Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.77 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>A-PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của việc dạy học vần lớp 1. Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục. Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc và học viết. Biết đọc, biết viết, cả một thế giới mới mở ra trước mắt các em. Người có nhiệm vụ đem đến cho trẻ những hạnh phúc đầu đời ấy không ai khác chính là những thầy cô dạy lớp một. Môn Tiếng Việt ở tiểu học (TH) là một môn học công cụ với thời lượng cao nhất, bao gồm nhiều phân môn, trong đó phân môn Học vần là phân môn khởi đầu cho việc học tập của một đời người. Học vần trao cho học sinh công cụ ngôn ngữ để sử dụng trong giao tiếp, trong học tập, trong cuộc sống. Sau quá trình học vần, học sinh (HS) từ “mù chữ” trở thành ‘biết chữ”. Đây là môn học trọng tâm ở lớp một. Phân môn Học vần lớp một có vị trí quan trọng ở bậc tiểu học, là phần mở đầu của lớp đầu tiên ở bậc Tiểu học. Học vần đưa các em vào nề nếp học Tiếng Việt văn hóa với mục đích nắm được mặt chữ, biết viết chữ, biết đọc trơn tiếng, từ, câu, bài. Học vần có tích chất thực hành thể hiện ở quá trình ghép âm thành vần, thành tiếng, thành từ; biết đọc trơn tiếng, từ, câu, đoạn văn ngắn; làm quen với chữ viết thường; biết nói theo chủ đề; thực hành 4 kĩ năng (đọc, viết, nghe, nói). Phân môn Học vần giúp học sinh nắm được các chữ cái Tiếng Việt : con chữ đơn, kép; thể hiện nguyên âm, phụ âm; nắm được các dạng chữ ghi âm a, b, c,…, các dấu thanh thuộc bảng chữ cái Tiếng Việt. Chương trình Học vần gồm 103 bài, được học trong 21 tuần, mỗi tuần học 5 bài, mỗi bài 2 tiết, mỗi tiết từ 35 đến 40 phút. Học kì I : thực học 17 tuần gồm 83 bài (có 12 bài ôn, 1 bài chữ thường – chữ hoa). Bài 1 đến bài 30 học chữ cái và âm, thanh điệu từ bài 31 đến bài 83 học vần. Học kì II: Học thêm 4 tuần học vần, gồm 20 bài (có 3 bài ôn tập). Nhìn chung, nội dung chương trình phân môn Học vần chú trọng một số nguyên tắc như : dạy chữ trên cơ sở phát triển và hoàn thiện kĩ năng- dạy chữ thông qua dạy nghĩa; lấy tiếng, từ ngữ làm đơn vị trung tâm. Tận dụng năng lực Tiếng Việt của trẻ em bản ngữ tuổi đến trường. Sách giáo viên (GV) thiết kế từng bài dạy một cách cụ thể, đảm bảo rèn các kĩ năng cho HS. Tuy nhiên, nội dung hầu hết đều lặp lại, bài sau tương tự bài trước, nếu GV không thay đổi hình thức và phương pháp dạy học một cách hợp lí sẽ làm cho HS không phát huy tính tích cực, tính chủ động sáng tạo của các em và dẫn đến thụ động, nhàm chán, đọc vẹt,… 1 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Xuất phát từ những lí do trên, bản thân tôi lựa chọn đề tài : “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần lớp 1” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu. Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Học vần ở lớp một. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. 3.1. Khách thể nghiên cứu. Quá trình dạy học phân môn Học vần ở lớp 1. 3.2. Đối tượng nghiên cứu. Thực trạng dạy học và một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần lớp 1.. B- NỘI DUNG I-CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: Để có được chất lượng dạy học cao phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khả năng truyền đạt, hướng dẫn, chủ đạo… của GV, năng lực chủ động lĩnh hội, tiếp thu kiến thức và vận dụng kỹ năng của HS cả trên lớp lẫn khi tự học; điều kiện đảm bảo chất lượng dạy học; sự phối hợp đồng bộ giữa thầy và trò trong hoạt động dạy học…Các yếu tố quan trọng nhất để có được chất lượng dạy học tốt đó là: - Chất lượng dạy của GV, thể hiện trên các điểm: việc đầu tư cho soạn giảng: xác định mục tiêu từng chương, từng bài; xác định kiến thức và kỹ năng trọng tâm; xác định việc phối hợp các phương pháp dạy học (PPDH) phù hợp với đặc trưng môn học, bài học; dự kiến các hình thức tổ chức dạy học; chuẩn bị phương tiện dạy học…; tổ chức tiến trình lên lớp phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng tiếp thu, vận dụng của HS; tổ chức đồng bộ các hoạt động trong tiến trình lên lớp giữa thầy và trò, trong đó thầy chủ đạo còn trò chủ động trên cơ sở hình thức tổ chức dạy học phù hợp; sử dụng phối hợp một cách hợp lý các PPDH phù hợp với đặc trưng bộ môn, phân môn…; thực hiện việc kiểm tra, đánh giá (kể cả trên lớp và chấm bài kiểm tra) theo hướng đánh giá thực chất việc nắm kiến thức và vận dụng kỹ năng của HS; không tổ chức theo kiểu “tái hiện lại những gì GV đã nói, đã làm” …Để có được chất lượng dạy học tốt, ngoài việc nắm vững và vận dụng các PPDH phù hợp với đặc trưng từng bộ môn, phân môn trong chương trình người GV cần phải có được những kiến thức cơ bản và kỹ năng dạy học cần thiết; những kiến thức cơ bản mà người GV cần có là những kiến thức bao trùm lên toàn bộ các kiến thức đã được giới thiệu trong chương trình, có được vốn kiến thức như vậy thì GV mới có cơ sở để truyền thụ những kiến thức cơ bản và mở rộng cho HS những kiến thức có liên quan để các em hiểu rõ bản chất của nội dung được GV truyền thụ. Kỹ năng dạy học (KNDH) cũng là “hành trang” không thể thiếu của người GV nếu muốn thực hiện tốt công việc dạy học, KNDH là sự thực hiện có kết quả một số thao tác 2 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> hay một loạt thao tác phức tạp của một hay nhiều hành động dạy học, bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, những cách thức, những quy trình đúng đắn, đảm bảo cho hoạt động dạy học của người GV đạt kết quả cao . KNDH của GVTH là một hệ thống phức tạp các thao