Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.28 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Nghiên Cứu & Trao Đổi



<b>1. Sự cần thiết nghiên cứu</b>
Cuộc khủng hoảng từ việc cho
vay dưới chuẩn của Mỹ xảy ra vào
tháng 8 năm 2007 đã nhấn chìm
toàn bộ nền kinh tế Mỹ cũng như
hệ thống tài chính tồn cầu. Ủy
ban Basel về giám sát ngân hàng
(BCBS 2004) chỉ ra rằng một trong
những nguyên nhân gốc rễ của
cuộc khủng hoảng là vấn đề thanh
khoản, đã phần lớn bị bỏ qua trong
quá khứ. Cuộc khủng hoảng chỉ ra
rằng những ngân hàng dựa nhiều
vào thị trường tiền tệ ngắn hạn tài
trợ cho các tài sản hoạt động của họ
có xu hướng bị vấn đề thanh khoản
rất lớn.


Từ cuộc khủng hoảng trên, đa
số các ngân hàng thương mại đã
quan tâm đến vấn đề thanh khoản
vì nó chính là vấn đề sống còn của
các ngân hàng trong thời kỳ hiện


đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề
thanh khoản trong hệ thống ngân
hàng là vô cùng cần thiết, nếu
các ngân hàng có khả năng thanh


khoản tốt thì khơng những có thể
giúp cho thị trường tài chính ổn
định mà nền kinh tế đất nước sẽ
vận hành tốt. Đặc biệt, trong điều
kiện của VN hiện nay, những vấn
đề về thanh khoản đang được quan
tâm hàng đầu và thường được đưa
ra từ đầu năm để trong năm đó có
thể quản lý tốt. Xuất phát từ những
lý do trên, tác giả đã chọn đề tài
“Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh
khoản của các ngân hàng thương
mại VN” để nghiên cứu.


<b>2. Cơ sở lý thuyết</b>


<i><b>2.1. Những vấn đề cơ bản về </b></i>
<i><b>thanh khoản ngân hàng</b></i>


<i>a. Thanh khoản và rủi ro thanh </i>
nay. Ở VN, hơn hai thập kỷ qua, kể


từ khi hệ thống ngân hàng VN thực
hiện quá trình cải cách các ngân
hàng thương mại (NHTM) đã có
bước phát triển mới cả về lượng
và chất, nhưng vấn đề rủi ro thanh
khoản dường như chưa được quan
tâm đúng mức. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng mà các nhà


quản lý ngân hàng cần thực hiện
là đảm bảo khả năng thanh khoản
hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng
có khả năng thanh khoản tốt, hay
nói cách khác là ngân hàng khơng
gặp rủi ro thanh khoản khi ln có
được nguồn vốn khả dụng với chi
phí hợp lý vào đúng thời điểm mà
ngân hàng cần. Điều này có nghĩa
nếu ngân hàng khơng có đủ nguồn
vốn cần thiết để đáp ứng mọi nhu
cầu của thị trường sẽ có thể mất khả
năng thanh tốn, mất uy tín và dẫn


Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản


của các ngân hàng thương mại Việt Nam



<b>VŨ THỊ HỒNG</b>


<i>Trường Cao đẳng nghề GTVT Đường thủy II </i>


<b>N</b>

<i>ghiên cứu dùng mẫu của 37 ngân hàng thương mại VN (Gồm </i>
<i>NHTMCP, NHTMNN, NHLD) với phương pháp nghiên cứu định </i>
<i>lượng trong giai đoạn 2006-2011. Qua phân tích thống kê, tương </i>
<i>quan và hồi quy dữ liệu bảng không cân xứng với hiệu ứng Fixed Effect, </i>
<i>nghiên cứu đã tìm thấy sự tác động của một số yếu tố đến khả năng thanh </i>
<i>khoản của các ngân hàng thương mại tại VN. Cụ thể là, “Tỷ lệ vốn chủ sở </i>
<i>hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có mối tương quan thuận; ngược </i>
<i>lại, “Tỷ lệ cho vay trên huy động” có mối tương quan nghịch với khả năng </i>
<i>thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Tuy nhiên, nghiên cứu này </i>

<i>không tìm thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng”, “Quy mô </i>
<i>ngân hàng” đối với khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại </i>
<i>VN. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nghiên Cứu & Trao Đổi



<i>khoản</i>


Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng cho rằng: “Thanh
khoản là một thuật ngữ chuyên
ngành nói về khả năng đáp ứng
các nhu cầu về sử dụng vốn khả
dụng phục vụ cho hoạt động kinh
doanh tại mọi thời điểm như chi
trả tiền gửi, cho vay, thanh toán,
giao dịch vốn...”


