Chuyên đề: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN
1. Khái niệm
1.1. Phong cách văn học
Phong cách nghệ thuật là tính độc đáo có ý nghĩa thấm mĩ của một hiện tượng văn
học (nền văn học của một dân tộc, một thời đại văn học, một trào lưu văn học, sự nghiệp sáng
tác của tác giả…) Các yếu tố tạo nên phong cách văn học: hệ thống các hình tượng, các
phương thức biểu hiện nghệ thuật Phong cách văn học làm cho q trình phát triển của văn
học khơng phải là sự lặp lại nhàm chán mà là sự tiếp nối của những phát hiện nghệ thuật mới
mẻ, giàu ý nghĩa.
2. Phong cách nghệ thuật của nhà văn
Biểu hiện ở việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, con
người thơng qua những hình tượng nghệ thuật đôc đáo và những phương thức, phương tiện
biểu hiện đặc thù, in đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ, Hồi Thanh nói về phong cách nghệ thuật
của Xuân Diệu thời thơ mới: "Một tâm hồn mở rộng, một tấm lòng chào đón, một con người
ân ái đa tình… ham u, biết yêu…" (Lời tựa tập Thơ thơ - 1938) Những yếu tố tạo nên
phong cách nghệ thuật của tác giả: Yếu tố chủ quan (thế giới quan, tâm lí, cá tính sinh hoạt..),
khách quan (tác giả chịu ảnh hưởng từ phong cách văn học của một dân tộc, thời đại, trào lưu,
kiểu sáng tác Phong cách nghệ thuật của tác giả có sự thống nhất, lặp đi, lặp lại, có qui luật
của các yếu tố nghệ thuật trong một loạt tác phẩm.
3. Những biểu hiện của phong cách nghệ thuật
- Cách nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời - Giọng
điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác.
- Nét riêng trong lựa chọn đề tài, chủ đề, đối tượng miêu tả. - Tính thống nhất, ổn
định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật. 3. Phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân
3.1. Tiểu sử và con người
3.1.1. Tiểu sử
- Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội trong
một gia đình có truyền thống nho học lâu đời. Thân sinh ông là cụ Nguyễn An Lan đỗ tú tài
khoa thi Hán học cuối cùng gọi là cụ Tú Lan (tức cụ Tú Hải Văn). Cụ Tú Lan vốn là một nhà
nho tài hoa, tài tử có thái độ bất đắc trí với cái xã hội giao thời hết sức nhố nhăng. Tư tưởng
và cá tính của cụ có ảnh hưởng sâu sắc tới nghệ thuật Nguyễn Tuân sau này.
- Nguyễn Tuân tuy quê ở xã Nhân Mục (thường gọi nơm na là Mọc) thơn Thượng
Đình nay là phường Nhân Chính quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội, nhưng ơng ít khi ở q
mà thường sống với gia đình ở nhiều nơi như Khành Hịa, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh,
Thanh Hóa (vì cụ Tú Lan sau làm thơ toàn sứ). Năm 1929, học tại trường trung học ở Nam
Định, Nguyễn Tuân tham gia cuộc bãi khóa phản đối giáo viên người Pháp nói xấu người
Việt Nam. Ơng bị đuổi học và khơng được vào làm ở bất cứ một công sở nào lúc bấy giờ.
Vốn là người ham du lịch, ông đã rủ một số bạn bè vượt biên sang Lào rồi sang Thái Lan. Tới
Băng Cốc thì ơng bị bắt đem về giam tại Thanh Hóa. Ra tù ơng lại định đi tiếp một chuyến
vào Nam bộ nhưng mới tới Vinh thì lại bị bắt và đưa về quản thúc ở Thanh Hóa. Ông rơi vào
tình trạng khủng hoảng tinh thần và lao vào cuộc sống chơi bời trụy lạc.
- Hết hạn bị quản thúc, ông ra Hà Nội và bắt đầu đi vào sự nghiệp văn chương.
Đầu năm 1938, Nguyễn Tuân được một hãng phim Hồng Kông tuyển chọn vào làm diễn viên
cho bộ phim “Cánh đồng ma”. Cái thú xê dịch của ơng có điều kiện thực hiện. Năm 1941,
Nguyễn Tuân lại bị chính quyền thực dân bắt giam lần nữa vì lý do đã giao du với những
người hoạt động chính trị.
- Cuộc khởi nghĩa dành chính quyền tháng 8 năm 1945 và cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ như một cơn bão táp lớn đã cuốn theo hàng loạt van nghệ sĩ trong đó có
Nguyễn Tn. Ơng nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút xuất
sắc của nền văn học mới. Nguyễn Tuân ra nhập Đảng cộng sản Đông Dương năm 1950. Ông
giữ chức Tổng thư ký hội văn nghệ Việt Nam từ năm 1948 đến năm 1958. Ông mất ngày 28
tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa bậc nhất trong đội ngũ các nhà văn Việt
Nam hiện đại. Ông viết truyện ký, phê bình, hội họa, đóng phim, diễn kịch…. Ông là người
am hiểu về nghệ thuật ngôn từ, thông thạo về âm ngạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện
ảnh; sâu sắc về kiến thức địa lý, lịch sử, sinh học. Ông đã vận dụng tất cả vốn liếng đó đưa
vào các trang văn. Có lẽ vì thế mà ông không chỉ là nhà văn lớn mà còn là nhà văn hóa lớn.