tác, các hành động đảm bảo cho họ thực hiện các hoạt động dạy học một cách hiệu quả. Đặc trưng của cấp TH là người GV phải dạy nhiều môn, có môn lại có nhiều phân môn với những đặc trưng rất khác nhau (về nội dung DH, PPDH, hình thức tổ chức, PP kiểm tra đánh giá…). Do vậy, khi hình thành KNDH cho người GV phải chú ý hình thành KNDH từng môn, phân môn cụ thể. - Chất lượng học của HS, cụ thể: tinh thần, thái độ học tập của học sinh từ khâu chuẩn bị dụng cụ, tư thể đến sự hứng thú trong quá trình học tập; khả năng tự chủ động lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV; khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng tiếp thu được vào khâu tiếp theo của quá trình học tập. Tóm lại, “ chất lượng dạy học” là kết quả giảng dạy và học tập xét cả về mặt định lượng và định tính so với các mục tiêu bộ môn cũng như góp phần vào quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh II- BIỆN PHÁP: 1-. Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học. Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học là cách làm, phương pháp làm để nâng cao kết quả giảng dạy và học tập xét cả về mặt định lượng và định tính so với các mục tiêu bộ môn cũng như góp phần vào quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh. 2. Giới thiệu về phân môn Học vần lớp 1. 2.1. Mục tiêu của phân môn Học vần Môn Tiếng Việt có mục tiêu quan trọng là rèn cho HS bốn kĩ năng lời nói: đọc, viết, nghe, nói. Quá trình đọc, viết chữ phải thông qua âm, do vậy giữa chữ và âm có một mối quan hệ chặt chẽ. Vì chữ viết tiếng Việt là chữ ghi âm (về cơ bản viết thế nào, đọc thế ấy) cho nên ở lớp 1 phải kết hợp cả hai mục tiêu cơ bản là dạy chữ và dạy âm: dạy chữ trên cơ sở dạy âm, dạy âm để dạy chữ. Tuy nhiên, với phần lớn trẻ em người Việt học tiếng Việt thì vấn đề cơ bản đầu tiên là học cách dùng kí hiệu (chữ viết) để mã hoá ngôn ngữ âm thanh với hệ thống âm tiết mà các em đã sử dụng khá thành thạo trước khi đến trường; biết nhận đủ và nhớ hệ thống kí hiệu đó. Bởi vậy, nội dung và chương trình, sách giáo khoa cũng như phương pháp dạy học tiếng Việt lớp 1 phải thoả mãn yêu cầu bằng cách nhanh nhất giúp HS làm quen với hệ thống tín hiệu mới là chữ viết để các em có thể mau chóng sử dụng hệ thống tín hiệu này một cách hiệu quả trong giao tiếp, học tập. Với yêu cầu này, có thể coi mục tiêu đặc biệt cần đạt được của phân môn Học vần chính là chữ viết. Việc chú trọng đến mục tiêu dạy chữ được thể hiện ở những điểm chính sau: - Sách cung cấp vừa đủ lượng con chữ để thể hiện các đơn vị âm thanh và cách ghép các con chữ này thành các tiếng có thực trong tiếng Việt văn hoá. 3 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Hệ thống chữ được đưa vào bài học theo đặc điểm chữ viết và theo nguyên tắc đi từ chữ có cấu tạo đơn giản tới chữ có cấu tạo phức tạp dần. - Những khác biệt thể hiện trên chữ viết đều được làm căn cứ xây dựng bài học. Tuy nhiên, việc dạy chữ lại không thể tách rời khỏi mặt âm thanh mà nó thể hiện. Bằng chứng là với mỗi đơn vị chữ, sách đều giới thiệu kèm theo một tiếng thực làm tiếng khoá cho nó. Qua việc nhận diện tiếng, HS hiểu được âm mà chữ thể thể hiện, đồng thời cũng học được cách đọc các âm hay các tiếng đó. 2.2. Nhiệm vụ của phân môn Học vần. a.. Rèn các kĩ năng đọc, nghe, nói, viết cho học sinh lớp 1 Học vần là môn khởi đầu giúp cho HS chiếm lĩnh chữ viết, một công cụ mới để giao tiếp và học tập - công cụ giúp HS nhận thức được một cách đầy đủ hơn thế giới xung quanh mình. Làm chủ được chữ viết, HS có thể đọc sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, ghi chép bài giảng của thầy cô giáo, từ đó có điều kiện học tốt hơn các môn học khác trong chương trình. Bằng việc rèn cho HS cả 4 kĩ năng đọc, nghe, nói, viết, phân môn Học vần góp phần nâng cao trình độ cho HS , những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong chương trình Tiếng Việt lớp 1, quan niệm trên đây về nhiệm vụ của Học vần thể hiện rất rõ trong toàn bộ sách cũng như trong từng bài học. Mỗi bài học, dù chỉ được thực hiện trong thời gian 70 phút của hai tiết học, nhưng đã thể hiện đủ cả 4 kĩ năng sử dụng lời nói mà học sinh cần luyện tập. Thông qua những nhiệm vụ học tập cụ thể, các bài học luôn tạo điều kiện để học sinh được tham gia vào nhiều tình huống nói năng gần gũi với giao tiếp hàng ngày. b.. Thông qua dạy chữ gắn với các kĩ năng lời nói, phân môn Học vần còn có một số nhiệm vụ khác. Phát triển vốn từ cho HS. Tập cho các em nói viết đúng mẫu các câu ngắn. Bồi dưỡng lòng ham thích thơ văn, mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên xã hội và giá trị của tính nhân văn. 2.3. Nguyên tắc dạy Học vần. Việc định ra các nguyên tắc dạy Học vần cần được xuất phát từ chức năng của ngôn ngữ, từ đặc điểm tâm, sinh lí của HS lớp 1 và từ mục tiêu của môn Tiếng Việt nói chung, của phân môn Học vần nói riêng. Chịu sự chi phối của hệ thống nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung, việc dạy Học vần phải tuân theo các nguyên tắc chủ yếu sau đây: nguyên tắc phát triển lời nói; nguyên tắc phát triển tư duy; nguyên tắc tính đến đặc điểm của HS và nguyên tắc trực quan Nguyên tắc phát triển lời nói trong phân môn Học vần có những yêu cầu: - Phải xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức: âm/ vần được thể hiện trong tiếng, tiếng trong từ, từ trong câu. Có thể thấy rõ điều này khi phân tích một bài Học vần bất kì. 4 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy giao tiếp làm đích. Chẳng hạn, các bài được sắp xếp theo trật tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. - Phải