Theo Duttweiler (2009), có
hai khía cạnh khác nhau về thanh
khoản cần phải đặc biệt quan
tâm, đó là thanh khoản tự nhiên
và thanh khoản nhân tạo. Trong
đó, thanh khoản tự nhiên nghĩa là
các dòng lưu chuyển xuất phát từ
tài sản hoặc nợ nhưng có thời gian
đáo hạn theo luật định. Trong lĩnh
vực ngân hàng, khi một giao dịch
với khách hàng thường được tái
tục, có thể với cùng số tiền hoặc


với số tiền nhỏ hơn/lớn hơn thì
nhìn chung nhóm khách hàng
này thường hành động gần như
theo cách có thể dự đốn được.
Điều này không chỉ đúng với
các tài sản mà còn đúng với các
khoản nợ. Còn thanh khoản nhân
tạo lại được tạo ra thông qua
khả năng chuyển tài sản thành
tiền mặt trước ngày đáo hạn. Ở
đây có thể thấy hầu như lúc nào
cũng có thể dễ dàng chuyển một
chứng khoán cụ thể thành tiền
mặt, đặc biệt nếu vẫn còn công ty
nào muốn chuyển chứng khoán
thành tiền mặt thì thị trường vẫn
còn khả năng chấp nhận các giao
dịch.


Từ trước đến nay đã có nhiều
khái niệm khác nhau về rủi ro
thanh khoản. Nhưng rủi ro thanh
khoản có thể được hiểu là rủi ro
khi NHTM không có khả năng
thanh tốn tại một thời điểm
nào đó, hoặc phải huy động các
nguồn vốn với chi phí cao để đáp


ứng nhu cầu thanh toán; hoặc do
các nguyên nhân chủ quan khác


làm mất khả năng thanh toán
của NHTM, theo đó nó sẽ kéo
theo những hậu quả không mong
muốn. (Duttweiler, 2009)


<i>b. Nguyên nhân gây ra rủi ro </i>
<i>thanh khoản</i>


Nhiều nghiên cứu đã tương
đối thống nhất khi chỉ ra rằng rủi
ro thanh khoản có thể đến từ bên
tài sản nợ hoặc tài sản có, hoặc từ
hoạt động ngoại bảng của bảng cân
đối tài sản của NHTM (Valla và
Escorbiac, 2006).


Bên cạnh đó, theo Nguyễn Văn
Tiến (2010), có ba nguyên nhân
tiền đề khiến cho ngân hàng phải
đối mặt với rủi ro thanh khoản
thường xuyên là:


“Thứ nhất, ngân hàng huy động
và đi vay vốn thời gian ngắn, sau
đó cứ tuần hồn chúng để cho vay
thời gian dài hơn. Do đó nhiều ngân
hàng phải đối mặt với sự không
trùng khớp về kỳ hạn đến hạn giữa
tài sản có và tài sản nợ.”



“Thứ hai, sự nhạy cảm của tài
sản tài chính với thay đổi lãi suất.
Khi lãi suất tăng, nhiều người
gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm
nơi gửi khác có mức lãi suất cao
hơn. Những người có nhu cầu tín
dụng sẽ hỗn lại, hoặc rút hết số
dư hạn mức tín dụng với lãi suất
thấp đã thỏa thuận. Như vậy, thay
đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời
đến luồng tiền gửi cũng như luồng
tiền vay, và cuối cùng là đến thanh
khoản của ngân hàng.”


“Thứ ba, ngân hàng luôn phải
đáp ứng nhu cầu thanh khoản một
cách hoàn hảo. Những trục trặc về
thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm
tin của dân chúng vào ngân hàng.”


<i>c. Đo lường khả năng thanh </i>
<i>khoản</i>


Nghiên cứu về tính thanh khoản


rất quan trọng đối với thị trường tài
chính và các ngân hàng, đặc biệt là
từ sau khủng hoảng kinh tế 2008.
Theo Aspachs (2005) và Nikolau
(2009), tính thanh khoản không


đơn giản phụ thuộc vào các yếu
tố khách quan bên ngoài (chẳng
hạn như thị trường hiệu quả, cơ
sở hạ tầng, chi phí giao dịch thấp,
số lượng lớn người mua và người
bán, đặc tính minh bạch của tài sản
giao dịch) mà điều quan trọng là
nó ảnh hưởng bởi yếu tố bên trong,
đặc biệt là các phản ứng của người
tham gia thị trường khi đối mặt với
sự không chắc chắn và thay đổi giá
trị tài sản. Cho tới nay nghiên cứu
của một số tác giả như Aspachs &
cộng sự (2005), Rychtárik (2009),
Praet và Herzberg (2008) đã tập
trung vào 4 tỷ số thanh khoản như
sau:


L1 = Tài sản thanh khoản/ Tổng
tài sản


Tỷ số này cung cấp một thông
tin chung về khả năng thanh khoản
của ngân hàng. Tức là trong tổng
tài sản của ngân hàng tỷ trọng tài
sản thanh khoản là bao nhiêu. Tỷ
số này cao tức là khả năng thanh
khoản của ngân hàng rất tốt.


