Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Địa lý du lịch: Thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.08 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
A. Lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Thừa Thiên – Huế.
B. Điều kiện tự nhiên.
C. Hệ thống di sản văn hóa.
D. Hệ thống cảnh quan thiên nhiên.
E. Hệ thống cơ sở vật chất.
F. Danh nhân văn hóa.

1


Huế - Thành phố di sản, sinh thái.
A, Lịch sử hình thành và phát triển thành phố Huế.
Từ năm 192 sau CN vùng đất này thuộc địa bàn nước Lâm Ấp và sau đó là
vương quốc Champa kéo dài gần 12 thế kỷ. Sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô
Quyền, biên giới Đại Việt mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, vua Trần Anh
Tông gả Huyền Trân Công chúa cho Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô - Rí. Năm sau
vua Trần cho đổi thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thành Hóa
châu (nằm cách Huế 9 km về phía hạ lưu sơng Hương) là trị sở và trung tâm chính
trị kinh tế hành chính và qn sự của châu Hóa. Sau hơn hai thế kỷ mở mang khai
khẩn, đến giữa thế kỷ thứ XVI, lộ Thuận Hóa đã thành nơi "đơ hội lớn của một
phương". Năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi
đầu cho q trình đơ thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố
Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ
chính đến làng Thụy Lơi, đổi là PHÚ XN, ở vị trí tây nam trong kinh thành Huế
hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát
đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712-1738) phủ chúa dời ra
BÁC VỌNG, song khi Võ Vương lên ngơi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân
nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc đơng nam Kinh thành Huế hiện nay. Sự
nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khốt đã
được Lê Q Đơn mơ tả trong sách Phủ biên tạp lục năm 1776. Đó là một đô thị


phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long - Dương
Xuân đến Bao Vinh - Thanh Hà. Tiếp đó, Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt
2


thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là kinh đô của nước Việt Nam gần
1,5 thế kỷ dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945).
Nhưng Phú Xuân được thay bằng tên gọi HUẾ từ bao giờ ?
- Ngày 20-10-1898, dụ của Vua Thành Thái lập thị xã Huế, ngày 30-8-1899
Tồn quyền Đơng Dương ra Nghị định chuẩn y đạo dụ và ngày 12-12-1929 được
nâng thành thành phố Huế (địa giới hành chính chỉ gồm 9 phường nằm ngồi Kinh
thành, từ phường đệ nhất đến phường đệ cửu, đến năm 1934 được sắp xếp thành 11
phường).
- Sau Cách mạng Tháng Tám, thị xã Huế bao gồm cả khu vực nội ngoại thành, là
tỉnh lỵ của Thừa Thiên.
- Năm 1956 Ngô Đình Diệm ban hành dụ 37A cải tổ hành chính, Huế là thành
phố (về sau là thị xã) ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên nhưng tỉnh lỵ Thừa Thiên vẫn
đặt tại Huế.
- Sau năm 1975 Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Bình Trị Thiên
- Năm 1989 Thừa Thiên tách khỏi tỉnh Bình Trị Thiên, Huế là thành phố tỉnh lỵ
của Thừa Thiên - Huế.
Song, dù là Thủ phủ - Đô thành - Kinh đô - Thị xã hay Thành phố thì Huế vẫn
ln ln là một TRUNG TÂM quan trọng về nhiều mặt. Ngày nay Huế là thành
phố Anh hùng, thành phố có hai Di sản thế giới, thành phố Trung tâm văn hóa du
lịch, thành phố Festival; một trong những đô thị cấp quốc gia.

B. Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
3



Thừa Thiên - Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa Thủ đô Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp thành phố
Đà Nẵng, phía Tây giáp nước Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào, phía Đơng giáp
biển Đơng. Về tổ chức hành chính, Thừa Thiên - Huế có 8 huyện và thành phố Huế
với 150 xã, phường, thị trấn.
2. Đặc điểm địa hình
Thừa Thiên - Huế nằm trên một dải đất hẹp với chiều dài 127 km, chiều rộng trung
bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình rừng núi, gị đồi, đồng bằng dun hải,
đầm, phá và biển tập trung trong một không gian hẹp, thấp dần từ Tây sang Đơng,
phía Tây là dãy núi cao, phía giữa là đồi núi thấp và phía Đơng là dải đồng bằng
nhỏ hẹp.
Phần phía Tây chủ yếu là đồi núi chiếm tới 70% diện tích tự nhiên. Núi chiếm
khoảng ¼ diện tích tự nhiên, nằm ở biên giới Việt – Lào và vùng tiếp giáp với Đà
Nẵng. Phần lớn các đỉnh núi có độ cao từ 800 đến hơn 1.000 m, trong đó có núi
Bạch Mã và Hải Vân là những địa danh du lịch nổi tiếng. Địa hình phần đồi phân
bố chủ yếu ở vùng trung du, trong các thung lũng, chiếm khoảng ¼ diện tích tự
nhiên, độ cao phần lớn dưới 500 m, có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng, sườn thoải
20 - 250.
3. Khí hậu
Thừa Thiên - Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chất chuyển
tiếp từ á xích đới lên nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển
tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta.
Thời tiết chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 11 với
lượng mưa trung bình từ 2.500 – 2.700 mm. Mùa khơ kéo dài từ tháng 3 đến tháng
4


7, mưa ít, lượng nước bốc hơi lớn, thường có mưa giơng. Nhiệt độ trung bình hàng
năm tại Huế là 240C. Số giờ nắng trung bình 2.000 giờ/năm. Độ ẩm trung bình

84%. Số lượng bão khá nhiều, thường bắt đầu vào tháng 6, nhiều nhất là vào tháng
9, 10.
4. Tài nguyên thiên nhiên.
a. Tài nguyên đất.
Thừa Thiên - Huế có tổng diện tích đất tự nhiên là 505.398,9 ha với khoảng 10 loại
đất chính. Các loại đất có diện tích tương đối lớn là đất phù sa, đất đỏ vàng, đất
mùn vàng trên núi, đất cát, mặn… phân bố trên các vùng khác nhau.
Quỹ đất đang sử dụng vào phát triển cây nơng nghiệp là 59.710 ha, chiếm 11,8%
diện tích tự nhiên. Đất canh tác cây hàng năm là 44.879 ha, chiếm 75,1% diện tích
đất nơng nghiệp. Ngồi ra, cịn có đất trồng cây lâu năm và đất vườn tạp; đồng cỏ
tái tạo dùng vào chăn ni và đất có mặt nước dùng vào nơng - ngư nghiệp. Bình
qn đất nông nghiệp trên đầu người hiện nay là 564 m 2. Tuy diện tích đất chưa sử
dụng năm 2000 là 193.559 ha, trong đó: đất bằng là 21.668, đất đồi núi là 139.953
ha (chiếm 75% tổng diện tích đất chưa sử dụng), tạo nhiều khả năng mở rộng diện
tích trồng rừng nguyên liệu, cây công nghiệp, cây ăn quả như: cao su, cà phê,
dứa… nhằm tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và trồng cây lâm nghiệp,
mở rộng diện tích rừng. Diện tích mặt nước chưa sử dụng là 26.183 ha có thể khai
thác để phát triển ni trồng thuỷ sản các loại.
b. Tài nguyên rừng.
Thời điểm năm 2002, tồn tỉnh có 234.954 ha đất lâm nghiệp có rừng, trong đó:
177.550 ha rừng tự nhiên và 57.395 ha rừng trồng. Diện tích rừng chia theo mục
đích sử dụng, rừng sản xuất là 62.778 ha, rừng phòng hộ 119.558 ha và rừng đặc
5