tổ chức tốt hoạt động nói năng cho HS để dạy học tiếng Việt, sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo ở Tiểu học. Quán triệt tinh thần này, trong chương trình Học vần, từ bài đầu tiên đến bài cuối cùng, các bài học đều được biên soạn theo hướng tích cực hoá hoạt động của HS, giáo viên cũng cần tổ chức giờ học sao cho học sinh được thực hành nhiều nhất để rèn luyện 4 kĩ năng đọc, nghe, nói, viết. Nguyên tắc phát triển tư duy trong phân môn Học vần có những yêu cầu: - Phải chú ý rèn luyện các thao tác tư duy và bồi dưỡng các năng lực, phẩm chất tư duy cho HS như so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp… - Phải làm cho HS thông hiểu ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, nắm được nội dung cần nói viết và tạo điều kiện để các em thể hiện những vấn đề đó bằng phương tiện ngôn ngữ. Trong chương trình Học vần, không phải mọi từ đều quen thuộc với tất cả các đối tượng học sinh. Nguyên tắc tính đến đặc điểm của HS trong phân môn Học vần có hai yêu cầu: - Cần nắm vững những đặc điểm tâm lí, lứa tuổi của HS lớp 1. Ở giai đoạn 6 - 7 tuổi, khả năng tập trung chú ý của các em chưa cao, tư duy cụ thể là chủ yếu, khả năng tổng hợp, khái quát chưa cao. Vì thế, trong giờ Học vần cần thay đổi linh hoạt hình thức hoạt động trí tuệ (đọc, viết, nghe, nói, sử dụng bộ chữ thực hành, băng chữ...) hoặc xen kẽ khoảng giải lao vài ba phút giữa tiết học (hát, chơi trò chơi học tập...) để đảm bảo yêu cầu “học mà chơi, chơi mà học”. Bài dạy phải quán triệt tinh thần “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” nhằm phát huy tính tích cực cho trẻ. - Cần lưu ý đến tính vừa sức trong dạy Học vần, tìm hiểu trình độ tiếng Việt của HS, phân thành các nhóm để giao nhiệm vụ học tập cho phù hợp khả năng của các em. Không nên giao nhiệm vụ quá dễ khiến HS thấy chán, cũng không nên giao nhiệm vụ quá khó để tránh làm giảm hứng thú học tập của HS. Nên tìm hiểu sơ bộ về mối quan hệ giữa tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ của HS. Với HS sử dụng tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, cần tận dụng những kinh nghiệm lời nói của các em vào việc học đọc, viết tiếng Việt. Nếu các em sử dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ khác (học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai) thì cần so sánh tiếng mẹ đẻ của các em với tiếng Việt, tìm điểm tương đồng và khác biệt để tận dụng những ưu điểm do sự gần gũi và hạn chế những khó khăn do sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ gây ra. Đối với học sinh từng vùng, phương ngữ, thổ ngữ cũng cần phải điều tra nhằm biết những đặc điểm phát âm của địa phương các em có gây khó khăn gì cho việc học tiếng Việt, để lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học thích hợp với từng đối tượng. Nguyên tắc trực quan không phải là mới trong dạy học nói chung, dạy học tiếng Việt nói riêng. Tuy nhiên, trong dạy học Học vần, nguyên tắc này giữ vai trò 5 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> đặc biệt quan trọng. Bởi vì, do sự chi phối của đặc điểm tâm, sinh lí, HS lớp 1 có đặc điểm nhận thức và đặc điểm ngôn ngữ thiên về trực quan, cụ thể. Các kiến thức trừu tượng sẽ trở nên dễ hiểu với các em hơn khi được diễn đạt một cách trực quan bằng mô hình, bằng tranh vẽ đẹp và nhiều màu sắc,… Thao tác thực hành của HS cũng trở nên thành thạo hơn nếu các em được quan sát các mẫu, được sử dụng những đồ dùng học tập phù hợp. 2.4. Chương trình Học vần lớp 1. Chương trình Học vần ở lớp 1 được học trong học kỳ I và đầu học kỳ II, bao gồm 103 bài ứng với 206 tiết dạy, được phân bố trong hai tập sách: 83 bài thuộc tập 1, 20 bài thuộc tập 2. Có thể chia nội dung dạy học Học vần làm 3 phần: phần thứ nhất (6 bài đầu) có nội dung làm quen với chữ cái e, b, các dấu thanh; phần thứ 2 gồm 25 bài tiếp theo dành cho các chữ cái và âm (cấu trúc âm tiết có vần là 1 nguyên âm); phần thứ 3 gồm 72 bài giới thiệu vần phức tạp và các tiếng có vần phức tạp dần. Nếu lấy mục đích của bài học làm tiêu chí phân loại, có thể chia các bài Học vần thành 3 nhóm: nhóm bài Làm quen với chữ cái (và dấu thanh), nhóm bài dạy học Âm vần mới và nhóm bài Ôn tập. Qua 103 bài học, các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ngày càng phát triển, tương ứng với nội dung ngày càng phức tạp của các bài học âm, vần. 2.5. Phương pháp dạy Học vần: a. Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Trong quá trình dạy Học vần, cần phải phối hợp một cách hợp lí các thao tác phân tích và tổng hợp. Phân tích trong dạy vần thực chất là tách các hiện tượng ngôn ngữ theo cấp độ: từ - tiếng - vần / âm. Tổng hợp là ghép các yếu tố ngôn ngữ đã được phân tích trở lại dạng ban đầu. Các thao tác tách và ghép này phải được phối hợp nhuần nhuyễn, kết hợp đánh vần vần, đánh vần tiếng với đọc trơn. Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng khi giảng bài mới (tiết 1). GV cho HS phân tích từ - tiếng - vần / âm, khi các em đã nắm được âm / vần mới thì tổng hợp trở lại và đọc trơn (có thể làm theo quy trình ngược lại: tổng hợp các âm thành vần, vần với âm đầu và thanh thành tiếng, tiếng với tiếng thành từ). Cũng có thể sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ trong các bài tập ứng dụng, trong đó HS tìm tiếng chứa âm, vần mới học hoặc âm, vần đang được ôn tập. Phương pháp này giúp HS nắm chắc bài học, tiếp thu kiến thức có hệ thống một cách chủ động, đặc biệt là phát triển ở các em các kĩ năng tư duy như phân tích, tổng hợp, thay thế, so sánh… b. Phương pháp giao tiếp (phương pháp thực hành): Giờ Học vần không có tiết lí thuyết vì vậy phương pháp giao tiếp cần được sử dụng thường xuyên. Điều này cũng phù hợp với định hướng giao tiếp của chương trình môn Tiếng Việt. Dưới sự chỉ đạo của GV, HS tập vận dụng tri thức đã học để rèn luyện kĩ năng và củng cố kiến thức. Thực hiện phương pháp giao tiếp, GV cần chuẩn bị trước một hệ thống câu hỏi, bài tập ngay từ khi soạn bài. Bên cạnh đó, GV cần tổ chức cho HS tham gia 6 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> tích cực vào các hoạt động học tập, trong đó có hình thức trò chơi học tập. Đây là một dạng hoạt động học tập được tiến hành thông qua các trò chơi có mục đích học tập. Có thể tiến hành trò chơi sau khi HS học bài mới (kết hợp luyện tập) hoặc sau phần luyện tập. Tùy theo bài dạy và mục đích “chơi” GV sử dụng linh hoạt các trò chơi. Trong quá trình chơi, HS có thể sử dụng đồ dùng dạy học, lời nói hay thao tác của tay,... Chẳng hạn, có thể cho HS chơi đố chữ, thi tìm đúng, nhanh âm - vần vừa học, thi ghép vần, hái hoa dân chủ, bốc thăm …Việc sử dụng trò chơi học tập góp phần làm cho giờ học sinh động, duy trì được hứng thú của HS, các em được học tập một cách chủ động, tích cực. Để hoạt động giao tiếp diễn ra thuận lợi và có hiệu quả, HS phải được quan sát vật thật, tranh ảnh tự nhiên hay việc làm mẫu của giáo viên. Điều này giúp các em tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, củng cố âm, vần mới sâu sắc hơn; GV tiết kiệm được lời giảng mà giờ dạy vẫn sinh động. Thực hiện phương pháp giao tiếp, trong quá trình giảng dạy, GV còn cần chú ý cho học sinh vận dụng tổng hợp các giác quan khi học đọc, viết: mắt nhìn, miệng đọc, tai nghe, tay viết; cho các em tập đọc, tập phân tích từ, tiếng, tập viết ngay sau khi học bài mới. Phương pháp giao tiếp có tác dụng giúp HS tham gia vào việc tìm hiểu bài mới một cách tự giác, tích cực, chủ động. Nhờ đó, các em chóng thuộc bài, hào hứng học tập, lớp học sinh động. Cũng nhờ phương pháp này, giáo viên nắm được trình độ học tập của học sinh, từ đó phân loại học sinh và có phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng. c. Phương pháp luyện tập theo mẫu: Vì HS tiểu học chưa có đủ khả năng khái quát các hiện tượng lời nói cụ thể thành quy luật nên việc thực hành theo mẫu cho trước rất có lợi trong việc hình thành kĩ năng sử dụng lời nói. Phương pháp luyện tập theo mẫu gắn bó chặt chẽ với phương pháp giao tiếp. Trong quá trình thực hành, HS phân tích, tổng hợp vần, luyện đọc theo GV, nói theo mẫu câu trong sách giáo khoa hay theo mẫu câu trong lời nói của GV. Ngoài ra, các em cũng thực hành viết theo chữ mẫu trong vở Bài tập, vở Tập viết và theo quy trình viết mẫu của GV… Chính hoạt động rèn luyện theo mẫu đã giúp HS dần hình thành một cách chắc chắn các kĩ năng sử dụng lời nói. Các phương pháp dạy học Tiếng Việt kể trên không tồn tại riêng lẻ mà có sự đan xen, giao thoa với nhau. Ví dụ, khi thực hiện phương pháp phân tích ngôn ngữ, thầy và trò đã sử dụng phương pháp giao tiếp, và chắc chắn là ở đó không thể thiếu được sự thực hành theo mẫu… Cũng cần phải nói thêm rằng, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng, việc tách riêng các phương pháp như trên chỉ để cho tiện trong việc trình bày; trong thực tế, khi dạy Học vần cũng như dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt, giáo viên phải chủ động phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học. Có như vậy, bài dạy mới đạt kết quả một cách chắc chắn. 2.6. Quy trình dạy Học vần: a. Quy trình chung cho các bài dạy Làm quen với chữ cái gồm có các bước cơ bản sau: 7 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Tiết 1 I. Kiểm tra bài cũ. - Yêu cầu cơ bản: Học sinh nắm được âm, thanh, viết được chữ ghi âm, dấu ghi thanh của bài kế trước; làm quen với nền nếp học tập, mạnh dạn, tự tin trong môi trường học tập mới. - Yêu cầu mở rộng: Học sinh nhận biết và tìm được các tiếng, từ có âm thanh vừa học. II. Dạy bài mới: 1. Giới thiệu bài Giáo viên dựa vào tranh trong sách giáo khoa hoặc tranh ảnh, vật mẫu đã chuẩn bị sẵn để giới thiệu chữ ghi âm hoặc dấu ghi thanh mới. 2. Dạy chữ ghi âm hoặc dấu ghi thanh mới Giáo viên tiến hành dạy chữ ghi âm, dấu ghi thanh mới theo nội dung bài học được trình bày trong SGK qua các bước sau: - Hướng dẫn học sinh nhận dạng (phân tích) chữ ghi âm / dấu ghi thanh mới. - Hướng dẫn học sinh tập phát âm âm mới. - Viết mẫu và hướng dẫn quy trình viết để học sinh tập viết chữ ghi âm /dấu ghi thanh mới vào bảng con. Tiết 2 3. Hướng dẫn học sinh luyện tập Giáo viên cho học sinh luyện tập các kĩ năng theo nội dung bài học ghi trong SGK như sau: a. Luyện đọc âm mới Luyện đọc theo nhiều hình thức cá nhân, nhóm, cả lớp (giai đoạn đầu giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách nhìn chữ, nhìn dấu để đọc thành tiếng); tập tô một số chữ trong vở Tập viết. b. Luyện viết vào vở Học sinh tập tô theo nét chữ mới học trong vở Tập viết 1 tập 1, vở Bài tập Tiếng Việt tập 1 (nếu có). Giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn học sinh tư thế ngồi, cách để vở, giữ vở, khoảng cách giữa mắt và vở, cách cầm bút đưa theo nét có sẵn. c. Luyện nghe - nói ở các bài Làm quen, nội dung luyện nghe - nói chủ yếu dựa vào tranh, do vậy tương đối tự do, không gò bó trong các âm, thanh vừa học (tuy nhiên, giáo viên nên gợi ý sao cho trong lời nói của học sinh, các âm, thanh đó xuất hiện với tần số cao để rèn kĩ năng phát âm cho học sinh). Dựa vào tranh, giáo viên nêu câu hỏi để hướng dẫn học sinh luyện nói, giúp các em làm quen với không khí học tập