Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài soạn Tho ca lang man Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.66 KB, 10 trang )

GV: Bïi ThÞ t©n _ C¬ng S¬n
KHÁI QUÁT VỀ PHONG TRÀO THƠ MỚI 1932 - 1945
I. Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới .
Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo
bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là
“gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh - Hoài Chân xếp
đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932
khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài
tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của
Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu.
Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành
ba giai đọan

cơ bản sau:
1- Giai đoạn 1932-1935:
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài
khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy
Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối,
bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu
gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào
những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi
phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà,
Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ
mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và
sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.
Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới
với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …
2- Giai đoạn 1936-1939:
1
GV: Bïi ThÞ t©n _ C¬ng S¬n


Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên
nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn
như Xuân Diệu (tập Thơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê -1936, Đau thương
-1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn - 1937), Bích Khuê (Tinh huyết - 1939), … Đặc
biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa
mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn” (Hoài
Thanh). Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này.
Sự khẳng định của cái Tôi một cách mạnh mẽ đã khiến giai đoạn này diễn
ra phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Cái Tôi mang
màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả
về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng
là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng.
3- Giai đoạn 1940-1945:
Từ năm 1940 trở đi phong trào xuất hiện nhiều khuynh hướng sáng tác
khác nhau, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh
Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn
Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,…
Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc
cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai
cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc
lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và
bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận
những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới
mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.
II- Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới:
1- Tinh thần dân tộc sâu sắc
2
GV: Bïi ThÞ t©n _ C¬ng S¬n
Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời
kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ

1925 - 1931 (mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi
nghĩa Yên Bái). Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được “tung hoành hống hách những
ngày xưa” (Nhớ rừng); Huy Thông thì khát khao: “Muốn uống vào trong buồng
phổi vô cùng/Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”.
Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt.
Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước”
trong từng câu ca:
“Nằm trong tiếng nói yêu thương
Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”.
Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày
càng trong sáng và giàu có hơn.
Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của
người nghệ sĩ không được tự do (Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền
Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm) …
2- Tâm sự yêu nước thiết tha
Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ
mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng
trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp
(Em đi Chùa Hương); hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ
Huy Cận (Đẹp xưa); hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh
(Quê hương) v.v… Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng
quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,
Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến
nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê
hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.
3
GV: Bïi ThÞ t©n _ C¬ng S¬n
Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, phong trào Thơ mới còn
bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không
tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt

đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu
sau cách mạng tháng Tám.
III- Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới
1. Sự khẳng định cái Tôi
Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một
nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện
trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào Thơ mới, cái Tôi
ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là
sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa
chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.
Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu
hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của
thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người
bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước
ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong
trào thơ mới lên tiếng trước:
- “Tôi là con chim đến từ núi lạ …”, (Lời tựa tập Gửi hương cho gió)
- “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”… (Khi chiều giăng lưới)
Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!” (Tương tư chiều)
Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:
“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”. (Hy Mã lạp Sơn)
4
GV: Bïi ThÞ t©n _ C¬ng S¬n
“ Thơ mới là thơ của cái Tôi”. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng
cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn
mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
2 . Nỗi buồn cô đơn

Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ
mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc
nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa
tìm thấy lối ra”
6
.
Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng
thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với
hình ảnh:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
(Lưu Trọng Lư ).
Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” (tức dân Chàm):
“Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi”
Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác
gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu
ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau
buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút huy hoàng
rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ
mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng
với đời và với chính mình.
3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu
5

×