dụng 52.605 ha. Tổng trữ lượng gỗ toàn tỉnh khoảng 17,3 triệu m3. Hiện nay, đất
trống, đồi trọc còn khoảng 125 nghìn ha, chiếm 25% diện tích tự nhiên. Đây là
nguồn tài nguyên lớn tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh mở rộng diện tích rừng trong
những năm tới.
c. Tài nguyên khoáng sản.

Tài nguyên khoáng sản của Thừa Thiên - Huế rất phong phú và đa dạng, với hơn
100 điểm khống sản, trong đó có các loại chủ yếu như: đá vơi, đá granít, cao lanh,
titan, than bùn, sét, nước khống… Tổng trữ lượng đá vơi khoảng trên 1.000 triệu
tấn gồm các mỏ Long Thọ có trữ lượng khoảng 14 triệu tấn, Phong Xuân trữ lượng
khoảng 200 triệu tấn, Văn Xá trữ lượng khoảng 230 triệu tấn, Nam Đông khoảng
500 triệu tấn… Mỏ đá granit đen và xám ở Phú Lộc trữ lượng lớn. Cao lanh với
tổng trữ lượng khoảng trên 40 triệu tấn, tập trung chủ yếu ở A Lưới, Hương Trà.
Các mỏ cát với hàm lượng SiO2 trên 98,4% và trữ lượng khoảng trên 15 triệu tấn
được phân bổ nhiều nơi trong tỉnh. Titan có tổng trữ lượng khoảng trên 2 triệu tấn
phân bổ dọc theo dải cát ven biển thuộc các huyện Quảng Điền, Phú Vang, Phú
Lộc. Các mỏ nước khoáng ở vùng Phong Điền, Phú Vang… đang được dùng để
sản xuất nước giải khát và phục vụ chữa bệnh.

C, Hệ thống di sản văn hóa.
I, Di tích lịch sử - văn hóa.
1, Di sản văn hóa vật thể.
Huế không chỉ là một vùng danh lam thắng cảnh kỳ thú, đầy sức quyến rũ với con
sông Hương hiền hịa bên ngọn Ngự Bình hùng vĩ mà thành phố này cịn được biết
đến với những di tích văn hóa lịch sử vơ cùng giá trị. Sau đây, chúng ta cùng tìm
hiểu những di tích lịch sử văn hóa đặc sắc của thành phố này:
6


1.1 Quần thể di tích cố đơ Huế.
Huế là một trong những vùng có nhiều di sản văn hóa. Đến nay, khơng cịn một
vùng nào có một số lượng lớn các di tích mà những di tích này vẫn giữ được hình
dạng vốn có của nó như ở cố đơ này. Và khi nói đến Huế khơng thể khơng nhắc
đến quần thể di tích cố đơ Huế.
a. Vị trí địa lý.
Quần thể di tích Cố đơ Huế nằm dọc hai bên bờ sông Hương thuộc thành phố Huế

và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Thành phố Huế là trung tâm
văn hóa, chính trị, kinh tế của tỉnh, là cố đô của Việt Nam thời phong kiến dưới
triều nhà Nguyễn (1802-1945).
b. Lịch sử
Từ năm 1306, sau cuộc hôn phối giữa công chúa Huyền Trân với vua Chàm là Chế
Mận, vùng đất Châu Ô, Châu Lý ( gồm Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và một phần
của Bắc Quảng Nam ngày nay) được lấy tên là Thuận Hóa. Vào nửa cuối thế kỷ
15, thời vua Lê Thánh Tông, địa danh Huế lần đầu tiên xuất hiện. Vào những năm
đầu của thế kỷ 18, Phú Xuân là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của xứ Đàng
Trong. Từ năm 1788 đến 1801, Phú Xuân trở thành kinh đô của triều đại Tây Sơn.
Từ 1802 đến 1945, Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất dưới sự trị vì của
13 đời vua nhà Nguyễn. Cũng vào thời gian này, tại đây đã hình thành các cơng
trình kiến trúc lịch sử văn hóa có giá trị tiêu biểu là kinh thành Huế, đặc biệt là khu
Đại Nội (có 253 công trinh), 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua Nguyễn, đàn Nam Giao,
Hổ Quyền, điện Hòn Chén.
c. Cấu trúc.

7


Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc của cố đơ Huế được xây dựng trên một mặt
bằng diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi ba vòng thành theo thứ tự ngoài
lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành, Tử Cấm Thành. Tổng thể kiến trúc này
lấy núi Ngự Bình làm thế Tiền Án, sơng Hương làm thế Minh Đường, cồn Dã Viên
làm thế Hữu Bạch Hổ, cồn Hiến làm thế Tả Thanh Long, rừng núi sơng suối phía
sau làm thế Nảo Đường và Hậu Chẫm.
 Kinh Thành: do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua
Minh Mạng tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua Triều Nguyễn
đã cho xây dựng khá nhiều thành qch, cung điện và các cơng trình hoàng
gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay cịn hầu như ngun vẹn

với gần 140 cơng trình xây dựng lớn nhỏ.
Kinh thành hình vng với chu vi 10.000m, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10
cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để
phịng thủ. Ngồi ra cịn có một của phụ thơng với Trấn Bình Đài gọi là Thái
Bình Mơn.
Trong kinh thành có các di tích nổi bật như: Kỳ Đài, Trường Quốc Tử Giám,
Đình Phú Xuân, Cửu vị thần công, điện Long An, Hồ Tịnh Tâm, Đàn Xã
Tắc, Quốc sử quán, Linh Hựu Quán.
 Hoàng Thành: Nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao
nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã q cố. Hồng
Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao
4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 của để ra vào, riêng Ngọ Môn
chỉ để dành cho vua đi. Đại Nội gồm có hơn 100 cơng trình kiến trúc đẹp
được chia ra nhều khu vực:
- Từ Ngọ Mơn đến Điện Thái Hịa: là nơi của hành các lễ lớn của triều
đình.
- Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên: là
nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
8