L<sub>2</sub> = Tài sản thanh khoản / (Tiền


gửi + Vốn huy động ngắn hạn)


Tỷ số thanh khoản L<sub>2</sub> sử dụng
tài sản thanh khoản để đo lường
khả năng thanh khoản là rất tốt.
Tuy nhiên, tỷ lệ này là tập trung
vào mức độ nhạy cảm của ngân
hàng khi lựa chọn các loại kinh phí
(bao gồm tiền gửi của các hộ gia
đình, doanh nghiệp và các tổ chức
tài chính khác). Tỷ số này cũng
giống L<sub>1</sub>, tức là tỷ số này cao cũng
thể hiện thanh khoản của ngân
hàng là tốt.


L<sub>3 </sub>= Khoản cho vay / Tổng tài
sản


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nghiên Cứu & Trao Đổi



phần trăm khoản cho vay trên tổng
tài sản ngân hàng. Do đó tỷ lệ này
cao tức là khả năng thanh khoản
của ngân hàng yếu.


L<sub>4</sub> = Khoản cho vay/ (Tiền gửi
+ Nguồn vốn ngắn hạn)


Tỷ số này cũng giống L<sub>3</sub>, tức là
nếu cao thì khả năng thanh khoản


của ngân hàng yếu.


Các tỷ số này tương ứng với
nhiều nghiên cứu khác nhau sẽ sử
dụng làm biến phụ thuộc để xem
xét các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản của các ngân
hàng thương mại.


<i>d. Dự trữ thanh khoản</i>


Theo Duttweiler (2009), để duy
trì khả năng thanh toán, một mặt
ngân hàng thương mại phải đảm
bảo toàn bộ giá trị tài sản có phải
lớn hơn các khoản nợ ở mọi thời
điểm. Nếu trong kinh doanh vốn
cho vay khơng có khả năng thu
hồi và lỗ trong nghiệp vụ chứng
khoán sẽ làm cho giá trị tài sản có
xuống thấp hơn tài sản nợ và như
vậy sẽ dẫn đến ngân hàng mất khả
năng thanh tốn, có thể phải đóng
cửa hoặc phải bán tài sản cho ngân
hàng khác.


Trong các nguồn dự trữ để đảm
bảo khả năng thanh khoản cho các
ngân hàng có hai nguồn quan trọng
mà các nhà quản lý trong ngân


hàng phải đặc biệt quan tâm, đó là:
Nguồn dự trữ sơ cấp và nguồn dự
trữ thứ cấp. (Duttweiler, 2009)


Dự trữ sơ cấp là các khoản
mục về ngân quỹ tiền mặt, tiền gửi
ở Ngân hàng Trung ương, tiền gửi
các ngân hàng khác. Các khoản
dự trữ này được sử dụng để dự
trữ theo quy định của Ngân hàng
Trung ương và đáp ứng nhu cầu bất
thường về tiền mặt cho khách hàng
hoặc để thực hiện các khoản thanh
toán cho ngân hàng khác trong việc
thanh toán giữa các ngân hàng.


Dự trữ thứ cấp bao gồm các loại
chứng khốn có khả năng chuyển
thành tiền dễ dàng như: Trái phiếu
kho bạc, giấy chấp nhận trả tiền
của ngân hàng...Dự trữ thứ cấp
được dùng để hỗ trợ cho dự trữ sơ
cấp về các nhu cầu rút tiền, thanh
toán giữa các ngân hàng và vay
mượn của khách hàng đã được dự
kiến trước.


<i>e. Các lý thuyết về đo lường </i>
<i>thanh khoản và các yếu tố ảnh </i>
<i>hưởng đến thanh khoản của các </i>


<i>NHTM.</i>


Các lý thuyết về đo lường thanh
khoản:


Trước đây, người ta thường
sử dụng các tỷ lệ thanh khoản để
đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro
thanh khoản tốt hơn. Tỷ lệ mà các
nghiên cứu trước đây sử dụng bao
gồm tỷ lệ tài sản thanh khoản/tổng
tài sản (ví dụ như Aspachs & cộng
sự (2005), Rychtárik (2009), Praet
v Herzberg (2008);
Demirgỹỗ-Kunt & cộng sự năm 2003), Tỷ
lệ tài sản thanh khoản/tiền gửi
khách hàng (Aspachs & cộng sự
năm 2005; Rychtárik năm 2009;
Praet and Herzberg năm 2008), Tỷ
lệ tài sản thanh khoản/Tổng huy
động ngắn hạn (Indriani, 2004).
Nếu các tỷ lệ thanh khoản này cao
chứng tỏ ngân hàng hoạt động có
hiệu quả và ít rủi ro hơn. Bên cạnh
đó, một số nghiên cứu sử dụng
tỷ lệ vốn vay/tổng tài sản (ví dụ
như Demirgỹỗ-Kunt v Huizinga
nm 1999; Athanasoglou & cng
sự, 2006.), tỷ lệ cho vay ròng với
khách hàng/tài trợ ngắn hạn (ví dụ


như Pasiouras và Kosmidou, 2007;
Naceur và Kandil, 2009) để đánh
giá rủi ro thanh khoản của ngân
hàng. Nếu các tỷ số này cao có thể
dẫn đến rủi ro thanh khoản của các
ngân hàng.


