Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tiểu luận đặc điểm ngôn ngữ trong báo chí nhập vai (immersion journalism)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.37 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................2
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ “IMMERSIVE JOURNALISM”........................3
1.1. Giải thích thuật ngữ................................................................................3
1.2. Giải thích khái niệm...............................................................................3
1.2.1. Virtual Reality - Công nghệ thực tại ảo...........................................3
1.2.2. Immersive Journalism.....................................................................4
1.3. Một số ví dụ về Immersive Journalism..................................................4
1.3.1. “Nạn đói ở Los Angeles” (Hunger in Los Angeles)........................4
1.3.2. “Dự án Syria” (Syria Project)..........................................................5
PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ SỬ DỤNG TRONG
“IMMERSIVE JOURNALISM”......................................................................6
2.1. Ngôn ngữ đa phương tiện, chân thực và sống động...............................6
2.2. Tương tác thời gian thực (real-time interactivity):.................................7
2.3. Ngơn ngữ phóng sự, điều tra..................................................................8
KẾT LUẬN.......................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................10

1


LỜI NĨI ĐẦU
Khơng thể phủ nhận rằng, báo chí ra đời và phát triển luôn dựa trên sự
ra đời và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ và văn minh nhân loại.
Báo in thực sự phát triển khi có sự ra đời của giấy viết và máy in, phát thanh
truyền hình xuất hiện từ sự phát triển của công nghệ số, báo mạng điện tử
cũng được khai sinh từ hệ thống mạng toàn cầu Internet. Và cuộc sống luôn
không ngừng vận động, cái mới lại ra đời thay thế hoặc bổ sung cho cái cũ.
Khi mà công nghệ thực tại ảo (virtual reality) phát triển, thì trên thế giới bắt
đầu hình thành một loại hình báo chí mới, được gọi trong tiếng anh là


“Immersive Journalism”. Loại hình báo chí này đã và đang tồn tại ở một số
nước phát triển như Mỹ, Anh, Tây Ban Nha và cả ở Tây Phi.
Ở Việt Nam, loại hình báo chí này cịn khá xa lạ và mới mẻ; nhưng
cơng nghệ thực tại ảo đã và đang dần được vận dụng và đưa vào phục vụ ở
nhiều lĩnh vực như: giáo dục, y học, sinh học, bảo tàng…Do đó, loại hình báo
chí này rất có thể sẽ là tương lai gần ở Việt Nam, nhất là với những ưu điểm
vượt trội của nó, nó đang trở thành xu hướng phát triển của nền báo chí hiện
đại.
Trong khn khổ tiểu luận, học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đặc
điểm ngôn ngữ trong báo chí nhập vai (Immersion Journalism)”, với hai nội
dung chính:
- Một là, nghiên cứu tổng quan về báo chí nhập vai (Immersion
Journalism), nhằm giải thích thuật ngữ, khái niệm và đặc trưng cơ
bản của loại hình báo chí này;
- Hai là, nghiên cứu các đặc điểm ngôn ngữ được sử dụng trong tác
phẩm báo chí nhập vai (Immersion Journalism).

2


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ “IMMERSIVE JOURNALISM”
1.1. Giải thích thuật ngữ
“Immersive” trong tiếng Anh nghĩa là “đắm chìm”. Thuật ngữ
“Immersive Jounalism” như trong Tạp chí Nhịp cầu đầu tư ngày 26/01/2015
là Báo “nhúng”, nghĩa là “nhúng” thông tin mặt báo vào đời thật. Về mặt bản
chất, có thể giải thích rõ ràng hơn như sau: “Immersive” là thuật ngữ được sử
dụng trong công nghệ thực tại ảo (virtual reality), trong đó nó được hiểu là
“nhập vai”. “Immersive Journalism” là báo chí nhập vai, nghĩa là ở đây cơng
chúng được trải nghiệm nhập vai trong chính bối cảnh (ảo) của sự kiện bài
báo (cần phân biệt với nghiệp vụ “nhập vai” trong báo chí điều tra).