- Phủ Nội Vụ: là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho
hoàng gia.
- Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn: là nơi các hoàng tử học tập và chơi
đùa.
Trong Hồng Thành có các di tích nổi bật như: Ngọ Môn, Sân Đại Triều
Nghi, Điện Thái Hòa, Thế Miếu, Hưng Miếu, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh,
Điện Phụng Tiên, Triệu Miếu, Thái Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường
Sanh, Lầu Tứ Phương Vô Sự.
 Tử Cấm Thành: là vịng thành trong cùng, nằm trong Hồng Thành. Tử Cấm

Thành nguyên gọi là Cung Thành, được khởi công vào năm 1803, năm 1821
đổi tên thành Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành giới hạn khu vực làm việc, ăn
ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Thành cao 3,72m xay bằng gạch, dày
0,72m, chu vi khoảng 1.230m, bao gồm gần 50 cơng trình kiến trúc lớn nhỏ
bao gồm nhiều cung điện huy hoàng tráng lệ. Chung quanh thành trổ 7 của
để ra vào, của chính duy nhất ở mặt thành phía trước là Đại Cung Mơn chỉ
dành cho vua đi. Vừa bước ra khỏi cửa này là đối diện ngay với Điện Cần
Chánh là nơi vua làm việc hàng ngày. Hai bên sân điện là Tả Vu và Hữu Vu
và Đơng Các. Sau đó cách một tấm phong dài là Càn Thanh, nơi vua ở. Cách
một cái sân nữa là cung Khơn Thái nơi ở của Hồng Q Phi (Hồng Hậu),
rồi đến lầu Kiến Trung. Hai bên dãy cung điện ấy cịn có một số cơng trình
như: điện Quang Minh, Duyệt Thị Đường (nhà hát), Thượng Thiện Đường
(nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình lâu (nơi vua đọc sách)...
1.2 Các di tích ngồi Kinh Thành.
Ngồi ra Huế cịn nổi tiếng bởi khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn và các di
tích các mạng khác.
a. Lăng Gia Long (Thiên Thọ lăng).
9


Lăng Gia Long là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ trong đó có Đại Thiên Thọ
là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn
này. Lăng được xây từ 1814 dến 1820. Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi
bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ làm Tiền án, sau có 7 ngọn
núi làm Hậu án, bên trái có 14 ngọn núi làm Tả thanh long và bên phải có 14 ngọn
núi làm Hữu bạch hổ. Tổng thể lăng được chia làm ba khu vực:
- Chính giữa là lăng mộ vua và Thùa Thiên Cao Hoàng Hậu.
- Bên phải là khu tẩm điện.
- Bên trái là Bi Đình.
b. Lăng Minh Mạng ( Hiếu lăng).

Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840 đến năm 1843. Lăng Minh
Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mơ gồm khoảng 40 cơng trình lớn nhỏ được
bố trí cân đối trên một trục dọc từ Đại Hồng Môn tới chân tường của La Thành
sau mộ vua. Tổng thể của lăng được chia ra:
- Đại Hồng Môn là cổng chính vào lăng.
- Bi Đình.
- Khu vực tẩm điện là nơi thờ cúng vua.
- Lầu Minh Lâu.
- Bửu Thành là thành quanh mộ.
c. Lăng Khải Định (Ứng Lăng).
Lăng khởi cơng ngày 04/09/1920 và kéo dài 11 năm mới hồn thành. Tổng thể
lăng là một khối hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc và được chia ra:
- 37 bậc đầu tiên để vào lăng.
- Vượt 29 bậc nữa là lên sân bái đình.
- Qua 46 bậc nũa là đến điện thờ. Từ sân vào của điện còn phải qua 15 bậc
nữa. Trong đó, điện Khải Thành là phịng chính của cung Thiên Định.
Ngồi ra cịn có các lăng như: Lăng Tự Đức, Lăng Thiệu Trị, Lăng Đồng Khánh,
Lăng Dục Đức...
10


d. Quần thể khu tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Làng Dương Nỗ
- Nhà tưởng niệm Bác Hồ 112 Mai Thúc Loan.
- Hệ thống đường mịn Hồ Chí Minh.
- Phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh.
e. Hệ thống các chùa.
Hiện ở Huế có hơn 300 ngơi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có
những ngơi Tổ đình, cổ tự nổi tiếng từ hàng trăm năm như:
- Chùa Thiên Mụ: chùa được xây dụng năm 1601. Ngôi chùa là một trong

những kiến trúc tôn giáo cổ nhất và đẹp nhất ở Huế.Điện Đại Hùng là
ngơi ddiej chính trong chùa, một cơng trình kiến trúc đồ sộ nguy nga.
Tháp Phước Duyên được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844. Tháp có
-

hình bát giác cao 7 tầng (21m).
Chùa Từ Đàm.
Chùa Báo Quốc.
Chùa Giác Lương.
Chùa Diệu Đế.....

2. Di sản văn hóa phi vật thể.
2.1 Lễ hội.
Là vùng có truyền thống văn hóa phong phú và đặc sắc. Huế có rất nhiều lễ hội dân
gian. Đặc điểm của các lễ hội ở Huế là được tổ chức rất công phu, bài bản, khiến
nhiều du khách thích thú với các sản phẩm du lịch văn hóa này. Một số lễ hội tiêu
biểu như:
a. Hội đua ghe truyền thống.
Hội đua ghe truyền thống tỉnh TTHuế là một lễ hội mới được tổ chức sau ngày giải
phóng hồn tồn miền Nam nam 1975. Hội được tổ chức trong một ngày nhằm
ngày lễ Quốc khánh 2-9(dương lịch)
11