Các yếu tố ảnh hưởng đến khả


năng thanh khoản:


Từ lúc thanh khoản trở thành
vấn đề đáng được quan tâm của
các ngân hàng thương mại thì đã
có rất nhiều lý luận, nhiều tác giả
đề cập đến những yếu tố có thể ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản.
Tuy nhiên, những nghiên cứu cho
kết quả đáng tin cậy nhất đa số
tập trung vào các nghiên cứu về
ngân hàng ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Những nghiên cứu trên tập trung
vào hai nhóm yếu tố chính có thể
ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương
mại:


Nhóm thứ nhất là những yếu tố
nội tại của chính bản thân các ngân
hàng đó như: lợi nḥn, vốn chủ sở


hữu, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay trên
huy động, quy mô ngân hàng, tỷ lệ
dự phòng rủi ro tín dụng...


Nhóm thứ hai đề cập đến các
yếu tố vĩ mô như: tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm
phát, lãi suất cho vay, lãi suất cơ
bản của NHTW, lãi suất bình quân
liên ngân hàng...


Tuy nhiên, nghiên cứu này
chỉ tập trung vào các yếu tố nội
tại, chưa đi sâu vào phân tích ảnh
hưởng của các yếu tố vĩ mô đến
khả năng thanh khoản của các
ngân hàng.


<i><b>2.2. Các nguyên tắc của Basel về </b></i>
<i><b>quản lý thanh khoản trong ngân </b></i>
<i><b>hàng</b></i>


Ủy ban Basel về giám sát ngân
hàng là một diễn đàn cho sự hợp
tác thường xuyên về các vấn đề
liên quan đến giám sát hoạt động
ngân hàng. Mục tiêu của Ủy ban
là hiểu rõ hơn về các vấn đề mấu
chốt trong việc giám sát hoạt động
ngân hàng và nâng cao chất lượng


giám sát hoạt động ngân hàng trên
toàn cầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nghiên Cứu & Trao Đổi



sát khả năng thanh khoản, Ủy ban
Basel đã nỗ lực mở rộng cách hiểu
về cách thức một ngân hàng quản
lý khả năng thanh khoản của mình
ở phạm vi toàn cầu trên cơ sở bù trừ
các giao dịch trong nội bộ. Những
tiến bộ gần đây về phương diện tài
chính và cơng nghệ đã cung cấp
cho các ngân hàng những phương
pháp mới để cấp vốn cho các hoạt
động của mình và quản lý khả năng
thanh khoản.


Vì vậy, Ủy ban Basel đã đưa
ra một số nguyên tắc cơ bản nhằm
đánh giá công tác quản lý thanh
khoản trong ngân hàng như sau:
(Ngân hàng thanh toán quốc tế,
2009)


<i>Nguyên tắc 1: </i>Mỗi ngân hàng
cần thống nhất về một chiến lược
quản lý khả năng thanh khoản hàng
ngày. Chiến lược này cần được
truyền đạt trong toàn ngân hàng.



<i>Nguyên tắc 2:</i> Hội đồng quản trị
của một ngân hàng phải là cơ quan
kiểm duyệt chiến lược và các chính
sách cơ bản liên quan đến quản lý
khả năng thanh khoản của ngân
hàng. Hội đồng quản trị cũng cần
đảm bảo là các cán bộ quản lý cao
cấp của ngân hàng thực hiện những
biện pháp cần thiết để theo dõi và
kiểm soát rủi ro thanh khoản.


<i>Nguyên tắc 3:</i> Mỗi ngân hàng
cần có một cơ cấu quản lý để thực
hiện có hiệu quả chiến lược về khả
năng thanh khoản. Cơ cấu này cần
bao gồm sự tham gia thường xuyên
của các thành viên thuộc nhóm cán
bộ quản lý cao cấp.


<i>Nguyên tắc 4: </i>Một ngân hàng
cần có hệ thống thơng tin đầy đủ
cho việc đo lường, theo dõi, kiểm
soát và báo cáo rủi ro thanh khoản.
Các báo cáo cần được cung cấp kịp
thời cho hội đồng quản trị của ngân
hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và
các cán bộ có thẩm quyền khác.


<i>Nguyên tắc 5:</i> Mỗi ngân hàng


cần xây dựng một quy trình cho
việc theo dõi và đo lường liên tục
các yêu cầu cấp vốn ròng.


