Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.46 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM MỸ DUNG

BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM MỸ DUNG



BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Thị Hương.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi xin chịu tồn bộ trách nhiệm nếu như
những lời cam đoan trên là sai sự thật.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Mỹ Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM .....................................................................................................................8

1.1. QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM ............................................................8
1.2. BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM ......................................21
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ
CỦA TRẺ EM ......................................................................................................32
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM
QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................38
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM Ở VIỆT NAM ......................................................................................38
2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .................................................................................................43
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................58
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM
QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................72
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................72
3.2. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM .......................................................................................................83
KẾT LUẬN ..............................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
UDHR

Ý nghĩa
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
(Universal Declaration of Human

Rights)

ICCPR

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân
sự và Chính trị (International
Covenant on Civil and Political
Rights, viết tắt: ICCPR)

ICESCR

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh
tế, Xã hội và Văn hóa (International
Covenant on Economic, Social and
Cultural Rights)

CRC

Công ước Quốc tế về quyền trẻ em
(Convention on the Rights of the
Child)

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế
(International Labour Organization)


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Số hiệu biểu đồ
Biểu đồ 2.1

Tên biểu đồ

Trang

Điều trẻ em sợ khi gặp gỡ,

55

trả lời phỏng vấn báo chí


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Xã hội nào cũng đặt nhiều kì vọng ở lớp người trẻ tuổi. Trong bức thư
gửi thanh niên và nhi đồng cả nước nhân dịp Tết Nguyên đán năm 1946, ngay
sau thời điểm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi
trẻ là mùa xuân của xã hội”. Qua đó, có thể thấy được vị thế và vai trị vơ
cùng quan trọng của thế hệ trẻ hiện nay. Trẻ em – thế hệ mang trên vai trọng
trách là những vị chủ nhân của tương lai, có sứ mệnh kế thừa và phát huy
truyền thống quý báu của quốc gia, của dân tộc. Bằng tài năng và trí tuệ của
mình chắp nên những ngòi bút lịch sử ghi dấu ấn quan trọng, khẳng định vị
thế của quốc gia, của dân tộc trên sa trường quốc tế.
Tuy nhiên, trẻ em cũng thuộc nhóm người dễ bị tổn thương cần nhận
được sự định hướng và quan tâm đúng mức. Đó khơng phải là vấn đề độc lập,
riêng biệt của bất kì quốc gia nào mà phải được xác định là vấn đề trọng tâm
với sự ủng hộ và thống nhất liên quốc gia. Qua vấn đề bảo vệ quyền trẻ em,

chúng ta có thể đánh giá được trình độ văn minh và phần nào bản chất của
một xã hội. Giai đoạn hiện nay, vấn đề này đã và đang được cộng đồng quốc
tế dành sự quan tâm xứng đáng. Năm 1989, Công ước Liên hợp quốc về
Quyền Trẻ em ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em. Công ước này
thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em, là
điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh
phúc, u thương và cảm thơng. Trong tồn bộ các quyền đã được ghi nhận
cụ thể trong Công ước, thì quyền riêng tư là một quyền trừu tượng, nhạy cảm
dễ bị bỏ qua song lại đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Là trách nhiệm của
toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi giúp trẻ được học tập, rèn luyện, phát triển
nhân cách trong mơi trường an tồn, lành mạnh.

1


Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường song hành với đó
là xu hướng phát triển bùng nổ của các cuộc đại cách mạng về công nghệ và
thơng tin. Truyền thơng đóng vai trị tích cực có nhiệm vụ kết nối cơng dân
tồn cầu hồ nhịp chung trong thế giới phẳng. Mặt khác, tiềm tàng nội tại là
vấn đề bí mật riêng tư có nguy cơ dễ dàng bị tiết lộ. Trong bối cảnh chung
này, trẻ em là đối tượng dễ bị xâm phạm về quyền riêng tư dưới nhiều hình
thức khác nhau bởi các em còn nhỏ tuổi, chưa ý thức được về các quyền của
bản thân và cũng thiếu khả năng tự bảo vệ khi bị xâm phạm quyền riêng tư.
Tôn trọng những điều riêng tư của trẻ, chính là tơn trọng nhân cách, sự phát
triển lành mạnh của trẻ. Các nhà tâm lý học giáo dục đã cảnh báo, nhiều trẻ bị
tổn thương nặng nề, nhiều em mất cơ hội học tập, sống không yên ổn sau khi
bị xâm phạm thô bạo về quyền riêng tư.
Việt Nam đã ký kết và tham gia các tuyên ngôn, công ước của Liên hợp
quốc về quyền con người, trong đó những văn bản đề cập đến quyền riêng tư
và quyền riêng tư của trẻ em có: Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính

trị (ICCPR - Việt Nam tham gia ngày 24-12-1982); Công ước quốc tế về
quyền trẻ em 1989 (CRC - Việt Nam tham gia ngày 26-1-1990, phê chuẩn
ngày 28-2-1990).
Luật Trẻ em năm 2016, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thơng
qua bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/06/2017, quy định về quyền riêng tư của
trẻ em. Cụ thể, tại Điều 21 về “Quyền bí mật đời sống riêng tư” quy định: “1.
Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. 2. Trẻ em được pháp luật bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thơng tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp
trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”. Khoản 11, Điều 6 về “Các hành vi bị
nghiêm cấm” quy định cụ thể một trong các hành vi đó là: “Công bố, tiết lộ

2


thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự
đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ
em” [25].
Mặc dù vậy, trên thực tế quy định mới về quyền riêng tư còn của trẻ em
vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của cộng đồng và gây nhiều khó
khăn, vướng mắc trong thực thi, nên chưa đạt được hiệu quả thực sự. Tuy
nhiên, ở một góc độ khác, lại là hồi chuông cảnh tỉnh với cộng đồng về những
hành động “lợi bất cập hại” gây ảnh hưởng đến trẻ, khi thơng tin bị rị rỉ, tạo
điều kiện cho các đối tượng tiêu cực sẽ diễn ra hệ lụy rất khôn lường. Chính
vì vậy mà việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trong
các lĩnh vực quan hệ xã hội, trên cơ sở hành lang pháp lý tìm ra những khó
khăn, vướng mắc khi áp dụng những quy định này trên thực tế; từ đó đề xuất
những giải pháp để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật với vấn đề bảo
vệ quyền trẻ em, nhằm bảo vệ quyền của trẻ trong gia đình trước diễn biến

phức tạp của xã hội là rất cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này,
tác giả lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện
nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tình hình nghiên cứu bảo đảm quyền trẻ em hiện nay trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng nhận được sự quan tâm và diễn ra rất phổ biến.
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, các dự án hay những báo cáo về bảo đảm
quyền của trẻ.
Tuy nhiên nghiên cứu một cách hệ thống trên góc độ Luật học riêng về
nhóm quyền riêng tư của trẻ em thì tại Việt Nam chưa có cơng trình nghiên
cứu cụ thể. Quyền riêng tư của trẻ được lồng ghép với những báo cáo thường
niên của Việt Nam với Liên hợp quốc về việc thực hiện Công ước về quyền

3


trẻ em năm 1989. Ở cấp độ luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ có một số tác
giả nghiên cứu về quyền trẻ em. Bao gồm:
- Luận án Tiến sĩ “Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ
em trên mạng Internet” năm 2008 của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Tường,
Học viện Tâm lý, Đại học Tây Nam, Trung Quốc. Tuy nhiên, luận án chỉ
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ trên lĩnh vực chịu ảnh
hưởng của Internet chứ không đề cập ngoài phạm vi chịu sự tác động của toàn
bộ các thiết chế trong đời sống xã hội [28].
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của học viên Nguyễn Thị Huyền Trang,
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014 về vấn đề “Quyền được bảo
vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”. Luận văn nghiên
cứu những vấn đề xung quanh quyền được bảo vệ đời tư dưới góc độ luật
nhân quyền được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Nghiên cứu chung chung vấn đề bảo đảm quyền riêng tư cho tồn bộ các đối

tượng chứ khơng đi sâu phân tích về trẻ em – nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương [30].
- Luận án Tiến sĩ “Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt
Nam” năm 2016 của nghiên cứu sinh Phạm Thị Hải Hà, Học viện Hành chính
quốc gia. Luận án nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
trẻ em của Việt Nam. Nhưng khơng đi sâu phân tích cụ thể về quyền riêng tư
của trẻ mà nghiên cứu tổng thể tất cả quyền của trẻ em [9].
Như vậy, vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam cũng đã
được một số tác giả đề cập đến nhưng vẫn là những nghiên cứu chung, chưa
mang tính cụ thể riêng cho lĩnh vực này.
Luận văn của tác giả sẽ là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu
tiên và là một cơng trình nghiên cứu độc lập có tính hệ thống thơng qua lăng