mới, khắc phục sự rụt rè, tập mạnh dạn nói cho các bạn nghe và nghe các bạn nói, làm quen với môi trường giao tiếp mới giao tiếp văn hoá, giao tiếp học đường. III. Củng cố, dặn dò: 8 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Chỉ bảng hoặc SGK cho học sinh đọc theo. - Hướng dẫn học sinh tìm tiếng có âm / thanh mới học. - Dặn dò học sinh học và làm bài tập ở nhà. b. Quy trình chung của một bài Âm – vần mới gồm có các bước chủ yếu: Tiết 1 I. Kiểm tra bài cũ - Yêu cầu cơ bản: Học sinh đọc được âm, vần và viết được chữ ghi âm, vần, đọc, viết được tiếng / từ ứng dụng; đọc được câu ứng dụng của bài kế trước. - Yêu cầu mở rộng: Giáo viên có thể tuỳ trình độ của học sinh mà đưa ra một số yêu cầu mở rộng hoặc nâng cao. Ví dụ: Tìm thêm các tiếng / từ mới có âm, vần đã học (giáo viên có thể gợi ý qua đồ dùng học tập ở lớp, đồ dùng trong gia đình, các loại con vật, cây, quả quen thuộc đối với các em). II. Dạy - học bài mới 1. Giới thiệu bài Giáo viên dựa vào tranh ở SGK hoặc tranh ảnh, vật mẫu đã chuẩn bị để giới thiệu chữ ghi âm / vần mới; cũng có thể giới thiệu trực tiếp âm, vần mới. 2. Dạy âm, vần mới Giáo viên tiến hành dạy âm, vần theo nội dung bài học được trình bày trong SGK bằng các bước sau: - Dạy phát âm hoặc đánh vần vần mới. - Hướng dẫn học sinh ghép âm, vần thành tiếng mới, từ mới (còn gọi là tiếng khoá, từ khoá ), đánh vần và đọc trơn nhanh tiếng mới, đọc trơn từ mới - Hướng dẫn học sinh đọc từ ngữ ứng dụng (có thể kết hợp giải nghĩa của một số từ ngữ ứng dụng, nếu giáo viên thấy cần thiết). 3. Dạy chữ ghi âm / vần mới: Giáo viên hướng dẫn học sinh viết chữ ghi âm, vần, tiếng mới (chú ý quy trình viết, cỡ chữ, điểm đặt bút, dừng bút). Học sinh luyện viết vào bảng con. Tiết 2 4. Hướng dẫn học sinh luyện tập: a. Luyện đọc câu / bài ứng dụng. - Học sinh nhận xét tranh minh hoạ của câu / bài ứng dụng. - Học sinh đọc câu ứng dụng theo yêu cầu của giáo viên (cá nhân, nhóm, lớp). (Giáo viên có thể đọc mẫu và giải nghĩa từ khó có trong câu / bài hoặc giảng qua về nội dung của câu / bài). b. Luyện viết vào vở Học sinh luyện viết vào vở theo yêu cầu của giáo viên. c. Luyện nghe - nói Giáo viên dựa vào chủ đề gợi ý trong tranh tiến hành tổ chức luyện nghe nói một cách linh hoạt theo trình độ của học sinh, nhằm đạt được các yêu cầu; phát triển lời nói tự nhiên về chủ đề trong SGK, chú ý đến các từ ngữ có âm, vần mới học, từ đó mở rộng sử dụng cả những từ ngữ có âm, vần 9 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> chưa học. Theo định hướng bằng câu hỏi của giáo viên, học sinh có thể nói được những câu đơn giản, có nội dung gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. III. Củng cố, dặn dò: - Giáo viên chỉ bảng hoặc SGK cho học sinh theo dõi và đọc theo. - Học sinh viết chữ ghi âm / vần / tiếng mới học trên bảng con và bảng lớp. - Học sinh tìm tiếng có âm / vần mới học trong các từ mà giáo viên chuẩn bị sẵn hoặc trong vốn từ của chính mình. - Giáo viên dặn dò học sinh học bài và làm bài tập ở nhà. c. Quy trình dạy các bài Ôn tập trong phân môn Học vần: Tiết 1 I. Kiểm tra bài cũ - Yêu cầu cơ bản: Học sinh đọc được âm, vần và viết được chữ ghi âm, vần của bài kế trước; đọc và viết được tiếng (từ) khoá từ ứng dụng; đọc được câu ứng dụng của bài kế trước; phát triển lời nói tự nhiên qua chủ đề luyện nói. - Yêu cầu mở rộng: Học sinh hiểu (nêu được) các tiếng / vần có cùng mô hình cấu tạo mà các em đã học. II. Dạy bài mới: 1. Hướng dẫn học sinh ôn tập theo bảng sơ đồ ôn tập trong SGK - Giáo viên dùng tranh vẽ gợi ý để giới thiệu mô hình tiếng / vần đã học. - Giáo viên gợi ý để học sinh tìm những tiếng / vần đã học ứng với mô hình. - Giáo viên hướng dẫn cho học sinh điền âm / vần vào chỗ trống trong bảng sơ đồ ôn để tạo tiếng / vần theo yêu cầu của bài học. * Đối với bài ôn về âm: + Giáo viên cho học sinh thực hành ghép tiếng có âm đầu đã học ghi ở cột dọc và vần chỉ có nguyên âm đã học ghi ở dòng ngang. (Giáo viên làm mẫu, sau đó chỉ vào các ô trống, yêu cầu học sinh ghép và đọc đúng các tiếng vừa được ghép trong bảng 1). + Giáo viên cho học sinh thực hành ghép tiếng có nguyên âm ghi ở cột dọc và dấu thanh ghi ở dòng ngang. (Giáo viên làm mẫu, sau đó chỉ vào các ô trống, yêu cầu học sinh ghép và đọc đúng các tiếng vừa được ghép trong bảng 2). * Đối với bài ôn về vần: + Giáo viên cho học sinh thực hành ghép vần có âm chính ghi ở cột dọc và âm kết thúc ghi ở dòng ngang, hướng dẫn học sinh quan sát sơ đồ, nhận xét cấu tạo của các vần cùng loại, củng cố cách đánh vần, đọc vần. + Học sinh rèn luyện kĩ năng đọc trơn, nhanh các vần đã học theo bảng sơ đồ ôn tập. 2. Hướng dẫn học sinh luyện tập a. Luyện đọc từ ngữ ứng dụng - Học sinh đọc nhẩm từ ngữ ứng dụng, tìm các tiếng chứa âm / vần / thanh vừa ôn. - Học sinh luyện đọc thành tiếng từ dễ đến khó: đọc vần, đọc tiếng, đọc từ. 10 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> b. Luyện viết trên bảng Giáo viên hướng dẫn học sinh viết vào bảng con. Tiết 2 c. Luyện đọc câu / bài ứng dụng - Giáo viên dùng tranh minh hoạ để gợi ý câu / bài ứng dụng. - Học sinh luyện đọc câu / bài ứng dụng (chú ý ngắt, nghỉ hơi giữa các cụm từ / các câu cho phù hợp). d. Luyện viết vào vở Học sinh viết một phần bài viết trong vở Tập viết (có thể làm quen với hình thức chính tả nghe đọc bằng cách nghe giáo viên đọc và viết vào vở học). e. Kể chuyện (luyện nghe - nói) - Giáo viên cho học sinh đọc tên truyện. - Giáo viên dùng tranh để kể chuyện cho học sinh nghe. - Giáo viên hỏi học sinh về nội dung câu chuyện, hoặc cho học sinh kể chuyện theo tranh. III. Củng