<i>Nguyên tắc 6: </i>Các ngân hàng
cần phân tích khả năng thanh
khoản sử dụng nhiều tình huống
dạng “nếu thì”.


<i>Nguyên tắc 7:</i> Các ngân hàng
cần xem xét một cách thường
xuyên những giả thiết được sử
dụng trong việc quản lý khả năng
thanh khoản để xác định xem giả
thiết đó còn giá trị hay khơng.


<i>Ngun tắc 8:</i> Mỗi ngân hàng
cần xem xét định kỳ các nỗ lực của
mình trong việc xây dựng và duy
trì quan hệ với những người nắm
giữ tài sản nợ, để đa dạng hoá các
tài sản nợ và đảm bảo khả năng bán
được các tài sản có của mình.


<i>Nguyên tắc 9:</i> Các ngân hàng
cần có kế hoạch dự phòng bao
gồm chiến lược xử lý các vấn đề về
khả năng thanh khoản và quy trình
xử lý sự suy giảm luồng tiền trong
những tình huống khẩn cấp.



<i>Nguyên tắc 10:</i> Mỗi ngân hàng
cần có một hệ thống đo lường, theo
dõi và kiểm soát khả năng thanh
khoản đối với các ngoại tệ mạnh
mà ngân hàng có hoạt động. Ngồi
việc đánh giá tính thanh khoản
chung cho tất cả các ngoại tệ và
những chênh lệch (mismatch) có
thể chấp nhận được kết hợp với các
cam kết về nội tệ, các ngân hàng
cũng cần phân tích riêng rẽ chiến
lược của mình đối với từng đồng
tiền.


<i>Nguyên tắc 11:</i> Dựa trên những
phân tích được thực hiện theo
nguyên tắc 10, khi cần thiết các
ngân hàng cần xác định và xem xét
thường xuyên trong một khoảng
thời gian nhất định các giới hạn
về quy mô của sự chênh lệch dòng
tiền đối với toàn bộ các ngoại tệ và


với từng ngoại tệ riêng lẻ mà ngân
hàng có hoạt động.


<i>Nguyên tắc 12: </i>Mỗi ngân hàng
cần có một hệ thống kiểm soát nội
bộ phù hợp cho quy trình quản lý


rủi ro về khả năng thanh khoản.
Một thành phần cơ sở của hệ thống
kiểm soát nội bộ là việc đánh giá
và xem xét một cách độc lập tính
hiệu quả của hệ thống và đảm bảo
là việc kiểm soát nội bộ được tăng
cường hoặc chỉnh sửa khi cần thiết.
Kết quả của những đánh giá này
cần được cung cấp cho các cơ quan
giám sát.


<i>Nguyên tắc 13:</i> Mỗi ngân hàng
cần có một cơ chế đảm bảo một
mức độ hợp lý về việc công khai
thông tin về ngân hàng để đảm bảo
uy tín của ngân hàng trong con mắt
công chúng.


<i>Nguyên tắc 14: </i>Các cơ quan
giám sát cần thực hiện việc đánh
giá các chiến lược, chính sách của
ngân hàng có liên quan đến công tác
quản lý khả năng thanh khoản một
cách độc lập. Các cơ quan giám sát
cần yêu cầu các ngân hàng phải có
một hệ thống hiệu quả để đo lường,
theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh
khoản. Các cơ quan giám sát cũng
cần được cung cấp các thông tin từ
các ngân hàng một cách đầy đủ và


kịp thời để đánh giá mức độ rủi ro
tín dụng và đảm bảo là ngân hàng
có các kế hoạch dự phòng về khả
năng thanh khoản đầy đủ.


<i><b>2.3. Một số nghiên cứu trước </b></i>
<i><b>đây</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nghiên Cứu & Trao Đổi



Ngân hàng Trung ương và chu kỳ
kinh tế có tác động như thế nào
đến một mức hỗ trợ thanh khoản
(Liquydity Buffer). Chắc chắn rằng
Ngân hàng Trung ương sẽ đóng vai
trò vơ cùng quan trọng để duy trì
khả năng thanh khoản, họ có thể
cung cấp một sự hỗ trợ vốn trong
trường hợp ngân hàng thương mại
bị khủng hoảng thanh khoản với
tư cách người cho vay cuối cùng
(LOLR). Nghiên cứu này sử dụng
dữ liệu từ bảng cân đối kế toán và
báo cáo thu nhập trên cơ sở hàng
quý, trong giai đoạn 1985 - 2003.


Tiếp đó, vào năm 2006, Valla
và Escorbiac cũng đưa ra kết quả
nghiên cứu của họ. Tuy nhiên,
nghiên cứu này về bản chất cũng


tập trung vào một số yếu tố nội tại
và vĩ mô ảnh hưởng đến khả năng
thanh khoản của các ngân hàng ở
Anh như nghiên cứu của các tác
giả Aspachs & cộng sự (2005).