4


kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về quyền riêng tư, nhận định được
tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em, trên cơ sở đó,
đưa ra những phương hướng và giải pháp phù hợp để bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa sơ sở lý luận về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em
thông qua việc làm sáng tỏ những khái niệm trẻ em, khái niệm quyền riêng tư
của trẻ em và khái niệm đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em cũng như các yếu
tố và thiết chế bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em.
+ Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật và thực

trạng bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế đó.
+ Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt
Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Các hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
+ Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam

5


+ Về thời gian: Từ khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lenin; các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; các quan điểm về quyền
riêng tư của trẻ em Việt Nam nói riêng và trẻ em nói chung trên thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, đánh giá... để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, đồng
thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền
riêng tư của trẻ em. Cụ thể:
Chương 1: Sử dụng những phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để

làm rõ hơn phần lý luận của đề tài.
Chương 2: Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để đánh giá
thực trạng pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em và thực tiễn bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt
Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền riêng tư của trẻ
theo pháp luật Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung
cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới
góc độ quyền con người về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ; giúp người đọc
nhận thức đầy đủ và tồn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về quyền và bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em.

6


- Luận văn cũng nêu bật được hiện trạng về vấn đề quyền riêng tư của
trẻ em Việt Nam đang rất dễ bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu
thực trạng của việc đảm bảo quyền của trẻ em, rút ra nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là
cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh
viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến bảo
vệ quyền riêng tư của trẻ em. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm 3 phần chính: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Trong
đó phần nội dung bao gồm các chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em ở Việt Nam hiện nay

7


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
1.1. QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
1.1.1. Quan niệm về trẻ em
Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử
dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1
Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em (United Nations Convention
on the rights of the child - CRC) có quy định như sau: Trong phạm vi của
Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn [8]. Và tại Điều
2 trong Công ước số 182 - Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xố
bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: Trong
Cơng ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18
tuổi [31].
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em được quy
định trong nhiều văn bản luật và dưới luật, nhưng không có sự thống nhất, rõ
ràng, thậm chí cịn chồng chéo nhau khi định nghĩa về độ tuổi của trẻ em, đến
khi nào thì khơng cịn là trẻ em. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cụ thể:

Theo Điều 1 Luật Trẻ em của Việt Nam năm 2016 quy định: “Trẻ em là
người dưới 16 tuổi”. Như vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật Trẻ em của
Việt Nam vênh tới 2 tuổi so với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em [25].
Theo Điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 quy định thì: “Thanh niên quy
định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi
tuổi” [19].
Trong khi đó, Điều 20 và Điều 21, Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Người
từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi

8


là người chưa thành niên. Với quy định này, có thể hiểu rằng, người chưa đủ
mười tám tuổi là người chưa trưởng thành, tức cũng có nghĩa là người chưa
đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em [24].
Khoản 1, Điều 3 Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định về người lao động
như sau: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động” [20]. Theo quy định trên thì người lao
động có thể là người chưa thành niên, nói cách khác là có thể vẫn cịn là trẻ
em.
Điểm a, khoản 1, Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 cũng xác
định đối tượng xử phạt hành chính phải từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành
chính về mọi vi phạm hành chính” [21]. Quy định này đồng nghĩa với việc coi
trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung.
Cách đây hơn 25 năm, vào ngày 20/02/1990, Việt Nam đã chính thức trở
thành nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên

thế giới đã ban hành Luật Trẻ em. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam lại là nước
còn lại duy nhất trong khối ASEAN; thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới
chưa nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18. Việc quy định không thống nhất,
không rõ ràng về độ tuổi trẻ em như trên đã gây ra khơng ít khó khăn, bất cập
trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em.
Trước thực tế này, thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đã tiến hành lấy ý kiến các cơ quan chức năng và trẻ em về việc sửa đổi Luật
Trẻ em bổ sung, hoàn thiện dựa trên những quan điểm đem lại lợi ích tốt nhất

