bản
hình thành trong điều kiện xã hội khơng trải qua chế độ phong kiến. Đây là sự
phát triển rút ngắn bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội. Tất cả sự
phát triển tuần tự qua đủ các hình thái kinh tế xã hội và phát triển rút ngắn bỏ
qua một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội đều là quá trình lịch sử tự nhiên,
xét theo những quy luật, và những điều kiện khách quan qui định. Vì sao lại như
vậy ? Vì:
Thứ nhất :Do đặc điểm ở mỗi thời đại mỗi dân tộc và mỗi giai đoạn lịch sử
cũng rất khác nhau
Thứ hai : Sự phát triển không đều về kinh tế dẫn đến sự phát triển khơng
đều về hình thái kinh tế xã hội
Thứ ba : Do có nhận thức và vận dụng của mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi
thời đại khác nhau.


17

17

Tuy nhiên tác động qua lại các nước có chế độ và trình độ phát triển khác
nhau, đều ảnh hưởng đến sự phát triển của các dân tộc và sự tiến bộ của lịch sử
nói chung. Đặc biệt ngày nay, lực lượng sản xuất đã quốc tế hoá cao dẫn đến
quốc tế hố quan hệ sản xuất dưới nhiều hình thức. Từ khả năng tác động giữa

các quốc gia dân tộc là rất to lớn và mạnh mẽ.
Từ quá trình nghiên cứu xã hội Lênin đã viết “Tính quy luật chung của sự
phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã khơng loại trừ mà trái lại cịn bao hàm
một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức hoặc về
trình tự của sự phát triển đó” 9. Hay Mác đã đưa ra một luận điểm “Một xã hội
ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sư vận động của nó…cũng
khơng thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để
xố bỏ những giai đoạn đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn
đau đẻ”. Chính từ luận điểm này có quan điểm cho rằng Mác đã phủ nhận con
đường phát triển bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội. Đây là hồn tồn khơng
đúng, Mác chỉ bác bỏ việc dùng ý chí hoặc dùng sắc lệnh để nhảy qua một giai
đoạn phát triển nào đó đang bị qui định bởi những điều kiện và quy luật khách
quan. Khi đã xuất hiện những điều kiện khách quan mới thì việc nhảy qua một
giai đoạn phát triển nào đó lại được đặt ra và có khả năng thực hiện, do đó có thể
rút ngắn và làm dịu đi những khó khăn, vất vả. Lênin vận dụng quan điểm của
Mác nghiên cứu chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn Đế quốc chủ nghĩa và
đã nêu lên “Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị và quy luật
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản”10. Do đó “chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết
là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản
9 Lênin toàn tập Nxb tiến bộ, Mácxcơva 1978 tập 45, tr 431
10 Lênin toàn tập Nxb tiến bộ, Mácxcơva 1980, t26,tr 447


18

18

chủ nghĩa, tách riêng ra mà nói”11. Lênin đã nêu lên khả năng không phải trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, Người
chỉ ra rằng trong điều kiện nhất định con đường phát triển của các dân tộc tiền tư

bản chủ nghĩa không nhất thiết phải diễn ra một cách tuần tự như lịch sử sinh
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản mà các nước tư bản đã từng trải qua.
Lênin đã chỉ ra việc bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội cần có
những điều kiện đó là:
Thứ nhất: Hình thái kinh tế xã hội định bỏ qua đã trở nên lạc hậu
Thứ hai : Hình thái kinh tế xã hội định xây dựng đã trở thành hiện thực trên
thế giới và chứng tỏ tính ưu việt.
Thứ Ba :Cùng với sự giúp đỡ của các nước tiên tiến, bản thân dân tộc đó
phải có sự lỗ lực cao độ, đặc biệt có sự lãnh đạo của Đảng đủ sức đưa dân tộc đi
lên hình thái kinh tế xã hội cao định vươn tới. Như vậy chủ nghĩa Mác-Lênin đã
luận giải rõ sự phát triển của xã hội là sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội và
quá trình thay thế là một quá trình lịch sử tự nhiên, đồng thời chỉ ra q trình
phát triển đó bao hàm cả q trình rút ngắn và có cả sự thụt lùi.
Từ việc nghiên cứu lý luận về hình thái kinh tế xã hội, của chủ nghĩa duy
vật lịch sử là cơ sở để xác lập thế giới quan triệt để trong xem xét sự vận động,
và phát triển của xã hội, từ đó có cơ sở khoa học khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác, nhân dân ta lựa chọn là hồn tồn đúng đắn.
2. Tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam và sự lựa
chọn duy nhất đúng.
2.1. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng
của cách mạng Việt Nam.
11 Lênin toàn tập Nxb tiến bộ, Mácxcơva 1980, t26,tr 447