Nghiên cứu này cho rằng các
yếu tố quyết định thanh khoản ngân
hàng cụ thể và yếu tố kinh tế vĩ mơ
của tính thanh khoản của các ngân
hàng Anh. Họ giả định rằng tỷ lệ
thanh khoản phụ thuộc vào các yếu
tố sau: Xác suất có được sự hỗ trợ
từ cho vay cuối cùng, tăng trưởng
cho vay, tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội, lãi suất ngắn hạn; và lợi
nhuận ngân hàng có tương quan âm
với khả năng thanh khoản. Ngược
lại, quy mơ ngân hàng có thể tương
quan âm hoặc dương với khả năng
thanh khoản


Trái lại với nghiên cứu của
Aspachs & cộng sự (2005), nghiên
cứu của Lucchetta (2007) lại không
đi sâu vào những hỗ trợ vốn từ
ngân hàng trung ương hay những
chính sách kinh tế vĩ mơ mà nó
quan tâm đến mối quan hệ giữa các
ngân hàng với nhau trên thị trường


liên ngân hàng.


Nghiên cứu này đề cập đến
quá trình cho vay liên ngân hàng
để đáp ứng với những thay đổi về
lãi suất. Qua đó, cung cấp những
bằng chứng cho thấy lãi suất bình
quân liên ngân hàng có ảnh hưởng
đến những rủi ro và khả năng thanh
khoản của các ngân hàng. Hầu như
ở tất cả các nước châu Âu, lãi suất
liên ngân hàng có ảnh hưởng tích
cực đến tính thanh khoản của các
ngân hàng đang tồn tại và quyết
định cho vay của một ngân hàng
trên thị trường liên ngân hàng. Ở
nghiên cứu này, tính thanh khoản
bị ảnh hưởng bởi: Hành vi của
ngân hàng trên thị trường liên
ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng,
lãi suất cơ bản của chính phủ, các
khoản vay trên tổng tài sản và tỷ lệ
nợ xấu, quy mơ ngân hàng.


Trong đó, khả năng thanh
khoản được đo bởi tỷ lệ giữa khoản
cho vay trên tổng tài sản (Loans
on Total Assets - LTA). Để phục
vụ cho nghiên cứu này, Lucchetta
sử dụng dữ liệu bảng trong giai


đoạn từ năm 1998 đến 2004. Các
dữ liệu có trong bảng cân đối và
báo cáo thu nhập của 5.066 ngân
hàng ở châu Âu từ cơ sở dữ liệu
BankScope, các mức lãi suất được
lấy từ Ngân hàng Trung ương châu
Âu (ECB) trên cơ sở thống kê số
liệu.


Đặc biệt, năm 2011, Bonfim
và Kim đã đưa ra kết quả nghiên
cứu của mình nhưng khác với các
nghiên cứu trước là tập trung vào
các ngân hàng ở châu Âu và Bắc
Mỹ. Đồng thời tác giả cũng chủ
động chia thời kỳ nghiên cứu thành
hai giai đoạn trước khủng khoảng
và trong khủng hoảng để thấy rõ
được tầm ảnh hưởng của các yếu tố
nội tại cũng như vĩ mô ảnh hưởng
đến khả năng thanh khoản của các
ngân hàng này.


Nghiên cứu này cho rằng để
đảm bảo khả năng quản lý rủi ro
thanh khoản tốt nhất đa số các
ngân hàng thường bỏ qua yếu tố
bên ngồi, mà khơng biết rằng đó
là những yếu tố hỗ trợ quan trọng
cho khả năng thanh khoản. Vì vậy,


bên cạnh việc xác định những yếu
tố ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản, nghiên cứu này còn nhấn
mạnh tầm quan trọng của các tổ
chức tài chính trong việc giảm bớt
rủi ro thanh khoản. Với ý nghĩa
đó, nghiên cứu thu thập dữ liệu từ
Bankscope giai đoạn từ năm 2002
- 2009, do đó bao gồm cả cuộc
khủng hoảng và những năm trước
khủng hoảng. Dữ liệu thu thập
tập trung vào các ngân hàng châu
Âu và Bắc Mỹ, chỉ chọn các ngân
hàng thương mại và tập đồn ngân
hàng có báo cáo tài chính hợp nhất,
khơng bao gồm các ngân hàng mà
khơng có thơng tin về tổng tài sản.
Do đó, tác giả có được 2968 quan
sát và gần một nửa số các quan sát
giới thiệu các ngân hàng ở Canada,
Pháp, Đức, Italy, Hà Lan, Liên
bang Nga, Anh và Mỹ.