Do chưa có một thuật ngữ tiếng Việt chính thức nào về hình thức báo
chí này, nên trong Tiểu luận, học viên xin phép được sử dụng nguyên từ tiếng
Anh “Immersive Journalism”, viết tắt là IJ.
1.2. Giải thích khái niệm
1.2.1. Virtual Reality - Cơng nghệ thực tại ảo
Cơng nghệ thực tại ảo (hay cịn gọi là Công nghệ thực tế ảo) là thuật
ngữ miêu tả một mơi trường mơ phỏng bằng máy tính. Đa phần các mơi
trường thực tại ảo chủ yếu là hình ảnh hiển thị trên màn hình máy tính hay
thơng qua kính nhìn ba chiều, tuy nhiên một vài mơ phỏng cũng có thêm các
loại giác quan khác như âm thanh hay xúc giác.
Nonny de la Pena là người tiên phong về công nghệ thực tại ảo, được
biết đến chủ yếu cho công việc của mình trong báo chí nhập vai. Bà là giám
đốc điều hành của nhóm Biểu tượng (Emblematic group) và hiện đang là
nghiên cứu viên cao cấp tại trường báo chí Annenberg, Đại học Nam
California, USA. Bà cũng là người trực tiếp sản xuất các tác phẩm báo chí
nhập vai nổi tiếng như: Nạn đói ở Los Angeles, Dự án Syria… sẽ được dẫn
chứng sau đây.
3


1.2.2. Immersive Journalism
Immersive Journalism, theo một nhóm nghiên cứu đến từ các trường
đại học của Mỹ, Tây Ban Nha, Israel và Anh (Do Nonny de la Pena dẫn
đầu),là sản phẩm tin tức dưới hình thức mà trong đó bản thân cơng chúng có
thể trải nghiệm là người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến (“first-person”)
trong chính các sự kiện hay tình huống được mơ tả trong bài báo.
Ý tưởng nền tảng của Immersive Journalism là cho phép công chúng
tham gia thực sự vào kịch bản ảo của sự kiện trong bài báo. Người tham gia
sẽ được hoá thân trên màn hình trình chiếu sự kiện (dưới dạng hiện thân số “digital avatar”) và quan sát thế giới từ vai trò nhân vật của sự kiện. Trong
một hệ thống Immersive , người tham gia sẽ trông thấy avatar của họ và trong

điều kiện lý tưởng, tuỳ thuộc vào phạm vi di chuyển của cơ thể, những
chuyển động của cơ thể ảo sẽ khớp với những chuyển động của cơ thể thực.
Công chúng có thể tham gia vào câu chuyện của bài báo dưới một trong
các hình thức sau: là chính bản thân họ, là một vị khách tham gia trực tiếp vào
phiên bản ảo của địa điểm nơi sự kiện xảy ra, hoặc từ bối cảnh của nhân vật
trong bài báo. Dù ở vị trí nào, thì người tham gia đều có khả năng truy cập
vào những cảnh tượng và âm thanh, thậm chí là những cảm giác và cảm xúc
kèm theo những tin tức sự kiện.
1.3. Một số ví dụ về Immersive Journalism
1.3.1. “Nạn đói ở Los Angeles” (Hunger in Los Angeles)
Bài phóng sự đề cập đến những vấn đề ngày càng tăng của nạn đói ở
khu vực Los Angeles. Phóng sự tái tạo lại một sự kiện có thực xảy ra tại một
điểm xếp hàng ở ngân hàng thực phẩm (food-bank) trong đó một người đàn
ơng đột nhiên bị đột quỵ do bệnh tiểu đường mà nạn đói gây ra. Những người
tham gia được hồn tồn đắm mình trong bối cảnh này, và cảm giác như chính
anh ta hoặc cô ta là một nhân chứng thực tế cho sự kiện này. Dự án này được

4


thực hiện bởi trường đại học Nam California và Học viên Công nghệ sáng tạo,
và đã được công chiếu tại Liên hoan phim Sundance năm 2012.

1.3.2. “Dự án Syria” (Syria Project)
Phóng sự tái tạo lại một khoảnh khắc ở thị trấn Aleppo, Syria. Người
xem thấy mình trên một góc phố. Một bé gái đang hát trên một con phố ở
Aleppo thì đột nhiên xảy ra một cuộc nã súng, gây ra sự hỗn loạn. Dự án được
thực hiện bởi Diễn đàn kinh tế thế giới và họ sử dụng phóng sự này nhằm
thúc đẩy hành động giữa các nhà lãnh đạo thế giới.