Ðịa điểm đua là bờ Nam sông Hương trước trường Quốc học. Hội nhằm tạo điều
kiện thuận tiện cho thanh niên nam nữ có cơ hội thi tài trên sơng nước, qua đó rèn
luyện tăng cường bảo vệ sức khoẻ và tạo khơng khí vui tươi lành mạnh cho nhân
dân. Ðây cũng là dịp để biểu lộ lòng vui mừng của nhân dân nhân ngày Quốc
khánh.
Quy mơ hội có tính chất rộng rãi liên phường xã và các huyện trong tỉnh. Hội tổ

chức theo định kỳ, mỗi năm một lần theo phong tục.
b. Hội vật làng Sình.
Dù ai đi đó đi đây
Ngày mười hội vật nhớ quay về Sình
Ðó là câu ca dao ở Huế nhắc nhở mọi người hãy nhớ ngày mồng mười tháng giêng
âm lịch hàng năm quay về làng Sình (Lại An), xã Phú Mậu huyện Phú Vang để
xem đấu vật. Sân vật được dựng ngay trước đình làng Sình.
Vật võ cũng là một hình thức để tưởng nhớ ngài khai canh làng đã truyền dạy dân
làng nghề vật. Nên đến ngày giỗ Ngài, dân làng tổ chức vật võ. Lễ chính tế Ngài
khai canh được cử hành vào sáng mồng mười tháng giêng âm lịch lúc 2h sáng. Lễ
tất mới vật võ, lúc 7h sáng.
Thể thức thi đấu hễ "tấm lưng trắng bụng" là thua nhưng có cuộc tranh tài q
quyết liệt, có khi đơ vật bị tử vong. Trọng tài của hội vật do một người có uy tín
trong làng đảm nhiệm. Lễ vật khơng hạn chế số đô vật ở các làng xã khác tham dự.
Thứ tự cuộc đấu chiến bắt đầu là các thiếu niên, sau đó là cuộc thi vật của thanh
niên và trung niên.
Sự tổ chức cũng theo thời gian mà thay đổi. Người thắng cuộc vật thời trước là tay
thượng võ đài chiến thắng mọi đối thủ đến phút cuối, khi khơng cịn ai dám lên đấu
vật nữa mới được gọi là vô địch. Ngày nay các đô vật được chia thành từng cặp
đấu chiến, để qua các vòng sơ kết, bán kết và chung kết. Người thắng vòng chung
12


kết là vô địch. Như vậy đô vật khỏi bị mất sức vì phải đấu liên tiếp với nhiều
người.
c. Lễ hội Điện Hòn Chén.
Tại Huế, Thánh Mẫu được thờ tại điện Hòn Chén, làng Hải Cát, huyện Hương Trà.
Nghi lễ tại Ðiện Hòn Chén rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày
chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Ðám rước
Thiên Y A Na Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn

cả.
Lễ hội giống như một festival về văn hóa dân gian trên sông Hương, tấp nập những
chiếc “bằng” (thuyền kết đôi) với cờ phướn, hương án đủ màu sắc, hành hương về
điện Hòn Chén, nơi thờ Thánh Mẫu. Tại khu vực điện sẽ diễn ra Thánh Mẫu tuần
du làng Hải Cát, lễ tế làng Hải Cát, lễ cung nghinh Thánh Mẫu hồi loan về điện, lễ
phóng sanh, phóng đăng...
Ðám rước cử hành trên những chiếc “bằng”. Trên mỗi bằng có bàn thờ Thánh Mẫu
cùng với long kiệu. Trên long kiệu có hịm sắc của vua ban Thánh Mẫu, liền kế đó
là một bằng khác có bàn thờ, kiệu và hòm sắc của nhị vị thượng Ngàn và Thuỷ
Cung Thánh Mẫu. Sau đó là những chiếc bằng chở các tự khí, tàn tán cờ quạt.
Trải qua những thăng trầm lịch sử, những năm gần đây lễ hội này đã được phục hồi
theo các tập tục truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa dân gian địa phương. Lễ
hội điện Hịn Chén cịn được gọi là Lễ Vía Mẹ, khơng chỉ là của những tín đồ
Thiên Tiên Thanh Giáo, mà cịn là của những người theo đạo thờ Mẹ, đạo hiếu, đạo
làm người. Theo ý nghĩa đó, việc phục hồi lễ hội điện Hòn Chén là phục hồi một
giá trị văn hóa truyền thống của một vùng đất.
d. Lễ hội cầu ngư ở Thai Dương Hạ.

13


Hội của nhân dân làng Thai Dương hạ, huyện Phú Quang, tổ chức vào ngày 12
tháng giêng âm lịch hằng năm, để tưởng nhớ vị Thành Hoàng của làng là Trương
Q Cơng (Trương Thiều), người gốc Thanh Hóa, có cơng dạy cho dân nghề đánh
cá và buôn bán ghe mành.
Thường cứ 3 năm một lần làng lại tổ chức đại lễ rất linh đình, có tổ chức các trị
mơ tả những sinh hoạt nghề đánh cá, trong đó trị "bủa lưới" mang ý nghĩa trình
nghề, khắc họa đậm nét lễ nghi dân gian của cư dân ven biển.
Lễ hội Cầu Ngư Thai Dương Hạ là một lễ hội lớn ở Thừa Thiên Huế và ở Việt
Nam.

2.2 Làng nghề truyền thống.
a. Nhóm làng nghề sản xuất cơng cụ - khí dụng, như nghề rèn sắt ở Hiền Lương,
Mậu Tài, nghề đúc đồng ở Võng Trì, Dương Xuân (Sơn Điền, Phường Đúc), nghề
kéo dây (thau, thép) ở Mậu Tài, nghề mài khí giới ở An Lưu, nghề làm đinh sắt,
đinh đồng ở Hà Thanh, nghề đan lát (tre, mây) ở Bao La, nghề thắt gióng mây ở An
Vân, An Cựu, nghề đan gót và làm mui đị ở Dã Lê, nghề làm guốc mộc ở An
Ninh, nghề làm đăng nò (để đánh cá) ở Bác Vọng, nghề đan lưới (đánh cá) ở Thủ
Lễ, Thụy Lôi (Phú Xuân), Uất Mậu, nghề gốm ở Dũng Cảm (Mỹ Xuyên), Cảm
Quyết (Phước Tích), Nguyệt Biều (Long Thọ), nghề làm đồ sành sứ ở Ngư Võng,
nghề làm nón lá ở Triều Sơn, Đồng Di, Tây Hồ, Phủ Cam, nghề làm tơi lá (áo
mưa) ở Ô Sa, nghề đóng hịm (quan tài) ở Kim Long, Bao Vinh, nghề xẻ ván đóng
thuyền ở Diêm Trường, Phụng Chánh, nghề làm chiếu đệm ở Bằng Lẵng, Phò
Trạch, nghề làm mũ ở Hiền Lương, nghề làm trống ở Phổ Nam…
b. Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu – trang trí, như nghề thếp vàng, sơn mài ở Tân
Nộn (Tiên Nộn), nghề kim hồn ở Kế Mơn, nghề chạm khắc gỗ ở Mỹ Xuyên, nghề
khảm cẩn xà cừ ở Bao Vinh, nghề vẽ tranh thờ ở Lại Ân (Sình), nghề làm hoa giấy
ở Thanh Tiên, nghề làm giấy ở Lương Cổ, Đốc Sơ, Thanh Lam, nghề làm mực ở
14