cố, dặn dò: - Giáo viên chỉ sơ đồ ôn tập trên bảng hoặc SGK cho học sinh đọc. - Học sinh đọc lại bài luyện đọc. - Giáo viên dặn học sinh làm bài tập, ôn bài cũ, chuẩn bị bài mới III-THỰC TRẠNG DẠY HỌC PHÂN MÔN HỌC VẦN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC 1. Giới thiệu về quá trình khảo sát thực trạng: 1.1. Mục đích khảo sát. Đánh giá chính xác thực trạng dạy học phân môn Học vần. Xác lập cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần. 1.2. Đối tượng khảo sát. Giáo viên: 100% GV dạy lớp 1 trong trường (03 người) Học sinh: HS lớp1 là: 78 em 1.3. Nội dung và phương pháp khảo sát. a.. Nội dung khảo sát. Đối với GV: khảo sát về nội dung, phương pháp dạy học (PPDH), tổ chức các hình thức dạy học, việc kiểm tra đánh giá kết quả dạy học. Đối với HS: những thiếu sót của các em trong học tập phân môn Học vần. b.. Phương pháp khảo sát. Đối với GV: hỏi ý kiến bằng Phiếu hỏi. Đối với HS: thông qua các giờ dạy để phát hiện. 1.4. Thời gian và địa bàn khảo sát. Thời gian: từ tháng 9 – 10/2011. Địa bàn: trường TH&THCS Ba Sao 2. Kết quả khảo sát thực trạng: 11 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 2.2. Kết quả khảo sát học sinh. Bảng 2. Kết quả khảo sát học sinh: Kết quả khảo sát ( 78 học sinh) Tốt Khá ĐYC CĐYC TT Nội dung SL TL SL TL SL TL SL TL 1 Kỹ năng nghe 20 25,6 15 19,2 37 47,3 6 7,7 2 Kỹ năng nói 18 23,1 17 21,8 38 48,1 5 6,4 3 Kỹ năng đọc 18 23,1 18 23,1 35 44,9 7 8,97 4 Kỹ năng viết 19 24,3 17 21,8 35 44,9 7 8,97 5 Phát triển vốn từ 20 25,6 15 19,2 36 46,1 7 8,97 6 Nói, viết đúng mẫu câu ngắn. 22 28,2 15 19,2 34 43,6 7 8,97 3. Đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân: 3.1. Đánh giá thực trạng. a.. Ưu điểm. Đối với GV: - Thực hiện khá tốt việc khai thác nội dung từ khóa, câu khóa trong dạy học. - Nắm vững và vận dụng khá nhuần nhuyễn các PPDH phù hợp với đặc trưng của phân môn Học vần. - Biết phát huy vai trò và sử dụng khá hợp lý các TBDH trong dạy học. - Có cố gắng trong việc tổ chức các hình thức dạy học. - Nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng của phân môn; chuẩn đánh giá xếp loại HS và vận dụng tốt vào quá trình dạy học. Đối với HS: - Các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đạt mức độ khá. - Các yêu cầu về mở rộng vố từ; đọc và viết đúng các mẫu câu dạng đơn giản thực hiện đạt yêu cầu. - Mức độ mở rộng kiến thức về tự nhiên – xã hội, tác dụng giáo dục đạo đức ... cho HS thông qua dạy học phân môn đạt kết quả khá cao. b. Tồn tại: Đối với HS: - Trong từng kỹ năng nghe, nói, đọc và viết vẫn còn một bộ phận HS thực hiện chưa đạt yêu cầu. - Hiệu quả của việc phát triển vốn từ; thực hiện yêu cầu nói, viết đúng một số mẫu câu ngắn và mở rộng kiến thức, giáo dục đạo đức cho HS thông qua dạy học phân môn chưa thật cao. 3.2. Nguyên nhân của các tồn tại: a. Nguyên nhân khách quan: Do ở địa bàn nông thôn, HS phần nhiều gia đình nghèo, cha mẹ ít quan tâm đến việc học tập của con em, một số học sinh chưa học qua lớp mẫu giáo 5 tuổi nên 12 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> mức độ nhận biết mặt chữ, thực hiện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của các em không đồng đều với nhau. Cơ sở vật chất, TBDH phần nào còn hạn chế. b.. Nguyên nhân chủ quan. - Tinh thần, thái độ học tập của một bộ phận HS chưa thật tốt. - Một bộ phận HS chưa tích cực trong khâu luyện tập, thực hành MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN HỌC VẦN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC 1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp: Khi đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn học vần cấp tiểu học, chúng tôi dựa vào các nguyên tắc cơ bản sau: 1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu: Việc xây dựng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần phải hướng đến thực hiện có hiệu quả mục tiêu của phân môn học vần đã được Bộ GD&ĐT quy định 1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, tính cụ thể. Các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần phải trở thành một chỉnh thể bao gồm các nhóm giải pháp nhỏ khác nhau. Các nhóm giải pháp này phải có tính gắn bó hữu cơ với nhau, hỗ trợ nhau trong việc nâng cao chất lượng dạy học. 1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn. Việc xây dựng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần ở TH phải dựa trên thực tiễn việc dạy học phân môn này ở TH và phải phù hợp với đặc điểm, nội dung, yêu cầu , nội dung, chương trình của phân môn và phải có tác dụng nâng cao hiệu quả dạy học. 1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả. Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần phải đảm bảo hiệu quả nhận thức, phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cả GV và HS trong quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học. 1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi. Hệ thống các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần phải phù hợp với trình độ nhận thức của HS, phù hợp với năng lực chuyên môn của đa số GV, phù hợp với điều kiện thực tế các trường TH tại địa phương và có khả năng ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn dạy học phân môn này ở cấp TH. 2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần: 2.1. Bồi dưỡng lý luận dạy học phân môn cho giáo viên. a.. Ý nghĩa của biện pháp. 13 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Lý luận dạy học, PPDH là cái mà GV đã được nhà trường sư phạm cung cấp khi họ còn là sinh viên. PPDH cũng được người GV tự hoàn thiện thêm thông qua quá