9


cho trẻ em. Một trong những chế định được đề xuất sửa đổi đó là quy định
nâng độ tuổi của trẻ em Việt Nam từ 16 tuổi lên 18 tuổi. Quy định này nhằm
bảo đảm phù hợp hơn với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, phù hợp với
quy định về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013.
Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em quy định thì trẻ em là người
dưới 18 tuổi. Qua khảo sát của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc tại Việt Nam
cho thấy: ở châu Á chỉ có Việt Nam, Myanmar, Singapore cịn quy định tuổi
của trẻ em thấp hơn 18. Campuchia và Lào đã quy định tuổi trẻ em dưới 18
tuổi. Myanmar đang sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng nâng độ tuổi trẻ em lên
18 tuổi... Tuy nhiên, hiện nay, bên cạnh một số luật, văn bản luật chưa có sự
thống nhất về độ tuổi trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, thì cũng có
một số luật đã quy định ngưỡng thành niên và chưa thành niên là 18 tuổi như:
Luật Hơn nhân và gia đình, Luật Nghĩa vụ qn sự, Luật Bầu cử Quốc hội,
Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân và đặc biệt là những quy định của Hiến pháp
năm 2013, tại Điều 27 và Điều 29 quy định về việc: Cơng dân đủ 18 tuổi trở
lên có quyền bầu cử, công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi

Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân... Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp
năm 2013, nếu quy định tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi và công dân từ đủ 18 tuổi
là người thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực dân sự, sẽ bảo
đảm và củng cố tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam về ngưỡng
tuổi trưởng thành đầy đủ, tức là tuổi thành niên và chưa thành niên.
Theo kết quả nghiên cứu về “Nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên dưới
18 trong bối cảnh Việt Nam hiện nay - lợi ích, tác động và một số giải pháp”
do Hội Bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Plan tại Việt
Nam thực hiện đã chỉ rõ, về cơ sở khoa học, tâm sinh lý của trẻ em từ 16 - 18
tuổi cịn non nớt, chưa hồn thiện, có những thay đổi lớn trong giai đoạn

10


chuyển tiếp từ trẻ em lên người trưởng thành với nhận thức xã hội, hành vi
chưa chín chắn. Do vậy, trẻ em trong lứa tuổi này thường dễ bị tổn thương, dễ
bị lợi dụng và lệch lạc về hành vi, thái độ, nhận thức; đồng nghĩa với việc dễ
bị vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp cũng như có nguy cơ thực hiện các hành
vi trái pháp luật khá cao [10].
Theo đó, ngồi việc bảo đảm quyền của trẻ em là cơng dân Việt Nam,
Việt Nam cịn ghi nhận các quyền trẻ em đồng thời là quyền con người của
mọi trẻ em, không phân biệt quốc tịch và đang sinh sống tại Việt Nam. Khi
tăng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi thì trẻ em sẽ là người được hưởng lợi rất nhiều.
Đồng thời, việc nâng độ tuổi của trẻ em cũng sẽ mở rộng phạm vi áp dụng
quyền trẻ em đối với người chưa thành niên trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho các em phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh
thần, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong tương lai. Việc
nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18 tuổi cũng không vi phạm quyền, nghĩa
vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; ngược lại,
đây là cách Việt Nam thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm và

thực hiện quyền trẻ em; đồng thời khẳng định vai trị tích cực, chủ động của
Việt Nam trong quá trình hội nhập các thể chế khu vực và quốc tế nhằm xây
dựng, hoàn thiện cơ chế thúc đẩy quyền con người trong đó có quyền trẻ em.
1.1.2. Quan niệm về quyền trẻ em
1.1.2.1. Khái niệm về quyền trẻ em
Từ lâu trẻ em đã được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
nhất và được các nhà nước, các cộng đồng quan tâm bảo vệ. Trong thời kỳ
trước đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ trẻ em về cơ bản xuất phát từ các
góc độ tình thương, lịng nhân đạo hoặc/và sự che chở chứ khơng phải dưới
góc độ nghĩa vụ bảo vệ quyền. Do vậy, việc bảo vệ trẻ em ở thời kỳ trước về