5


PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ SỬ DỤNG TRONG
“IMMERSIVE JOURNALISM”
2.1. Ngôn ngữ đa phương tiện, chân thực và sống động
Nếu như trong báo mạng điện tử hiện nay, ngôn ngữ báo chí đã được
coi là ngơn ngữ đa phương tiện với sự tham gia của cả chữ viết, hình ảnh
(động và tĩnh), âm thanh, tiếng động… và công chúng có thể tiếp nhận thơng
tin bằng cả ba cách đọc, nghe và xem; thì trong Immersive Journalism, ngơn
ngữ thơng tin cũng bao gồm các tín hiệu nói trên nhưng cơng chúng cịn được
tiếp nhận thơng tin bằng cơ quan xúc giác và cả cảm xúc của mình, bởi họ
như được tham gia chính vào thời điểm xảy ra sự kiện.
Immersive Journalism sử dụng chủ yếu là đồ hoạ 3 chiều nhằm mô
phỏng lại bối cảnh diễn ra sự kiện, trong đó các nhân vật cũng được mơ
phỏng lại theo khn mặt, hình dáng và hành động tương tự những nạn nhân,
người tham gia trực tiếp hoặc nhân chứng chứng kiến vụ việc. Âm thanh,
tiếng động cũng được mô phỏng lại theo đúng ở hiện trường (chẳng hạn như
bài hát của em bé Syria trước khi nổ bom, tiếng súng, tiếng người la hét…
trong tác phẩm Dự án Syria). Cũng bởi mơ phỏng lại hiện thực, hình ảnh và

6


tiếng động trong IJ mang tính chân thật và vơ cùng sống động. Bên cạnh đó,
trong tác phẩm có thể có cả những lời dẫn, lời bình.
Khi người xem đeo kính thực tại ảo (một cơng cụ để người xem sau khi
đeo lên mắt, có thể “đắm chìm” trong sự kiện), khi đó họ như đang xuất hiện,
đứng ở một góc hoặc ngay chính trung tâm của sự kiện, chứng kiến, thậm chí
sờ thấy như có thật, có thể xoay và di chuyển, và điều đó tạo nên một hiệu

ứng cảm xúc mạnh mẽ. Tác động đó thu hút người xem, khiến người xem
không thể rời khỏi bài báo và dành sự quan tâm đặc biệt cũng như sự đồng
cảm sâu sắc đối với những gì đang diễn ra trong sự kiện.
Trong một bài phỏng vấn, Nonny đã tâm sự rằng, có một người dùng
nói với bà, hai tuần liền sau khi trải nghiệm nhập vai, người đó vẫn cảm thấy
những ký ức về câu chuyện “trong chính cơ thể họ”. Đó chính là điểm thành
cơng khác biệt mà IJ đã mang lại, so với những bài báo, chương trình phát
thanh, truyền hình chỉ đọc, nghe hoặc xem bình thường.
Trong tương lai, các nhà nghiên cứu cũng đang tìm cách tạo những cảm
giác khác như ngửi, nếm trong thế giới ảo.
2.2. Tương tác thời gian thực (real-time interactivity):
IJ tạo ra một sự kết nối mạnh mẽ giữa công chúng với tác phẩm báo
chí. Thiết bị máy tính có khả năng nhận biết được tín hiệu vào của người sử
dụng và thay đổi ngay lập tức thế giới ảo. Người sử dụng nhìn thấy sự vật
thay đổi trên màn hình ngay theo ý muốn của họ và bị thu hút bởi sự mơ
phỏng này.
Có thể nói, một tác phẩm IJ tạo ra đỉnh cao về sự tương tác giữa công
chúng với tác phẩm báo chí. Cơng chúng có thể “du hành” vào bên trong thế
giới ảo tái tạo lại sự kiện. Sự “du hành” là khả năng người dùng di chuyển
khắp nơi một cách độc lập, giống như là đang ở bên trong một mơi trường
thật. Anh ta có thể đi lại ở bất cứ nơi đâu trong phạm vi, bối cảnh mà bài báo

7


dựng lại, để quan sát, chứng kiến đầy đủ mọi ngóc ngách, mọi khía cạnh của
vấn đề.
Khơng chỉ đi lại trong thế giới sự kiện, cơng chúng cịn có thể chạm
thấy, sờ thấy, và những hành động đó của người dùng, chúng ta cũng có thể
quan sát được họ đang thực hiện như thật trong hiện tại. Nhưng bản thân họ