19

19

Đất nước Việt đã trải qua biết bao vô vàn những khó khăn do thiên tai và
địch hoạ, chịu sự đô hộ hàng ngàn năm của phong kiến phương bắc, ách thống trị

của chủ nghĩa thực dân, và đế quốc Mỹ. Vào những năm đầu thế kỷ XX, cách
mạng việt nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Hàng loạt phong
trào yêu nước theo lập trường phong kiến và tiểu tư sản đều bị dập tắt và đều
chịu chung số phận thất bại. Như các cuộc khởi nghĩa của cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, nguyễn Thái Học…Với
tinh thần yêu nước nhiệt huyết, khơng sợ khó khăn gian khổ, khơng tiếc xương
máu để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nhưng các cuộc khởi nghĩa đều thất bại bởi
thiếu một sự dẫn dắt của đường lối chính trị đúng đắn. Trước tình cảnh nước
mất nhà tan, với lịng u nước nồng nàn, chí căm thù giặc Bác Hồ đã ra đi tìm
đường cứu nước cứu dân tộc. Người đã đi khắp năm châu bốn biển, trải qua bao
gian khó, phải chịu cảnh đói nghèo, và Người đã đến được với chủ nghĩa MácLênin, và tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn nhất : Muốn giải phóng
dân tộc, khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên tồn thế giới ra khỏi ách nơ lệ. Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: con đường cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc và đi
lên chủ nghĩa xã hội . Sự lựa chọn đó chính là sự chọn của dân tộc ta, của nhân
dân Việt Nam, của giai cấp công nhân, phù hợp xu thế thời đại mới thời đại quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Với nhãn quan chính trị và nhận thức sâu sắc cách mạng
trước hết phải có Đảng cách, Người đã tuyên truyền vận động truyền bá lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đồng
thời tổ chức thành lập Đảng cách mạng của giai cấp cong nhân. Trên cơ sở tư
tưởng của Người , chính cương và sách lược vắn tắt, sau đó là cương lĩnh 1930
của Đảng ta lần lượt ra đời vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng việt nam.


20

20

Đó là con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội qua

hai giai đoạn cách mạng. Đường lối cách mạng đó đã đặt nền móng cho sự tiếp
tục làm rõ và phát triển hơn nữa về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong tình hình hiện nay Đảng ta xác định: Con đường xã hội chủ nghĩa ngày
càng được làm sáng tỏ, bao gồm cả nhận thức về mô hình, về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Đất nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Đế quốc Mỹ, với tư
duy nhất quan là kiên định con đường, mục tiêu, tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng ở hai miền, thực hiện đường lối giương ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ này Đảng ta xác định những nhiệm vụ chủ
yếu đó là xác định cộng nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
cả thời kỳ quá độ. Nắm vững chun chính vơ sản. Quan hệ giữa cơng nghiệp
với nông nghiệp. Thực hiện ba cuộc cách mạng và mối quan hệ của nó. Đảng ta
xác định những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ thực hiện đấu tranh giữa hai
con đường. Từ khi cả nước hoà bình đến khi chúng ta thực hiện cơng cuộc đổi
mới đất nước chúng ta có tư duy mới, đó là nhận rõ cách mạng xã hội chủ nghĩa
là một sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp, phải coi trọng và tn thủ các quy luật
khách quan, khơng thể nóng vội, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn. Từng
bước nhận rõ hơn về nền kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể trong phát triển
sản xuất…con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được chứng minh bằng
những thắng lợi to lớn và phong phú nó đã làm thay đổi căn bản thế và lực của
dân tộc ta. Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ
nghĩa. Vì vậy cần thấy rõ con đường đi tới chủ nghĩa xã hội khơng phải một sớm
một chiều, mà là q trình đầy khó khăn gian khổ, phủ định chủ nghĩa tư bản,
đấu tranh chống lại những tư tưởng sai trái, để tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn. đó
là xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình hiện nay chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực


21

21


thù địch ln tìm mọi cách để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại Việt
Nam là một trọng điểm. Trên mặt trận lý luận tư tưởng kẻ thù cho rằng sự sụp đổ
đó thì lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin khơng cịn giá trị. Song chúng ta khẳng
định tính tất thắng của chủ nghĩa xã hội, và thấy rõ sự sụp đổ đó chỉ là sụp đổ
của một mơ hình. Sai lầm về nhận thức và chủ quan duy ý chí. Trong giai đoạn
hiện nay chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh thích nghi, có những biện pháp kinh tế
xã hội nhằm phát triển sản xuất, đồng thời làm dịu những xung đột trong nội bộ
từng nước cũng như giữa các nước tư bản với nhau. Những biện pháp đó khơng
thể vượt qua những khn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy về bản chất
của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày càng
bộc lộ những khuyết điểm yếu kém, tình trạng chạy đua vũ trang, phân biệt giàu
nghèo, bóc lột giá trị thặng dư…vẫn là bức xúc, và những mâu thuẫn vốn có
trong lịng xã hội tư bản vẫn là nhân tố để chúng ta khẳng định loài người tất yếu
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng ta vận dụng sáng tạo lý luận hình thái
kinh tế xã hội và học thuyết Mác- Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, thấy rõ được tính đúng đắn của học thuyết. Biết vận dụng vào cụ thể đất
nước ta, có nhận thức đúng đắn quá trình bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ đó
kế thừa những tư liệu sản xuất của chủ nghĩa tư bản, đồng thời bỏ qua quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng của tư bản chủ nghĩa.
2.2. Những nội dung cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và trách
nhiệm của lực lượng vũ trang.
Quá trình hình thành tư duy của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội là thành tựu to lớn, là kết quả của sự tìm tịi, thể hiện lâu dài trong quá trình
cách mạng Việt Nam, trên cơ sở trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tổng kết thực tiễn từ những thành
công và thất bại trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước cũng