11


cơ bản chưa mang tính phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc về nghĩa
vụ với mọi đối tượng trong xã hội.
Phải đến đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới được
đề cập sau một loạt biến cố quốc tế lớn mà đặc biệt là cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1914-1918). Cuộc chiến tranh này đã khiến rất nhiều trẻ em
ở châu Âu bị rơi vào hồn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ cơi khơng nơi
nương tựa, đói khát, bệnh tật và thương tích... Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc
thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thuỵ Điển
vào năm 1919. Vào năm 1923, bà Eglantyne Jebb - người sáng lập Quỹ cứu
trợ trẻ em của nước Anh năm 1919 - đã soạn thảo một bản Tuyên bố gồm 7
điểm, trong đó kêu gọi thừa nhận và bảo vệ các quyền của trẻ em. Vào năm
sau (1924), bản Tuyên ngôn này được Hội quốc liên thông qua (gọi là Tuyên
ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em). Sự kiện này có thể coi là mốc đánh dấu thời
điểm thuật ngữ “quyền trẻ em” lần đầu tiên được nêu chính thức trong pháp
luật quốc tế, đồng thời, cũng là mốc đánh dấu một bước ngoặt trong nhận
thức và hành động bảo vệ trẻ em trên thế giới. Sự ra đời của khái niệm quyền

trẻ em đã mở rộng cơ sở của các hoạt động bảo vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo
đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý, bác bỏ hồn tồn quan niệm trước đây coi
trẻ em như là những đối tượng hồn tồn phụ thuộc, thậm chí, là một dạng
“tài sản” của các bậc cha mẹ. Điều này là bởi một khi trẻ em được coi là một
chủ thể của quyền, các hành động liên quan đến trẻ em sẽ khơng cịn đơn
thuần đặt trên nền tảng của tình thương, lòng nhân đạo hay sự che chở nữa,
mà còn là nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, kể cả các bậc cha mẹ. Sau
khi được thành lập, Liên hợp quốc đã đưa vấn đề quyền trẻ em phát triển lên
một bước ngoặt mới. Với mệnh đề mở đầu phổ biến trong Tun ngơn tồn
thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước về các quyền dân sự,
chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966 là mọi người có

12


quyền hoặc bất cứ người nào đều có quyền... trẻ em được thừa nhận là chủ thể
bình đẳng với người lớn trong việc hưởng tất cả các quyền và tự do cơ bản
được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế. Tuy nhiên, như đã đề cập ở
trên, cách tiếp cận “cào bằng” vị thế chủ thể của quyền giữa người lớn và trẻ
em cũng khơng hồn tồn phù hợp, do đặc trưng của trẻ em là còn non nớt cả
về thể chất lẫn tinh thần. Bởi vậy, ngay trong UDHR, ICCPR và ICESCR, trẻ
em đã được ghi nhận những quyền đặc thù, đặc biệt là quyền được chăm sóc,
giáo dưỡng và được bảo vệ đặc biệt [12].
Dựa trên cách tiếp cận đó, năm 1959, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
thông qua một văn kiện riêng về quyền trẻ em (Tuyên bố của Liên hợp quốc
về quyền trẻ em). Tuyên bố này là tiền đề để Liên hợp quốc xây dựng và
thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC) vào ngày 20-11-1989. Tính đến
thời điểm hiện nay, CRC vẫn là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về
quyền trẻ em. Mặc dù vậy, đây không phải là văn kiện quốc tế duy nhất về
vấn đề này.