đã quên mình đang đứng đâu trong thế giới thực, mà họ đang “đắm chìm”
trong thế giới ảo, nơi sự kiện, vấn đề đang được tái tạo lại.
Khi xem tác phẩm IJ “Use of Force” (Sử dụng bạo lực), một tác phẩm
vây quanh số phận một người Mexico vượt biên năm 2010 bị những người
lĩnh biên phòng Mỹ hành hung đến chết (sự kiện thực tế này được các nhân
chứng tại chỗ ghi lại bằng điện thoại và Nonny đã chuyển thể thành báo
nhúng), Malmo – một người xem cho biết: “Mặc dù đã biết đây là công nghệ
mô phỏng, nhưng rồi tôi cũng tự động chạy quanh, quan sát một sự kiện quá
sức tàn nhẫn và cảm thấy bứt rứt vì khơng thể la được gì cho người đó ngồi
việc đứng nhìn!”. Malmo nhận ra rằng chính mình đang là nhân chứng, cũng
sử dụng chính chiếc điện thoại đó, chạy loanh quanh giữa đám đơng để ghi lại
hình ảnh và cả những cảm xúc của mình và của nhân chứng thực tế, mà không
biết sự kiện đã diễn ra từ lâu.
2.3. Ngơn ngữ phóng sự, điều tra
Thực tế, cho đến thời điểm hiện tại, để tạo ra một tác phẩm IJ cần một
lượng thời gian khơng nhỏ, có thể một buổi, một ngày, thậm chí vài ngày nếu
là một sự kiện vô cùng phức tạp với nhiều bối cảnh, nhân vật đan xen. Do đó,
IJ khơng thể chạy theo những thơng tin nhanh, nóng hổi, tức thì, và cũng sẽ
rất lãng phí nếu dùng để mơ phỏng những thơng tin khơng mang tính thời sự
cao. Do đó, IJ thường chuyên sâu trong các mảng phóng sự, tường thuật, điều
tra với các sự kiện, vấn đề phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của
con người trên diện rộng, thậm chí trên tồn thế giới, như chủ đề chiến tranh,

8


khủng bố, bạo lực,…Do đó, ngơn ngữ tác phẩm ngồi tính khách quan, chân
thật cịn mang tính hàm súc và biểu cảm.

9



KẾT LUẬN
“Immersion Jounalism” thực sự vẫn đang là loại hình báo chí mới mẻ
khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn ở nhiều nước khác trên thế giới. Theo tìm hiểu
của học viên, thì ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơng trình nghiên cứu
khoa học nào về loại hình báo chí này.
Ở Phần 1- Tổng quan, học viên xây dựng nội dung dựa trên các tài liệu
tiếng Anh là cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ các trường
đại học trên thế giới. Ở Phần 2 – Đặc điểm ngơn ngữ, học viên chưa tìm được
một tài liệu nào chuyên biệt về vấn đề này (kể cả các tài liệu tiếng Anh), do
đó học viên đã tự đúc rút từ việc đọc tổng quát các tài liệu, quan sát các tác
phẩm Immersion Journalism điển hình như: “Hunger in Los Angeles”, “Syria
Project” và học hỏi từ các cuốn sách về ngơn ngữ báo chí ở Việt Nam, cũng
như từ quá trình giảng dạy của giảng viên ở trên lớp. Bài Tiểu luận chắc chắn
còn rất nhiều thiếu sót, nhưng học viên hi vọng rằng đây sẽ là những nghiên
cứu ban đầu và có thể đóng góp, dù là rất nhỏ, vào khoa học báo chí ở Việt
Nam. Học viên rất mong nhận được sự góp ý của thầy cơ để có thể hồn thiện
hơn trong những lần nghiên cứu tiếp theo.
Học viên xin chân thành cảm ơn!

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) “Công nghệ thực tế ảo là gì?”, Tài Phan, www.vtv.vn, ngày 04/4/2014;
2) “Báo nhúng: Cơng nghệ làm báo 2015”, www.nhipcaudautu.vn, ngày
26/01/2015;
3) “Immersive Journalism: Immersive Virtual Reality for the First Person
Experience of News”, a submission to the rave conference as a forum

article for presence: Teleoperators and virtual environments, Nonny de
la Pena and coworkers,
4) “A new virual reality tool brings the Daily Trâum of the Syrian War to
life”, Christopher Malmo, , 23/8/2014;
5) “Is Virtual Reality the future or Journalism?” , Beckett Mufson,
, 10/9/2014;

11



×