trình dạy học và từ những đợt tập huấn chuyên môn, thao giảng, hội giảng... Tuy nhiên, PPDH không phải là một cái gì đó ”bất di bất dịch” mà nó phải thường xuyên được đổi mới để phù hợp với mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương tiện dạy học. Do đó, việc bồi dưỡng thêm cho GV những kiến thức mới được cập nhật về lý luận, PPDH nói chung – phân môn Học vần nói riêng là điều rất cần thiết để GV nâng cao chất lượng dạy học. b.. Một số nội dung cần bồi dưỡng cho GV. Về khả năng khai thác nội dung trong SGK: hiểu ý đồ của SGK; khai thác nội dung bài học một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn địa phương . Về việc vận dụng các PPDH: mỗi môn, phân môn có những PPDH đặc trưng, phân môn Học vần cũng vậy, có những PPDH phù hợp với đặc trưng từng dạng bài: - Dạng bài làm quen chữ cái. - Dạng bài âm – vần mới. - Dạng bài ôn tập. Việc sử dụng các TBDH hiện có, tự làm thêm TBDH để nâng cao hiệu quả trong dạy học phân môn. Việc tổ chức hợp lý các hình thức dạy học. Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS. c.. Cách tiến hành. Do đặc thù của 01 trường với số lớp 1 không nhiều nên có thể thực hiện thông qua các hình thức sau: - Thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn. - Thông qua việc tự bồi dưỡng của GV. - Khai thác, nghiên cứu thêm thông tin có liên quan qua các phương tiện thông tin đại chúng, Internet... 2.2. Điều chỉnh phương pháp dạy học các nội dung cụ thể trên lớp. a.. Ý nghĩa của biện pháp. Như trên đã phân tích, PPDH không phải là một cái gì đó mang tính ”bất di, bất dịch”, phải luôn luôn tuân thủ trong mọi trường hợp. Vì vậy, việc GV điều chỉnh hợp lý PPDH trong từng nội dung, từng bài cụ thể để phù hợp với thực tế sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học. b.. Nội dung và phương pháp thực hiện. - Đối với phần dạy âm. Phần học âm rất quan trọng, nếu HS học tốt phần học âm khi chuyển sang phần vần các em sẽ không gặp khó khăn; nếu phần học âm các em không đọc viết được chữ cái thì khi ghép vần các em không thể thực hiện được. Không học tốt phân môn Học vần thì các em sẽ không tiếp thu kiến thức khi học môn khác,… 14 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Để các em đọc đúng và nhớ lâu, GV dùng khuôn miệng của mình để giúp học sinh luyện đọc. Ví dụ : - R: lưỡi rung lên, đầu lưỡi chạm vào vòm họng trên. - V: hai môi mím lại, hàm răng trên hơi chạm một tí vào môi dưới. - U: chu mieäng ra. - E: nhe raêng. - Kh: coå hoïng rung leân. - Ph: hai môi mím lại, hơi đẩy ra. đĐối với một số chữ cái như o, ô, ơ, y, l… GVgiúp các em so sánh với một số hình ảnh các em thường gặp hàng ngày. Ví dụ : - o tròn như quả trứng gà, - ô thì đội mũ, - ơ thời mang râu; - y giống như nạng thun; - l giống như thước kẻ,… Khi dạy các em những phụ âm ghi bằng 2, 3 con chữ như nh, th, ng, ngh, ch, tr, …GVluôn củng cố lại cho các em từng con chữ đã học. Ví dụ : khi dạy phụ âm ngh Đối với HS trung bình yếu, GV yêu cầu các em tìm từng con chữ ghép vào bảng cài. Khi ghép n với g, yêu cầu đọc từng con chữ rồi đọc tới âm sau đó yêu cầu ghép tiếp tục h để tạo âm mới ngh. Đối với HS khá giỏi, yêu cầu các em so sánh với ng về cấu tạo và cách đọc. Khi dạy âm ng- ngh, c – k, g – gh, GV dạy cho các em phân biệt ng, c, g ghép với các nguyên âm a, o, ô, ơ, u, ư; ngh, k, gh ghép với e, ê, i. - Đối với phần dạy vần. Giáo viên cần phải luôn luôn thay đổi phương pháp để kích thích HS tư duy, tìm tòi. Ví dụ : - Dạy vần : ia .khi giới thiệu vần ia : GV viết vần lên bảng, hướng dẫn HS cách phát âm vần ia, yêu cầu HS nhận biết vần bằng cách phân tích cấu tạo vần, sau đó ghép vần và luyện đọc. - Khi dạy vần ua : GV viết lần lượt u rồi a (phần viết từng âm này có thể củng cố đối với những học sinh yếu kém), yêu cầu HS tự đánh vần và đọc trơn. Đến khi hướng dẫn ghép tiếng, GV phải thay đổi lệnh đối với HS. Ví dụ 1: có vần ia rồi muốn được tếng tía, em thêm âm gì và dấu thanh gì ? Ví dụ 2 : đứng trước vần ia, các em hãy ghép thêm âm t, thanh sắc để trên chữ I để tạo thành tiếng mới. 15 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Ví dụ 3: có vần ia rồi các em hãy thêm âm đầu và dấu thanh để được tiếng tía…. Khi kiểm tra bài cũ, GV phải phân loại học sinh để kiểm tra : học sinh trung bình yếu đọc, viết từ dễ; HS khá đọc, viết từ khó; HS đọc, viết từ mới. Ví dụ : bài en ên HS trung bình yếu : lá sen, nền nhà HS khá : khen ngợi, mũi tên HS giỏi : bến phà, phèn chua (từ mới) Đối với những vần tạo bởi âm đôi iê, GV cần phải giúp các em phân biệt những tiếng được ghép bởi iê luôn luôn có âm đầu, những tiếng được ghép yê thường không có âm đầu. Khi nào viết i, khi nào viết y (viết y khi có âm đệm u đứng trước như: quý, thuỷ, truy, huỷ, tàu thuỷ, quyến,...; viết i khi không có âm đệm u đướng trước như : mĩ, phỉ, tỉ mỉ, lí lẽ, kĩ thuật,...) Trong từng giờ dạy, GV phải luôn chú trọng tổ chức các trò chơi học tập để giúp các em củng có bài. Thay vì hỏi HS hôm nay học vần gì, vần đó có trong tiếng nào, từ nào,... thì tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi học tập. Căn cứ vào phạm vi kiến thức của phân môn Học vần, tôi phân loại trò chơi như sau : - Trò chơi củng cố âm, vần : + Trò chơi tìm tiếng, từ mới có âm vần đã học: yêu cầu học sinh tìm tiếng từ mới có chứa vần vừa được học gắn vào bảng cài hoặc viết vào bảng con. + Giáo viên đọc một câu thơ, một câu văn có tiếng chứa vần vừa học yêu cầu học sinh nghe và viết tiếng có chứa vần vừa được học. + Đưa tranh ảnh hoặc vật thật có tên mang vần vừa học để học sinh viết vào bảng con,... + giáo viên mô tả