Theo các chuyên gia về quyền trẻ em, có bốn nguyên tắc cơ bản làm nền
tảng cho CRC, đó là:
- Trẻ em cũng là những con người: Nguyên tắc này xác định vị thế bình
đẳng của trẻ em với người lớn về phương diện chủ thể của quyền. Nó khẳng
định trẻ em cũng có những giá trị như người lớn và do đó, phải được cơng
nhận và bảo vệ các quyền ngay từ giai đoạn thơ ấu;
- Không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này hàm ý rằng tất cả trẻ em trên
thế giới đều được hưởng các quyền quy định trong CRC, bất kể dân tộc,
chủng tộc, giới tính, tơn giáo, dịng dõi gia đình, tài sản...
- Lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em: Nguyên tắc này đòi hỏi trong mọi
hoạt động có liên quan đến trẻ em, Nhà nước, các bậc cha mẹ và các chủ thể
khác phải lấy lợi ích của trẻ em là mục tiêu hàng đầu;

13


- Tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em: Nguyên tắc này nhằm bảo đảm
rằng trẻ em thực sự là chủ thể của quyền. Nó địi hỏi các chủ thể khác phải
tôn trọng các quyền tự do ý kiến, tự do diễn đạt, tự do tơn giáo, tín ngưỡng và
tự do lập hội của trẻ em.
Dựa trên cơ sở bốn nguyên tắc cơ bản làm nền tảng của CRC “Trẻ em
cũng là con người”. Vì vậy, khi nói đến Quyền trẻ em là nói đến những địi
hỏi cơ bản và chính đáng của một con người. Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ
mà người khác phải tôn trọng, bảo vệ và đáp ứng. Quyền của trẻ em được
công nhận về phương diện pháp lý. Đây là quyền bất khả xâm phạm, áp dụng
với mọi trẻ em, có sự phụ thuộc ràng buộc liên quan và khơng thể tách rời.
Có rất nhiều quan niệm về quyền trẻ em, một số nhà nghiên cứu cho
rằng khái niệm về quyền trẻ em đến thời điểm hiện tại vẫn không được định
nghĩa rõ ràng, với ít nhất một đề xuất rằng khơng có định nghĩa hay lý thuyết
về quyền của trẻ em được chấp nhận là duy nhất. Theo Bách khoa toàn thư

mở Wikipedia Tiếng Việt: “Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để
được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm
đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của
người lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình
phát triển. Bao gồm quyền được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt mà mọi người,
mọi gia đình dành cho trẻ em và cả quyền được cha mẹ ruột yêu thương, cũng
như những nhu cầu căn bản: được ăn uống, được giáo dục phổ quát do nhà
nước trả tiền, được chăm sóc sức khoẻ và các điều luật hình sự thích hợp với
độ tuổi và sự phát triển của trẻ em” [41].
1.1.2.2. Đặc điểm về quyền trẻ em
Đặc điểm thứ nhất là tính đặc thù của đối tượng sở hữu quyền. Trẻ em là
những người chưa thực sự trưởng thành về mọi mặt, từ thể chất cho đến trí
tuệ cũng như năng lực hành vi dân sự. Vì thế trách nhiệm của cha mẹ cùng

14


tồn xã hội là bảo vệ và chăm sóc trẻ em, thực hiện các quyền trẻ em, có
quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp với từng giai
đoạn phát triển tâm lý của trẻ.
Đặc điểm thứ hai, quyền trẻ em được hình thành trên một số nhu cầu cơ
bản có tính thiết yếu đối với sự phát triển của trẻ em. Ví dụ như: Trẻ em có
quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và
phát triển; Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên
tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh; Trẻ em có
quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng của bản thân; Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Trong q trình nghiên cứu, vẫn cịn có sự nhầm lẫn cơ bản giữa
“Quyền” và “Nhu cầu” của trẻ em. Tuy nhiên quyền trẻ em có những đặc

điểm riêng biệt để phân biệt giữa quyền trẻ em và nhu cầu của trẻ em thông
qua các tiêu chí sau đây:
Tiêu chí
Tính chất
Phạm vi
điều chỉnh
Đối tượng
điều chỉnh
Yêu cầu
được ghi
nhận
Trách
nhiệm
pháp lý

Nhu cầu
Khác nhau với những nhóm
người khác nhau, trong thời điểm
khác nhau, tại các hồn cảnh
khác nhau.
Khơng có giới hạn cụ thể.
Một số người, nhóm người có
thể bị bỏ qua

Quyền
Những thứ cơ bản, chính
đáng; là một phần trong số
các nhu cầu.
Thiết yếu phải được đáp ứng
với tất cả mọi người