Hoài Tài (Mậu Tài), nghề làm trướng liễn ở An Truyền (Chuồn), nghề làm tóc giả
ở Quảng Xuyên, nghề vẽ tranh kính ở Huế…
c. Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu – may mặc, như nghề dệt (nhiều loại) ở An
Lưu, Sơn Điều, Dương Xuân, Vạn Xuân, Kim Long, Phủ Cam, nghề dệt tơ ở Phủ
Cam (Trường Cởi), nghề dệt gấm, dệt nhiễu đổ ở Phú Xuân, nghề dệt lụa trắng ở
An Lưu, nghề dệt mũ ở Quảng Yên, nghề dệt lụa ở Lãng Châu, Phò Nam, nghề dệt
gấm cải hoa ở Vĩnh Cố (Vĩnh Xương), nghề dệt vải mặt nhỏ ở Đồng Di, Dương
Nỗ, Địa Linh, nghề dệt vải thao đủi ở Mỹ Toàn (Mỹ Lợi), nghề xe chỉ, nhuộm chỉ ở
Chợ Cống, nghề thêu ở Huế (phố Cẩm Tú)…
d. Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu – xây dựng, như nghề làm vôi hàu ở Nghi

Giang, Vinh Hiền, nghề làm gạch ngói ở Xóm Ngõa – Địa Linh, Long Thọ, Nam
Thanh, Triều Sơn Tây, nghề nung vôi đá ở Nguyệt Biều – Long Thọ (nghề làm
giấy cũng có thể thuộc nhóm này, vì ngày xưa người ta dùng giấy như một thành tố
như vôi vữa, nhất là để xây cung điện, thành đài…)
e. Nhóm làm nghề sản xuất ẩm thực phẩm, như nghề đánh cá ở Dương Xuân, Thủy
Bạn (Lưu Bạn), An Bằng và các làng ven sông, đầm, biển, nghề kéo mật mía ở Tân
Quán, Long Hồ, Thượng An, nghề làm men rượu ở Việt Dương, Tây Thành, nghề
nấu rượu ở Tân Lai, An Thành, Phù Lai, Vu Lai, Hà Thanh, nghề làm bột, bột bán
ở La Khê, An Thuận, Truồi, nghề làm bánh ở Lý Khê (Lễ Khê), Tri Lễ, nghề làm
bánh tráng ở Tráng Lực, Lựu Bảo, nghề làm bún ở Hương Cần, Vân Cù, nghề làm
muối ở Khánh Mỹ, Diêm Trường, Phụng Chánh, Mỹ Tồn….
f. Nghề kim hồn làm đồ trang sức, chỉ có một làng Kế Môn (nay thuộc xã Điền
Môn, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế). Về sau, nghề này được phổ biến và
phát triển ở thành phố Huế và một số nơi khác. Người ta thờ hai cha con ơng Cao
Đình Độ, Cao Đình Hương làm Tổ nghề. Cao Đình Độ gốc ở vùng Cẩm Tú, tỉnh
Hà Tĩnh, di cư vào Nam làm con nuôi họ Trần Duy làng Kế Môn. Ông giỏi nghề
luyện vàng bạc, bịt khảm và làm đồ nữ trang. Vua Gia Long nghe tiếng, trưng tập
15


vào Nội Kim tượng cục (cuộc thợ vàng trong cung). Về già, ơng truyền nghề cho
con là Cao Đình Hương và dân làng Kế Môn để đền ơn bảo dưỡng. Ông mất ngày
7-2-1810. Ông Hương nối nghiệp cha làm nghề kim hoàn, và được xem là “đệ nhị
tổ” (tổ thứ hai) của nghề này. Khu mộ Tổ Kim Hoàn đã được Nhà Nước cơng nhận
là di tích văn hóa theo Quyết định ngày 22-3-1990 của Bộ Văn hóa Thơng Tin.
- Các nhóm chính của làng nghề - Đan lát Bao La
- Điêu khắc Mỹ Xuyên và Thuận Hòa - Làng nghề Đúc đồng Huế (Phường Đúc,
phường Thủy Xuân) thành phố Huế
- Làng gốm Phước Phú - Làng hoa giấy Thanh Tiên và nghề làm hoa giấy
- Làng nón Phú Cam - Liễn làng Chuồn

- Thêu Thuận Lộc - Tranh làng Sình
- Làng Bún Bánh Ơ Sa - Làng chế biến mắm, nước mắm Tân Thành
- Làng Đan lát mây tre Thủy Lập - Làng Trồng nấm rơm Lê Xá Đông
- Làng nghề Nón lá Mỹ Lam

2.3 Trị chơi.
Ngồi những trị chơi gắn với các lễ hội trên, người dân Huế cịn có những tró chơi
dân gian độc đáo khác như:
a. Đổ xăm hường.
Huế xưa và nay - Ðổ xăm hường là một trị chơi tao nhã, có nguồn gốc Trung Hoa,
nhưng rất được người Huế ưa chuộng. Thoạt tiên, trò chơi này xuất phát từ trong
cung, về sau phổ biến trong dinh thự của các vương tôn, công tử và quan lại triều
đình nhà Nguyễn, rồi mới lan truyền ra dân gian.
b. Bài chòi Huế.

16


Huế xưa và nay - Tết đến, thú vui được người Huế nói riêng, người Việt nói chung,
quan tâm nhiều nhất là các trò cờ bạc, đỏ đen, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Một trong những trị chơi đó là bài chòi.
c. Thả diều.
Huế xưa và nay - Thả diều là một trong những trị giải trí có sức sống lâu đời ở
Huế. Cũng như ở miền Bắc, chơi diều lúc đầu chỉ là một trò chơi của trẻ em. Bọn
trẻ đã tạo ra những con diều cung, diều phên hay diều dơi rất đơn giản. Chúng
dùng giấy vàng mã hay giấy dó dán lên những khung tre hình cánh cung, đính vào
đấy hai dãi giấy để làm đi. Vậy là đã có một con diều để tung lên trời cao với
bao niềm mơ ước và đam mê thơ dại của chúng. Người ta không biết được những
người lớn ở Huế đã tham gia vào trò chơi này từ khi nào, cũng như vì sao từ những
con diều đơn giản về cả tạo hình lẫn màu sắc, bỗng nhiên ở Huế, dưới thời