Cũng trong năm 2011, nghiên
cứu của Vodová được đưa ra nhưng
tác giả chỉ tập trung vào một quốc
gia duy nhất là Séc, chứ không
quan tâm đến nhiều quốc gia như
Bonfim và Kim.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nghiên Cứu & Trao Đổi



tỷ lệ lạm phát, chu kỳ kinh doanh
và cuộc khủng hoảng tài chính với
tính thanh khoản. Bên cạnh đó,
nghiên cứu cũng phát hiện ra mối
quan hệ giữa quy mô của các ngân
hàng và tính thanh khoản không
rõ ràng lắm. Việc lựa chọn của các
biến dựa trên các nghiên cứu trước
đây có liên quan. Tác giả xem xét
việc sử dụng các biến cụ thể có ý
nghĩa như thế nào đối với nền kinh
tế của Séc. Vì lý do này, tác giả
loại trừ phân tích các biến như sự
cố chính trị, tác động của cải cách
kinh tế, chế độ tỷ giá hối đoái. Tác
giả chỉ xem xét các yếu tố khác
có thể ảnh hưởng đến tính thanh
khoản của các ngân hàng tại Cộng
hòa Séc.


Các biến độc lập được đưa ra
bao gồm 4 biến nội tại (Tỷ lệ vốn
tự có, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu, quy mô ngân
hàng) và 8 biến vĩ mô (Biến giả về
cuộc khủng hoảng tài chính (bằng
1 nếu là năm 2009, bằng 0 nếu là
năm khác), tỷ lệ tăng trưởng kinh


tế, tỷ lệ lạm phát, lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng, lãi suất cho
vay, chênh lệch giữa lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi, lãi suất repo
2 tuần từ chính sách tiền tệ, tỷ lệ
thất nghiệp).


Tác giả đã đưa toàn bộ các biến
trên vào 4 mô hình hồi quy phù
hợp với biến phụ thuộc thể hiện
khả năng thanh khoản là:


L<sub>1</sub> = Tài sản thanh khoản/Tổng
tài sản


L<sub>2</sub> = Tài sản thanh khoản/(Tiền
gửi + Cho vay ngắn hạn)


L<sub>3</sub> = Cho vay/Tổng tài sản
L<sub>4</sub> = Cho vay/(Tiền gửi + Vốn
huy động ngắn hạn)


Từ 4 mô hình hồi quy trên cho
kết quả như sau:


- Mô hình 1: Khả năng thanh
khoản có mối quan hệ đồng biến


với CAP, IRL, NPL; nghịch biến
với FIC và INF với mức ý nghĩa


1% và độ phù hợp của mô hình rất
cao 75.06%


- Mô hình 2: Khả năng thanh
khoản có mối quan hệ đồng biến
với CAP, IRL, TOA; nghịch biến
với INF với mức ý nghĩa 1% và độ
phù hợp của mô hình thấp hơn mơ
hình 1, chỉ có 21.06%


- Mô hình 3: Khả năng thanh
khoản có mối quan hệ đồng biến
với GDP; nghịch biến với CAP và
NPL với mức ý nghĩa 1% và độ phù
hợp của mô hình rất cao 84.89%


- Mô hình 4: Khả năng thanh
khoản có mối quan hệ đồng biến
với TOA; nghịch biến với IRL,
CAP và IRB với mức ý nghĩa 1%
và độ phù hợp của mô hình rất cao
80.26%


Như vậy, mơ hình 3 và 4 có khả
năng giải thích cao. Kết quả cho
thấy ngân hàng nhỏ có khả năng
thanh khoản cao hơn so với các
ngân hàng lớn.


Kết quả các mô hình cho phép


đưa ra kết luận sau đây: Khả năng
thanh khoản ngân hàng tăng với
mức độ an toàn vốn cao hơn, lãi
suất cho vay cao hơn, tỷ lệ nợ xấu
cao hơn và lãi suất liên ngân hàng
cao hơn. Ngược lại, cuộc khủng
hoảng tài chính, tỷ lệ lạm phát và
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (GDP) có
tác động nghịch biến với tính thanh
khoản ngân hàng. Mối quan hệ
giữa quy mơ của các ngân hàng và
tính thanh khoản của nó là khơng
rõ ràng. Tác giả cũng thấy rằng tỷ
lệ thất nghiệp, lợi nhuận, và lãi suất
từ chính sách tiền tệ khơng có ý
nghĩa thống kê ảnh hưởng đến tính
thanh khoản của ngân hàng thương
mại Séc.


Bên cạnh các nghiên cứu tập
trung ở châu Âu và Bắc Mỹ như
trên, còn có một nghiên cứu ở


VN của tác giả Đặng Quốc Phong
(2012) về các yếu tố ảnh hưởng đến
thanh khoản của các NHTMCP
VN.