đồ vật, con vật, hoa, cây cối,.... để học sinh suy nghĩ đoán viết hoặc ghép. Ví dụ 1: tìm tiếng có vần oi Giáo viên mô tả: Con vật này rất to, sống ở trong, có cái vòi dài và có ngà màu trắng (con voi). Ví dụ 2 : tìm tiếng có vần ao Giáo viên mô tả : đây là món ăn do gạo nấu chung với cá hoặc thịt, thật nhuyễn, dành cho em bé nhỏ hoặc người bị bệnh, người già,... (cháo) Ví dụ 3: tìm tiếng có vần ông Giáo viên mô tả : con vật này lông màu trắng, có cái cổ rất dài (ngỗng) Ví dụ 4: tìm tiếng có vần iên Giáo viên mô tả : Loại hoa này màu vàng nhưng không để trưng bày hay trang trí, thường để nấu canh chua rất ngon, thường có vào mùa nước nổi (điên điển) - Trò chơi ”Bác đưa thư” : Học sinh thực hiện theo nhóm, luân phiên nối các bức thư vào các thùng thư sao cho tên của bức thư được nối phải chứa âm vần được viết trên thùng thư. 16 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - Trò chơi ”Tô màu tìm tiếng” : Tô màu vào tranh sau đó đặt tên cho tranh vẽ. - Trò chơi về từ : + Trò chơi ”Nối ô chữ” : nối các chữ để tạo thành từ. + Trò chơi ”Đi tìm dòng thơ”: chọn các từ trên hai bông hoa đã chuẩn bị sẳn để tạo thành một dòng thơ.... 2.3. Thực hiện việc phân loại học sinh để có biện pháp bồi dưỡng phù hợp: a. Ý nghĩa của biện pháp. Do đặc điểm HS của nhà trường có em đã được học mẫu giáo, có em không qua lớp mẫu giáo mà vào thẳng lớp 1 nên khả năng tiếp thu kiến thức cũng như thực hiện các yêu cầu của GV không đồng đều như nhau. Do vậy, việc GV tiến hành phân loại HS để từ đó có biện pháp bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng là biện pháp cần phải thực hiện để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học. b. Nội dung và phương pháp thực hiện. - Phân loại học sinh. Thực hiện phân loại HS thông qua: - Khảo sát chất lượng đầu năm. - Các bài kiểm tra thường xuyên. - Các bài kiểm tra định kỳ. Nội dung phân loại: - Căn cứ vào chuẩn kiến thức và kỹ năng tối thiểu của phân môn, GV đánh giá kết quả học tập của HS và phân loại. - Có thể soạn thêm một số bài tập phù hợp để phân loại. Lưu ý: - Kết quả phân loại chỉ để GV tham khảo và có hình thức bồi dưỡng phù hợp cho từng loại HS. - Không công bố kết quả, không phân biệt giữa HS giỏi, khá và HS yếu. - Bồi dưỡng học sinh. Yêu cầu đối với HS: - HS trung bình và yếu: nắm kiến thức và vận dụng kỹ năng ở mức độ Đạt yêu cầu. - HS khá: nắm kiến thức và vận dụng kỹ năng ở mức độ khá. - HS giỏi: nắm kiến thức và vận dụng kỹ năng ở mức độ cao. Hình thức: - Thông qua các giờ dạy trên lớp. - Thông qua các bài tập về nhà. *HIỆU QUẢ ÁP DỤNG: - Với cách dạy như trên, bước đầu học sinh đã có hiệu quả, các em dần dần đã đọc được có nhiều tiến bộ rõ rệt. - Không em nào không đánh vần được, các em đã tự đọc và viết bài không cần cha mẹ của các em nữa. 17 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Các em mạnh dạn lên bảng viết và đọc bài trôi chảy, một số em trung bình, yếu tiến bộ hơn nhiều. *KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: Qua thời gian thực hiện đề tài, với các biện pháp này, tôi đã mạnh dạn triển khai với tất cả giáo viên khối 1, được áp dụng với tất cả đối tượng học sinh, thực tế có mang lại kết quả cao. C-BÀI HỌC KINH NGHIỆM Từ những bài học trên , qua thực tế giảng dạy, tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau: - Giáo viên dạy lớp một phải nắm được nội dung chương trình môn học vần lớp một thật vững chắc, nắm vững chương trình giảm tải từ đó giáo viên lựa chọn phương pháp và cách thức truyền đạt nội dung cho học sinh hợp lí có hiệu quả. - Giáo viên luôn có ý thức trao đổi, bồi dưỡng và rèn luyện về cả kiến thức và kĩ năng thực hiện các thao tác khi dạy học vần. Giáo viên phải có lòng yêu nghề mến trẻ và có trách nhiệm đối với học sinh . Luôn luôn gần gũi, động viên những em đọc còn chậm để các em có tiến bộ,giúp đỡ các em khi cần thiết. D-KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trong chương trình Tiếng Việt lớp 1, phân môn Học vần có vai trò và vị trí quan trọng vì là phân môn mang tính “công cụ” để HS tiếp thu kiến thức của các môn và phân môn khác trong chương trình. Với những yêu cầu cụ thể đối với HS về các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết và các yêu cầu: mở rộng vốn từ cho HS, giúp các em nói và viết đúng những mẫu câu đơn giản; mở rộng kiến thức về tự nhiên, xã hội và giáo dục đạo đức cho HS… phân môn Tiếng Việt yêu cầu khá cao trong dạy học để đạt được các mục tiêu, yêu cầu nêu trên. Trong thực tiễn dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường TH & THCS Ba Sao đã có một số bất cập cả từ phía GV lẫn từ HS. Xuất phát từ thực tế trên, kết hợp với việc nghiên cứu hệ thống lý luận, chúng tôi đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học phân môn như sau: - Bồi dưỡng về lý luận dạy học phân môn Học vần cho GV. - Điều chỉnh PPDH các nội dung cụ thể. - Phân loại HS để có biện pháp dạy học hợp lý. Các biện pháp trên qua khảo nghiệm đã đạt được sự đồng thuận cao về mức độ cần thiết và tính khả thi. Qua thử nghiệm đã đạt được một số kết quả khả quan, bước đầu chứng minh cho tính khoa học và thực tiễn của các biện pháp. Ba sao, ngày 8 tháng 3 năm 2012 Người thực hiện Nguyễn Văn Thanh 18 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Ý CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG Đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn học vần lớp 1 ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………….. 19 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 20 Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×