Nguyễn, lại xuất hiện những con diều công, diều phụng rực rỡ, được chế tác bằng
các chất liệu khác trước với một trình độ cao về nghệ thuật tạo hình cũng như kỹ
thuật thả diều.Trị chơi Đu tiên
Huế xưa và nay - Ðu tiên là một trò vui có gốc gác từ miền Bắc, được du nhập vào
Thuận Hóa từ rất sớm. Sách Ðại Việt sử ký tồn thư cho biết: “Ất tị, năm thứ 8
niên hiệu Ðại Trị đời Trần Dụ Tông (năm 1363 - Tác giả)... mùa xuân, tháng
Giêng, người Chiêm Thành đến bắt dân ở châu Hóa. Hàng năm, cứ đến mùa xuân
tháng Giêng, con trái, con gái họp nhau đánh đu ở Bà Dương. Người Chiêm Thành
khoảng tháng Chạp năm trước, nấp sẵn ở nơi đầu nguồn của châu Hóa, đến khi ấy
ụp đến cướp bắt lấy người đem về”. Chuyện này xảy ra chỉ sau khi người Chiêm
cắt đất Ô, Lý cho Ðại Việt chưa đầy 60 năm, mà lại thành lệ đến nỗi người Chiêm
biết mà phục sẵn chờ bắt người mang về, chứng tỏ trò chơi này rất hấp dẫn dân
chúng và được tổ chức thường xuyên ngay từ buổi đầu họ đặt chân đến đây.
2.4 Ẩm thực.
17


Đối với xứ Huế thì ăn uống (ẩm thực) cũng là một loại hình văn hố chứ khơng chỉ
thuần t đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của cơ thể, đồng thời cũng là
phương thức trong y học cổ truyền, có tác dụng bổ dưỡng và chữa bệnh. Ẩm thực
được chia làm hai hệ, ẩm thực cung đình và ẩm thực dân gian. Thật ra, ẩm thực
cung đình cũng là ẩm thực dân gian được nâng cao lên, và đến lượt ẩm thực cung
đình ảnh hưởng trở lại làm thay đổi chất lượng của ẩm thực dân gian.
a. Ẩm thực cung đình.
Trong cung đình, việc tổ chức các món ăn trong mỗi bữa thành một "phương
thang" để vừa bổ dưỡng, vừa trị bệnh là trách nhiệm của viện Thái Y. “Thượng
Thiện đội" là một bộ phận chuyên lo việc bếp núc, từ mua sắm thức ăn, nấu nướng,
chuẩn bị bát đĩa, tăm, thìa cho bữa ăn của vua và cúng giỗ của hồng gia. Một số
món ngự thiện đã được đưa vào ca Huế qua điệu Nam Ai, liệt kê gồm: nem cơng,
thấu thỏ, xơi vị, nham bị, trứng gà lộn, khum lệt, xào lươn, bó sị trâu. Chiên cua

gạch, hầm câu, cao lầu, kho tàu, thịt quay, dưa gia, kiệu thịt phay, gầm ghì, măng
cày. Hon hơn, nướng sẻ, um cò, tao sò, mực trộn, gân chân vịt, giị nai, cháo hải
sâm. Kim châm, da bì, bành mì tây.... Địa phương Huế cịn có loại "gạo de An
Cựu" dành để tiến vua.
Ngồi những món chế biến từ nguyên liệu mua từ các chợ kinh kỳ, một số đặc biệt
quý hiếm hay lạ do địa phương khác cống nạp. Ở ngồi Bắc thì có giống nhãn tiến
từ Hưng Yên. Bát trân là tám món quý gồm yến sào (tổ chim yến), hải sâm (đỉa
biển), bào ngư (cửu khổng), hào xi, lộc cân (gân nai), tê bì (da tê giác), hùng
chưởng (tay gấu)...
b. Ẩm thực dân gian.
Ở nông thôn, đa số là gia đình lao động trên đồng ruộng hay bách nghệ, người dân
tuy cần chất lượng hơn mỹ thuật, bữa ăn thường ngày đơn giản là cua đồng, cá
18


ruộng, rau vườn tuy nhiên khi cần thanh nhã như tiệc, kỵ giỗ...thì đầu bếp vẫn có
thể thực hiện những món ăn tinh xảo.
Ngồi những nét đặc trưng tổng qt của ẩm thực Việt Nam ẩm thực dân gian Huế
mang những đặc trưng riêng, nổi bật. Một là tính đa dạng, trên mỗi bữa ăn thường
với nhiều chất liệu thịt, cá, rau quả và được thể hiện qua nhiều món như canh, kho,
luộc, nướng, xào, hấp...Hai là tính mỹ thuật, dù giàu nghèo, mâm cơm bao giờ
cũng sắp xếp gọn gàng, tươm tất trên bàn, trên phản, chõng hay trên chiếc chiếu
trải giữa nhà; lễ tiệc phải chú ý bày biện, phối hợp màu sắc của các thực đơn để
hấp dẫn người ăn. Thứ ba là tính tập thể, tất cả các món đều được bày ra hết, nhất
là trọng kỵ giỗ và có thể chúng được bày chồng lên nhau, mỗi mâm cỗ dành cho
nhiều người. Thứ tư là tính tinh tế và ngon lành, kế cả món mặn lẫn món chay, và
để thu hút thực khách, người Huế thường đặt tên cho món ăn những tên gọi đầy
hoa mỹ.
 Một số món ăn đặc sản Huế:
- Cơm Hến : Cơm nguội với những con hến nhỏ là vị chủ của cơm hến, hến

được xào kèm theo bún tàu (miến), măng khơ và thịt heo thái chỉ. Món
thứ ba trong cơm hến là rau sống làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt
mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với mơn bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có
khi cịn điểm thêm những cánh bơng vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có
thêm mùi hương riêng. Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc
khói nghi ngút bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy
một cái tơ đã có đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị
đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Bộ đồ màu
của cơm hến gồm 10 vị: ớt tương, ớt màu, ruốc sống, bánh tráng nướng
bóp vụn, muối rang, hạt đậu phộng rang mỡ giã hơi thô thô, mè rang, da
heo rang giịn, tóp mỡ, vị tinh.
19