Nghiên cứu này chỉ phân tích
trong giai đoạn 2007-2012 và đối


với 37 ngân hàng thương mại cổ
phần ở VN. Trong nghiên cứu này
tác giả đã đi sâu tìm hiểu mối quan
hệ giữa một số biến nội tại (Như
quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ
sở hữu, tỷ lệ lợi nhuận, tỷ lệ nợ xấu
…) và hai biến vĩ mô (Tỷ lệ lạm
phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế)
với khả năng thanh khoản của 37
ngân hàng thương mại cổ phần ở
VN. Đồng thời nghiên cứu này sử
dụng biến phụ thuộc để đo lường
khả năng thanh khoản là Tài sản
thanh khoản/Tổng tài sản.


Cũng tại VN, một công trình
khác của nhóm sinh viên trường
Đại học Kinh tế TP.HCM (2010)
cũng nghiên cứu vấn đề định
lượng cho thanh khoản nhưng chủ
yếu quan tâm đến mối quan hệ
của thanh khoản với lợi nhuận của
ngân hàng và dự báo sự thay đổi
của lượng tiền gửi trong tương lai
nếu các yếu tố lãi suất tiền gửi, giá
vàng, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng
trưởng kinh tế thay đổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nghiên Cứu & Trao Đổi




thanh khoản. Sự thay đổi của tỷ lệ
cho vay dài hạn trên tiết kiệm ngắn
hạn còn phản ánh chiến lược quản
trị tài sản thanh khoản của ngân
hàng theo tính năng động của thị
trường liên ngân hàng. Mô hình đã
thể hiện các công cụ phái sinh của
thị trường liên ngân hàng là một hỗ
trợ vốn bên ngoài để ngân hàng đối
phó với những cú sốc tiền gửi.


Trên cơ sở toàn bộ các nghiên
cứu trước làm nền tảng cho nghiên
cứu này, cần thiết phải tóm tắt lại
để có được cái nhìn sâu sắc nhất
về tồn bộ các yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng thanh khoản của các
ngân hàng thương mại:


Bảng 1 cho thấy có 7 nghiên
cứu chính của một số tác giả ở các


quốc gia khác nhau trên thế giới
được sử dụng chủ yếu cho nghiên
cứu này. Tuy nhiên, mỗi nghiên
cứu của các tác giả đều chú trọng
đến một số yếu tố khác nhau nhưng
đều ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương
mại. Vì vậy, trong nghiên cứu này


không thể xem xét được hết toàn
bộ các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản như tất cả các
nghiên cứu trước mà chỉ chú trọng
vào một số yếu tố được xem là có
khả năng giải thích cao nhất với
khả năng thanh khoản.


<b>3. Dữ liệu và phương pháp </b>
<b>nghiên cứu</b>


<i><b>3.1. Mô tả mẫu nghiên cứu</b></i>
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu


Các yếu tố Escorbiac Valla và
(2006)


Bunda và
Desquylbet


(2003)


Vodová


(2011) Kim (2009)Bonfim và Lucchetta (2007) Indriani(2004)


Aspachs
& cộng sự


(2005)



Tỷ lệ vốn CSH + + - + +


Quy mô ngân hàng +/- - +/- +/- +


+/-Tỷ lệ nợ xấu - +


-Tỷ lệ lợi nhuận - -


+/-Hỗ trợ vốn từ NHTW - +


Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế - +


-Tỷ lệ tăng trưởng cho vay


-Lãi suất ngắn hạn -


-Hoạt động liên ngân hàng +


Lãi suất bình quân liên NH + + -


-Lãi suất cơ bản


-Tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản +/- + +


Cho vay ròng/Tổng tài sản +


-Tỷ lệ lạm phát + +


Tỷ lệ cho vay trên huy động



(LDR) -


-Lãi suất cho vay - -


-Lãi suất repo 2 tuần -


-Tỷ lệ thất nghiệp


-Chênh lệch lãi suất cho vay và


tiền gửi


-Biến giả khủng hoảng tài chính -


-được thu thập từ các bản báo cáo
tài chính hợp nhất hàng năm của
các ngân hàng thương mại VN
trong khoảng thời gian từ năm
2006 - 2011. Dữ liệu được lấy trên
trang web của các cơng ty chứng
khốn cũng như của chính các
ngân hàng đó. Mẫu nghiên cứu
bao gồm 37 ngân hàng với tổng
cộng 185 quan sát cho dữ liệu bảng
khơng cân xứng. Các báo cáo tài
chính hợp nhất là cơ sở để xem
xét hoạt động của các ngân hàng
hiện đại. Lý do chính là ngày nay
phần lớn các ngân hàng đều phát


triển theo hướng tập đoàn đa ngành
nghề, đa lĩnh vực nên các báo cáo
tài chính riêng khơng thể phản ánh
được tình hình tài chính cũng như


<b>Bảng 1: Tóm tắt các nghiên cứu trước về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng</b>
<b>thanh khoản của ngân hàng</b>


</div>

<!--links-->

×