Nguyễn Tuân được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
3.1.2. Con người
- Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Tuân là một trí thức tiểu tư sản chịu
nhiều ảnh hưởng của văn hóa tư sản phương tây, Nguyễn Tuân nhiều lần rơi vào tình trạng
hoang mang bế tắc trước hồn cảnh xã hội rối ren. Có lẽ vì thế mà con người Nguyễn Tuân đã
thể hiện nhiều diễn biến khá phức tạp nhất là về tư tưởng nghệ thuật: “Một mặt ông tuyên bố
tôn thờ quan điểm nghệ thuật thuần tuý không khuynh hướng, mặt khác lại tỏ ra không hề
dửng dưng với thời cuộc và qua tác phẩm bộc lộ rõ thái độ yêu ghét rõ rệt theo đạo lý của
một người yêu nước biết quý trọng “ thiên lương” và nhân cách con người. Một mặt muốn rút
lui vào cái tôi cá nhân kiêu ngạo, kín mít, mặt khác lai hăm hở lao vào cuộc sống thực, khát
khao tìm “ thực phẩm” cho tâm hồn mình ở cuộc đời rộng rãi ln ln biến đổi” (Nguyễn
Đăng Mạnh – Văn học Việt Nam 1945 -1975 TII – NXB GD 1990)
- Sự phức tạp của Nguyễn Tuân chính là sự thể hiện con người bất hịa với mơi
trường xã hội xung quanh. Ơng thể hiện sự bất hịa ấy bằng cách tầm thường hóa cái hiện tại,
đề cao cái quá khứ (hoài niệm, hoài cổ). Nguyễn Tuân bộc lộ sự bế tắc của mình trước thực
tại nhưng người đọc lại ghi nhận được tình cảm của ơng đối với đất nước với dân tộc. Ông
yêu truyền thống văn hóa, ngơn ngữ dân tộc chính là ơng u nước.
- Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, con người Nguyễn Tn khơng cịn đối lập
với thực tại. Tình u quê hương đất nước của ông trước cách mạng tháng tám giờ đây được
dịp bộc lộ trọn vẹn. Ông say sưa với mỗi bước đường cách mạng, ơng đắm chìm trong mỗi
miền đất mà ơng đã qua, ơng tìm cái mới giữa cuộc sống hiện tại mà ông được chứng kiến.
Ông dùng văn chương để ngợi ca cách mạng, ngợi ca đất nước.
- Tóm lại, Nguyễn Tuân là một con người có ý thức đề cao cái tơi cá nhân độc đáo,
có trách nhiệm đối với nghề nghiệp, có tình u đối với các di sản văn hóa, ngơn ngữ dân tộc.
Ông là một nhà văn yêu nước, yêu cách mạng.
3.2. Đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong Giáo trình lịch sử Văn học Việt Nam
1945 -1975 thì hạt nhân phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân “gói gọn trong một chữ ngơng”.
Cái “ngơng” vừa có mầu sắc cổ điển vừa có màu sắc hiện đại. Cổ điển vì nó tiếp thu truyền
thống bất đắc chí của các nhà Nho khơng gặp thời như Nguyễn Khuyễn, Tú Xương, Tản Đà
và trực tiếp là ông thân sinh ra Nguyễn Tuân (cụ Tú lan). Hiện đại vì nó của Văn học phương
tây. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 cái “ngông” của Nguyễn Tuân là những sự chống trả
nền nếp, phép tắc, đạo lý xã hội đương thời, thích làm những cái “Trái đời” khác người. Điều
này thể hiện rất rõ trong các sáng tác, các nhân vật của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng
8 năm 1945.
- Nhằm thỏa mãn nhu cầu chơi “ngơng”, Nguyễn Tn đã đẩy những sở thích,
những quan niệm của ông tới cực đoan, trở thành những nghịch lý, nghịch thuyết: từ lối sống
đến sáng tác. Cái độc đáo này một mặt phản ảnh tâm lý cá nhân bế tắc nhưng mặt quan trọng
hơn nó phản ánh cái khí tiết khắng khái của người trí thức u nước khơng chấp nhận chế độ
thực dân phong kiến, muốn tách mình ra khỏi cái xã hội ấy. Các nhân vật trong “Vang bóng
một thời”, “thiếu quê hương”, “Chiếc lư đồng mắt cua”,Nguyễn Tuân” là những ví dụ.
- Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, cái “Ngơng” của Nguyễn Tn khơng cịn lý
do để tồn tại vì cái “tơi” của ơng khơng cịn đối lập với xã hội. Ơng nhìn cuộc đời đôn hậu
hơn nhưng không phải đã mất đi cái khinh bạc. Sự kinh bạc ấy chỉ để ném vào mặt kẻ thù của
dân tộc hay những thói tiêu cực trong xã hội.