- Bún Huế: Con bún làm bằng gạo xay có pha ít bột lọc nên con bún trắng
hơi trong và săn hơn, con bún Huế lại to hơn các nơi khác. Một tơ bún
giị hay bún bị hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và
thơm. Nước bún nấu với những miếng móng giị heo mềm nhừ, với một
chút màu trắng của những cọng giá và màu xanh của rau sống, thêm gia
vị để vừa cay, vừa nóng, vừa nghe vị ngọt của nước bún của thịt.
- Bánh bèo.
- Bánh ướt thịt nướng.
- Các loại bánh: bánh khoái, bánh bột lọc, bánh nậm...
- Các loại chè Huế: chè hạt sen long nhãn, chè hạt lựu, chè thịt quay, chè
môn sáp vàng, chè khoai mài...
- Các loại kẹo Huế: kẹo cau, kẹo mè xửng, kẹo đậu phụng...
II. Văn hóa tộc người.
1. Khái niệm:
Theo nhà văn hóa Ngơ Đức Thịnh:văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn
hóa mang tính đặc thù tộc người,nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân

biệt tộc người này với tộc người kia.Các yếu tố đầu tiên là ngôn ngữ,trang
phục,các tín ngưỡng và nghi lễ,vốn văn học dân gian,tri thức dân gian về tự nhiênxã hội,về bản thân con người và tri thức sản xuất, khẩu vị ăn uống…
a) Tính cách.
 Người Huế gần gũi và thân thiện,ln nở nụ cười trên môi khi gặp
người khác.Du khách luôn nhận được sự quan tâm,hỏi han,giúp đỡ
mỗi khi gặp khó khăn.
 Kín đáo và trầm lặng.họ ít nói và hết sức kín đáo trong lời ăn tiếng nói
hàng ngày,khơng to tiếng.
20


 Người Huế đi ngủ sớm.Huế không sống nhiều về đêm như những
thành phố khác.Đường phố huế về đêm chủ yếu là khách du lịch và
sinh viên ngoại tỉnh.
 Người Huế sống hoài cổ và thủ cựu,thể hiện ở cách mà người huế
tiếp nhận cái mới,cái lạ.Tất cả những gì mới lạ du nhập vào huế cần
phải có thời gian dài,trải qua 1 quá thẩm thấu,chọn lọc kĩ thì cái đó
mới được người Huế đón nhận từ văn hóa ,nghệ thuật ,thể thao….Vì
Huế trong hơn 300 là thủ phủ của Đàng trong và hơn 140 năm là kinh
đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam nên văn hóa chịu
ảnh hưởng sâu sắc của chế độ phong kiến.
 Trang phục:quý trọng mái tóc và tà áo dài nhẹ nhàng , thanh thoát
 Người Huế sống nề nếp và gia phong.Người Huế sống rất có phép tắc
từ già tới trẻ, từ đàn ông đến đàn bà..tất cả đều tuân theo 1 khn phép
có trước.người già được kính trọng,người đàn ông-người chồng
,người cha là trụ cột gia đình.
 Người Huế sống tiết kiệm,chắt chiu.Người Huế không chịu ảnh
hưởng của văn hóa tiêu dùng phương tây.Người huế tiêu tiền rất cẩn
thận,tính tốn chi li,cân nhắc.Vì nơi đây thời tiết khắc nghiệt,khơng
thuận lợi trong phát triển kinh tế,thiên tai…vì vậy người Huế ln tích

trữ lương thực ,tiền bạc dự phịng.
 Cầu kì trong cách chế biến thực phẩm.Với quan niệm:ăn trước hết là
thưởng thức bằng mắt nên đồ ăn phải được trang trí hài hịa,đẹp mắt.
 Người huế sống thánh thiện,hiền lành ,thích làm việc thiện,thường
xuyên đi chùa lễ phật để tích đức cho con cháu.
 Người huế sống gần gũi với thiên nhiên.thể hiện qua lối kiến trúc nhà
vườn mà chỉ ở huế mới có.
2. Ngơn ngữ

21


 Người huế sử dụng thổ ngữ.Từ ngữ rất giản dị,mộc
mạc:mơ,tê,răng,rứa…Đối với người miền bắc ,miền nam thì tiếng
huế là 1 ngoại ngữ khó nghe và khó hiểu
như:ơng=ơn;u=ưng,khơng=khơn,…chính điều đó tạo nên 1 sắc thái
riêng,không pha tạp với ngôn ngữ của các vùng miền khác,tạo sự
hứng thú đối với du khách 4 phương.
 Ngơn ngữ huế khơng trịn vành rõ chữ nhưng giản dị,chân
phương,khơng kiểu cách,màu mè
 Nười huế cịn dung ca dao, tục ngữ để thể hiện ý nghĩ,tình cảm..
 Ăn nói nhẹ nhàng,tế nhị,khơng cọc cằn,thơ lỗ..
3. Trang phục.
 Người huế ăn mặc giản dị, tinh tế, kín đáo,không phô trương,
 Trang phục sử dụng màu sắc hài hịa, với những gam màu đặc trưng
để làm tơn lên nét nổi bật của phong cách Huế,con người huế.
 Trang phục con chịu ảnh hưởng bởi yếu tố lịch sử thời phong kiến.
 Nổi bật ,tạo nên nét đặc trưng ,biểu tượng của xứ Huế là trang phục
của người con gái Huế với chiếc áo dài tím và chiếc nón bài thơ
4. Tín ngưỡng.

 Phật giáo:hầu hết các làng ở huế đều có chùa.Huế có hơn 150 ngơi
chùa lớn,nhỏ.Phật giáo đóng vai trị quan trọng trong văn hóa dân
gian Huế.
 Tín ngưỡng thờ ơng bà tổ tiên.
 Tín ngưỡng thờ mẫu
 Nổi bật là “thiên tiên thánh giáo”:kết hợp giữa đạo giáo trung hoa
thối hóa vowistins ngưỡng thờ mẫu,và nhiều tơn giáo,tín ngưỡng
khác của người Việt.Là tín ngưỡng tự phát,tự túc và tự nguyện.Lễ
hơi quan trọng nhất của tín ngưỡng này là lễ hội điện Huệ Nam
22


được tổ chức vào ngày 3/7 âm lịch.là đại hội hầu bóng lớn nhất ở
huế.Để lại nhiều điểm sinh hoạt tín ngưỡng đặc sắc như: điện Huệ
Nam,tổng hội tiên thiên thánh giáo.( đường Chi Lăng-P.Phú HậuTP Huế)

D. Hệ thống cảnh quan thiên nhiên.
Huế không chỉ gắn liền với bề dày văn hóa lâu đời mà cịn nổi tiếng với cảnh quan
thiên nhiên xinh đẹp, hữu tình cùng quần thể di tích lịch sử được thế giới cơng
nhận.Vì lẽ đó, du lịch Huế luôn được biết đến như một điểm du lịch hấp dẫn đối
với du khách trong và ngoài nước.
I.

VỊNH LĂNG CƠ.