Mọi người có quyền bình
đẳng như nhau

Được nhận

Địi hỏi tất yếu và phải được
công nhận

Không quy định rõ ràng về bên
chịu trách nhiệm

Quy định rõ ràng về nghĩa vụ
và trách nhiệm

15


Đặc điểm thứ ba, quyền trẻ em gắn với nghĩa vụ, bổn phận cụ thể của trẻ
em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân được nhà nước bảo vệ và tạo
điều kiện bảo đảm thực hiện.
Trước hết, khác với các chủ thể khác, khi mà các bên chủ thể tham gia
quan hệ ln có quyền và nghĩa vụ tương ứng. Trong việc thực hiện quyền trẻ
em, trẻ em ln đóng vai trị lệ thuộc sự định hướng của người lớn. Trẻ em
tham gia vào trách nhiệm đạo lý nhiều hơn là pháp lý.
Bên cạnh đó, giữa các quyền và bổn phận của trẻ em có sự tương hỗ lẫn
nhau. Tuy nhiên trong mối quan hệ này quyền trẻ em không trực tiếp làm phát
sinh nghĩa vụ pháp lý của bản thân trẻ em mà lại làm phát sinh nghĩa vụ và
trách nhiệm của người lớn. Là trách nhiệm bảo đảm cho các em thực hiện các
quyền và định hướng uốn nắn trẻ thực hiện bổn phận của mình.
Ngồi ra, mối quan hệ quyền và bổn phận chịu ảnh hưởng của những

mối quan hệ khác phát sinh trong quá trình thực hiện các chức năng quản lý
Nhà nước đối với toàn xã hội, và việc bảo vệ quyền trẻ em được thực hiện
bằng chính việc tăng cường hiệu quả của các cách thức và trách nhiệm thực
hiện quyền.
1.1.3. Quyền riêng tư của trẻ em
1.1.3.1. Khái niệm và đặc điểm
Đời sống riêng tư của cá nhân là những thông tin, tư liệu được giữ kín,
khơng cơng khai, khơng tiết lộ ra. Có nhiều ý kiến cho rằng “Tư – có nghĩa là
riêng, việc riêng, của riêng”. Như vậy, có thể hiểu những thông tin liên quan
đến đời sống riêng tư là những thông tin liên quan đến một cá nhân cụ thể, đó
là những gì thầm kín của cá nhân mà họ giữ bí mật. Đó có thể là các thông tin
liên quan đến các yếu tố như tinh thần, vật chất, các quan hệ xã hội.
Trong tất cả các quyền con người, quyền riêng tư là một khái niệm trừu
tượng và khó định nghĩa rõ ràng nhất. Các định nghĩa về quyền riêng tư rất

16


khác nhau tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia và nền văn hóa. Ở nhiều
nước, khái niệm này đã được hợp nhất với khái niệm bảo vệ dữ liệu cá nhân,
trong đó sự riêng tư chính là việc quản lý thông tin cá nhân. Trong bối cảnh
hiện nay, bảo vệ sự riêng tư thường xuyên được xem như là một cách để
hướng dẫn xã hội hạn chế can thiệp vào công việc của cá nhân [39].
Việc thiếu một định nghĩa duy nhất khơng có nghĩa là vấn đề thiếu tầm
quan trọng, vì “theo một nghĩa nào đó, tất cả các quyền con người đều có khía
cạnh của quyền riêng tư” [42].
Trong những năm 1890, Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho rằng, khái niệm về
sự riêng tư là “quyền được ở một mình”. Thẩm phán Brandeis cho rằng,
quyền riêng tư là quyền tự do dân chủ được mong đợi nhất, nó sẽ được ghi
nhận trong Hiến pháp [40]. Mặc dù tính pháp lý của quyền riêng tư chỉ được

thừa nhận từ năm 1948, nhưng khái niệm quyền riêng tư và những quan điểm
xoay quanh nó đã ra đời trước đó rất lâu.
Robert Ellis Smith, biên tập viên của Tạp chí Bảo mật, xác định quyền
riêng tư là “những mong muốn của mỗi người chúng ta cho không gian vật lý
mà chúng ta có thể hồn tồn khơng bị gián đoạn, xâm nhập, bối rối, hoặc
chịu trách nhiệm và kiểm soát được thời gian và cách thức tiết lộ thông tin
của cá nhân thông tin về bản thân” [38]. Tom Gerety lại cho rằng, quyền riêng
tư như là “quyền tự chủ hay kiểm soát các giá trị nhân thân và bản sắc cá
nhân” [36] và khẳng định rằng, một định nghĩa hẹp cho sự riêng tư là tốt hơn
cho một định nghĩa rộng.
Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng: “khơng nơi nào chúng ta
có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng tư”.
Nhưng Hội đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau: “Quyền riêng tư là các
quyền của cá nhân được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá

17


nhân hay cơng việc của mình (hoặc những người trong gia đình) bằng các
phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng cách công bố thông tin” [34].
Lời mở đầu của Chương Bảo mật trong Hiến pháp Úc quy định rằng:
Một xã hội tự do và dân chủ đòi hỏi phải tôn trọng quyền tự chủ của các cá
nhân và giới hạn quyền lực của các cơ quan (cả nhà nước và tư nhân) trong
việc xâm phạm vào quyền tự chủ của cá nhân… Quyền riêng tư là một quyền
cơ bản của con người và mỗi người mong muốn được tôn trọng [32].
Theo quan điểm của một số học giả khác, “quyền riêng tư” được hiểu là
“sự kỳ vọng rằng những thông tin cá nhân được đề cập tại một nơi riêng tư sẽ
không được tiết lộ cho bất kỳ bên thứ ba nào biết; khi việc tiết lộ đó có thể
gây ra sự xấu hổ, đau khổ cho người có thông tin bị tiết lộ” và “thông tin
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả dữ kiện, hình ảnh (ví dụ hình ảnh,

băng hình) và ý kiến gièm pha” [37].
Năm 1970, Alan Westin xuất bản cuốn “Tự do và riêng tư” (Freedom
and Privacy). Theo Westin, “quyền riêng tư như là một quyền giới hạn của
các cá nhân, nhóm, tổ chức để xác định cho mình khi nào, làm thế nào và ở
mức độ nào đối với thông tin của họ được truyền đạt cho người khác” [33].
Khái niệm quyền riêng tư đã ra đời và phát triển khá lâu trước khi nó
được chính thức cơng nhận là một quyền cơ bản trong các điều ước quốc tế
cũng như trong Hiến pháp của các quốc gia và hiện nay. Quyền đang định
hình và khẳng định vai trị của nó trong hệ thống các quyền nhân thân của
công dân.
Ngày nay, sự bùng nổ của các phương tiện truyền thơng khiến bí mật
riêng tư có nguy cơ dễ dàng bị tiết lộ. Trong bối cảnh chung này, trẻ em là đối
tượng dễ bị xâm phạm về quyền riêng tư dưới nhiều hình thức khác nhau bởi
các em còn nhỏ tuổi, chưa ý thức được về các quyền của bản thân và cũng
thiếu khả năng tự bảo vệ khi bị xâm phạm quyền riêng tư.

18


Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ
bản được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo
vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú trọng vì trẻ em
thuộc “nhóm người dễ bị tổn thương”, chưa phát triển đầy đủ về nhận thức,
thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến
mình.
Theo Hiến pháp năm 2013 thì quyền riêng tư là một trong những quyền
dân sự cơ bản nhất của con người, là quyền bất khả xâm phạm, như khoản 1
Điều 21 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự,
uy tín của mình. Thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia

đình được pháp luật bảo đảm an tồn”. Như mọi cơng dân khác trong xã hội,
trẻ em phải được đối xử công bằng, được tôn trọng và được bảo vệ các quyền
cơ bản, trong đó có quyền riêng tư. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em
(người dưới 16 tuổi) được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em; nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37) [22]. Từ quy định của Hiến
pháp, các quyền này của trẻ em đã được luật hóa thơng qua Luật Trẻ em năm
2016.
Từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa: Quyền riêng tư của trẻ
em là quyền của cá nhân trẻ em được phép giữ kín những thơng tin, tư liệu,
dữ liệu gắn liền với cuộc sống riêng tư của mình, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, về nơi ở, về thư tín, điện thoại, điện tín và các thơng tin điện tử khác
mà khơng một chủ thể nào có quyền tiếp cận, cơng khai trừ trường hợp được
chính người này đồng ý hoặc được bằng quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.

19


×