3.2.1. Chơi “ngông” không phải chỉ đơn thuần là làm khác người, khác đời. Làm
khác đời, khác người mà khơng tài thì bị coi là gàn dở. Làm khác đời, khác người mà có tài
thì có thể đặt mình lên trên thiên hạ và thiên hạ phải kính phục. Cái thú chơi “ngông” của
Nguyễn Tuân là như vậy, Nguyễn Tn có thể chơi “ngơng” được trong văn chương nghệ
thuật vì ơng là một cây bút phóng túng, tài hoa, uyên bác.
- Cái phóng túng của Nguyễn Tuân thể hiện trước hết trong máu giang hồ xê dịch cuả
ơng. Ơng thích đi vì đi để thay “thực đơn cho cảm giác”. Cảm giác dĩ nhiên là phải mới lạ,
bất ngờ, mãnh liệt. Trong “một lá thư không gửi” Nguyễn Tuân đã viết “tôi muốn mỗi ngày
trong cuộc sống của tôi, phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn”. Cái phóng túng
củaNguyễn Tn có được bởi ơng khơng bao giờ chấp nhận cái gì yên ổn, mực thước, khuân
phép. Theo ơng đã u thì phải mê đắm. đã ghét thì phải căm thù (Tóc chị Hồi, Những chiếc
ấm đất, Hà nội ta đánh Mỹ giỏi…) Cuối cùng cái phóng túng trong nghệ thuật Nguyễn Tuân
chính là ở thể tài. Ông viết tùy bút một văn thể mang tính chất tự do nhất, chủ quan nhất và
khó nhất. Nhưng Nguyễn Tuân đã rất thành công ở thể tài này. Đọc tùy bút của ơng có thể
nhận thấy một số đặc điểm: có yếu tố truyện, mang tính chất ký và rất giàu tính trữ tình. Ví
dụ Tùy bút Người lái đị sơng Đà có pha lẫn chất kí tài hoa, phóng túng.
3.2.2. Nguyễn Tuân là nhà văn có “nhỡn quan duy mỹ”. Nhà văn của cái đẹp.
Nguyễn Tuân có thói quen nhìn sự vật ở mặt mỹ thuật, cố tìm ra ở đấy những cái gì nên họa,
nên thơ. Có lẽ vì thế mà ta khơng bị bất ngờ khi mà ơng khám phá được vẻ đẹp văn hóa ở
những cái tưởng như tầm thường nhất. Chẳng hạn như cái ăn, cái uống đều được xem xét
khám phá từ góc độ nghệ thuật, góc độ văn hóa.
- Vốn là con người có “ nhỡn quan duy mỹ” nên các nhân vật mà Nguyễn Tuân xây
dựng thường tập trung vào cái loại người tài hoa, tài tử. Từ những ông Nghè, ông Cử, ông
Huấn Cao trong “Vang bóng một thời” ông Thông Phu, cô Đào Tâm trong “Chiếc lư đồng
mắt cua”… đến ơng lái đị trong “Người lái đị sông đà” anh bộ đội Tây Bắc… người nào
cũng đẹp Nguyễn Tuân là nhà văn của cái đẹp. Cái đẹp của ông trước cách mạng tháng 8 năm
1945 là cái đẹp “hồi niệm”, “hồi cổ” nó đối lập với thực tại cịn cái đẹp của ơng sau Cách
mạng tháng 8 hiện hình giữa đời thường và khơng đối lập với thực tại
3.2.3. Ngôn từ Nguyễn Tuân thường sử dụng là thứ ngơn từ giàu chất tạo hình, gợi
nhiều liên tưởng nhất. Đọc bât cứ tác phẩm nào của ông, người đọc không thể không dừng lại
để ngẫm nghị rồi chợt reo lên một cách thú vị khi phát hiện ra ý tưởng của nhà văn muốn gửi
gắm đằng sau mỗi câu chữ. Nhưng có lẽ sự uyên bác của Nguyễn Tuân còn là sự khám phá
phát hiện ra những cái kỳ diệu ẩn chứa bên trong mỗi sự vật, hiện tượng, chẳng hạn ơng phát
hiện ra lịng “biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục trong Chữ người tử tù, cách ngụy trang
bằng hoa đào, đuổi đánh giặc trong rừng đào anh bộ đội Tây Bắc; cái đẹp của chữ, của chiếc
lư đồng, của cây đào, của dịng sơng đà… Những vấn đề mà Nguyễn Tuân khám phá và phát
hiện ra thường là những cái đem lại cho người đọc nhiều bất ngờ. Chẳng hạn, như cái chất
thiên lương ở “chốn đề lao” ; chất văn hóa truyền thống, lịch sử trong trà, giò lụa, phở… Sự
uyên bác trong nghệ thuật của Nguyễn Tn chính là cái nhìn sự vật của ông bằng con mắt
của nhiều ngành khoa học khác nhau và nhiều ngành nghệ thuật khác nhau. Chẳng hạn trong
tùy bút “Người lái đị sơng đà” Nguyễn Tn đã sử dụng kiến thức của âm nhạc, hội họa, lịch
sử, địa lý, thể thao, quân sự, điện ảnh, kiến trúc, xây dựng… để miêu tả sự vật, hiện tượng.