Với khơng gian hoang sơ của núi rừng và nhịp sống nhộn nhịp của vùng biển với
tấp nập tàu thuyền qua lại, Lăng Cô thực sự thu hút du khách ngay khi vừa đặt
chân đến. Đến đây, bạn sẽ chống ngợp trước hình ảnh bãi biển trong xanh màu
ngọc bích, bãi cát vàng thoai thoải, những mái nhà ngói đỏ nổi bật giữa làn sương
mỏng manh, những thuyền câu nhấp nhơ cùng tiếng sóng vỗ vào vách đá, tất cả đã

tạo nên một khung cảnh vô cùng ấn tượng và quyến rũ. Hịa mình vào thiên nhiên
giữa vịnh Lăng Cơ, du khách sẽ được thỏa thích tận hưởng bầu khơng khí trong
lành, giũ sạch mọi ồn ào, náo nhiệt chốn thị thành. Khơng chỉ đắm mình trong làn
nước biển mát rượi và phơi mình trên những bãi cát ấm áp, du khách cịn có thể tự
do khám phá nét sinh hoạt đời thường của người dân làng chài.
II.

BÃI BIỂN THUẬN AN.

Biển Thuận An với những con sóng vỗ hiền hịa mát lạnh là nơi sơng Hương đổ ra
phá Tam Giang rồi chảy ra biển Đông. Trong lịch sử, bãi biển này từng được vua
23


Thiệu Trị xếp là cảnh đẹp thứ 10 trong Thần kinh nhị thập cảnh. Điều này đã thu
hút ngày càng nhiều du khách đến với bãi biển Thuận An. Vào khoảng tháng 4 đến
tháng 9, khi tiết trời miền Trung trở nên nóng bức, du khách lại chọn Thuận An
làm nơi tránh nắng u thích của mình. Ngồi việc được thỏa sức thả mình trong
làn nước trong xanh, mát dịu, du khách đến đây cịn có thể th lều trại, ở hoang dã
ngay trên bãi biển để đêm đến đi dạo dọc bờ biển ngắm nhìn khơng gian n ắng,
ẩn chứa vẻ đẹp bình yên của biển. Đồng thời, thưởng thức hương vị thơm ngon của
những món hải sản đang nghi ngút tỏa hương trên bếp than đỏ rực sẽ khiến cho
chuyến đi của bạn trở nên thú vị.
III.

SÔNG HƯƠNG – NÚI NGỰ.

Là một trong những biểu tượng của xứ Huế, sơng Hương – núi Ngự được ví như
cặp tình nhân không thể tách rời, luôn luôn hiện hữu bên nhau. Nhắc đến hai địa
danh này, người ta thường nghĩ ngay đến một hình ảnh thơ mộng, trữ tình với con

sông uốn lượn quanh co giữa núi rừng, đồi cây rồi chầm chậm lướt qua các làng
mạc xanh tươi, rợp bóng cây như Vĩ Dạ, Ðơng Ba... Đối với khách du lịch Huế,
sơng Hương lúc nào cũng hiền hịa, êm ả với mặt nước trong vắt, dòng phẳng như
tờ, tạo nên cảm giác thư thái mỗi khi có dịp ngồi thuyền đi dạo trên sông. Khi đêm
về, ánh đèn điện phản chiếu dưới dòng nước làm cho khung cảnh trên sông Hương
trở nên huyễn hoặc và lung linh. Tuy nhiên, sông Hương sẽ càng quyến rũ hơn khi
đặt cạnh núi Ngự – ngọn núi hình cánh cung với bạt ngàn thơng xanh đang vi vu
hịa vào trong gió. Hai cảnh sắc tuyệt vời hịa vào làm một ln mang đến sức hấp
dẫn kỳ lạ mà du khách không thể rời đi.
IV.

ĐÈO HẢI VÂN.

Đèo Hải Vân thuộc dãy Trường Sơn, là ranh giới địa lý giữa tỉnh Thừa Thiên – Huế
và thành phố Đà Nẵng. Phía Đơng giáp với biển xanh mênh mơng; phía Tây lại là
núi non trùng điệp, đèo Hải Vân dài hơn 20 km và cao gần 500 m so với mực nước
24


biển. Du khách đến Huế hay Đà Nẵng đều thích thú khi được thong dong thưởng
ngoạn cảnh đẹp trên những con đường uốn lượn quanh đèo, tận hưởng khí trời lồng
lộng, từ trên cao phóng tầm mắt ra xung quanh ngắm bức tranh thiên nhiên hồnh
tráng.
Ngồi ra cịn có những danh lam thắng cảnh khác như: điện Hòn Chén,vườn quốc
gia Bạch Mã, bãi biển Thuận An, bãi biển Cảnh Dương, núi Túy Vân, phá Tam
Giang, thác A Nô...
V. VƯỜN QUỐC GIA BẠCH MÃ.
Bạch Mã là bức tranh hoành tráng được tạo bởi các dãy núi cao trùng điệp, trong
đỉnh Bạch Mã cao 1.450 m so với mực nước biển. Đây là nơi lý tưởng để bạn thư
giãn, chiêm ngưỡng phong cảnh đẹp và khám phá các đường mòn thiên nhiên tuyệt

vời.
Với khí hậu mát mẻ vào mùa hè chỉ từ 180C đến 230C, Bạch Mã đã nổi tiếng từ
những năm 1930 khi người Pháp xây dựng nơi đây thành khu nghỉ mát lý tưởng
với 139 khu biệt thự, khách sạn, chợ, bưu điện và các đường mòn khám phá thiên
nhiên. Ngày nay khu nghỉ mát Bạch Mã đang được hồ phục với nhiều khách sạn
mọc lên trên các biệt thự cũ, các dịch vụ du lịch hiện đại cùng sự tôn tạo và bảo tồn
các giá trị thiên nhiên, lịch sử nơi đây.
Đến với Bạch Mã, bạn sẽ được khám phá nhiều điều thú vị từ rừng núi, cỏ cây. Bạn
có thể hịa mình vào thiên nhiên hoang dã với những dòng suối, hồ nước mát lạnh
liên tiếp nhau ở Ngũ Hồ, chinh phục đỉnh cao Vọng Hải Đài và leo thác Đỗ Quyên
hùng vỹ với độ cao trên 300 m. Ngồi ra bạn cịn có thể khám phá nhiều điều mới
lạ và hấp dẫn khác ở các khu biệt thự cũ, rừng Chò đen bạt ngàn hay thác Trĩ Sao
hùng vỹ, ...
Bạch Mã được xem như là ngôi nhà chung của nhiều lồi động vật hoang dã q
hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng. Chính vì vậy, ngồi việc tổ chức phát triển du
lịch sinh thái, công tác bảo tồn các loài ở đây được đặt lên hàng đầu.
25


×