22


22

như ở nứơc ta. Vì vậy chúng ta cần có tư duy khoa học, cách nhìn biện chứng để
từ đó luận giải những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Điều quan trọng là
chúng ta phải xác định rõ lập trường chính trị của người cộng sản Việt Nam khi
nhận thức về thời đại mới, về thắng lợi của cách mạng thế giới, của cách mạng
Việt Nam đã giành được và khả năng phát triển của nó trong thời kỳ mới. Đảng
ta nhận định vấn đề cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
đã được qn triệt sâu sắc. Theo quan điểm đó thì mọi thành tựu của nhân loại
trong các lĩnh vực, những thắng lợi thắng lợi rực rỡ của cách mạng thế giới đều
có ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam .Và ngược lại những thắng lợi vĩ
đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, thành tựu của cơng cuộc đổi mới
đều đóng góp to lớn vào thế và lực của phong trào cách mạng thế giới. Thực tế
lịch sử đã chứng minh, nếu khơng có thành quả của cách mạng tháng mười, thiếu
chiến công to lớn của nhân dân Liên Xơ trong chiến tranh Ái Quốc thì khơng thể
có cách mạng tháng tám, khơng thể có cuộc cách mạng thắng lợi chống xâm
lược của dân tộc Việt Nam. Đó chính là kết quả của sự kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại, thống nhất ngoại lực và nội lực để giành thắng lợi cho cách
mạng nước mình, đồng thời góp phần tích cực vào sự phát triển của phong trào
cách mạng thế giới. Đảng ta nhạn định trong thế kỷ XXI ít có khả năng xảy ra
chiến tranh thế giới nhưng chiến tranh cục bộ chiến tranh sắc tộc vẫn cịn, tình
hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp khó lường, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội
vẫn đang tìm mọi cách chống phá nhiều mặt, chúng vừa tiến hành “chiến lược
diễn biến hồ bình” vừa tăng cường chạy đua vũ trang, dùng sức mạnh quân sự
để răn đe và sẵn sàng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phù hợp với lợi ích
của nó. Để thực hiện thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng
ta cần thực hiện toàn diện và đồng bộ các nội dung, cả về kinh tế, chính trị-xã



23

23

hội quốc phịng an ninh, văn hố xã hội, nâng cao dân trí …cần tập trung làm tốt
mục tiêu cách mạng bà lý tưởng của Đảng.
Một là: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa, sự khẳng định này là hết sức cần thiết, nhất là trong thời
điểm hiện nay, khi đất nước cùng nhân loại đang thực hiện nhiệm vụ của thế kỷ
XXI, trên thế giới có những diễn biến phức tạp, trong nước chúng ta cũng đang
đứng trước những nguy cơ và thách thức mới. Độc lập dân tộc gắn liền vớ chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc là nguyên tắc là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng của nước ta.
Hai là : Chúng ta cần có nhận thức sâu sắc con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Ba là: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin cùng tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành đọng là lập
trường, quan điểm nhất quán của Đảng.
Bốn là : Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, Đảng ta khẳng định
nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo đinh hướng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đấu tranh ngăn chặn
và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, dấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, chống phá của các thế lực thù địch. Bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành mọt nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Thực hiện được những nội dung cơ bản đó, là trách nhiệm của mỗi người
mỗi tổ chức. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ Đảng
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân…Với những thành quả đã đạt



24

24

được trong những năm qua Quân Đội đã góp một phần to lớn công sức vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Trước tình hình hiện nay cần phải nhận thức
và thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng của đảng, thường xuyên rèn luyện bản lĩnh
chính trị vững vàng, tích cực học tập nâng cao trình độ chun mơn, nắm bắt
khoa học kỹ thuật, chấp hành tốt kỷ luật và pháp luật, không để xảy ra tình
huống bất ngờ. Xây dựng Quân Đội theo hướng cách mạng chính quy tinh nhuệ
từng bước hiện đại, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của đảng , của nhà
nước Việt nam xã hội chủ nghĩa, là quân đội của dân, vì dân.



×