Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.55 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TRẦN ĐỨC NGUN</b>
<b>Tóm tắt</b>
<i>Di sản văn hóa nằm ven sơng Cầu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh rất đa dạng, phong phú, bao gồm cả </i>
<i>di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Các di sản văn hóa này mang những đặc điểm riêng của vùng </i>
<i>văn hóa Kinh Bắc, được bảo tồn và trao truyền qua nhiều đời nay, là nguồn tài nguyên nhân văn có thể </i>
<i>khai thác trong phát triển du lịch, góp phần khơng nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của địa </i>
<i>phương. Những năm qua, tỉnh Bắc Ninh đã có sự quan tâm đầu tư cho việc bảo tồn, phát huy giá trị các </i>
<i>di sản, gắn với phát triển du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác giá trị các di sản văn hóa này cịn chưa phù </i>
<i>hợp với tiềm năng, cần phải có những định hướng, giải pháp cụ thể, hồn thiện hơn.</i>
<b>Từ khóa: Bắc Ninh, di sản văn hóa, phát triển du lịch, sơng Cầu</b>
<b>Abstract</b>
<i>Cultural heritage along Cau riverside in Bac Ninh province is very diverse and rich, including </i>
<i>tangible and intangible cultural heritages. These cultural heritages have unique characteristics of </i>
<i>Kinh Bac cultural area, preserved and transmitted over through many generations. They are human </i>
<i>resources that can be exploited in tourism development, and contribute significantly into the general </i>
<i>socio-economic development of the province. In recent years, Bac Ninh province has paid attention </i>
<i>to investment in conserving, promoting the value of heritage, associated with tourism development. </i>
<i>However, the exploitation of the value of these cultural heritages has not been consistent with the </i>
<i>potential and it is neccessary to have more specific and complete orientations and solutions.</i>
<b>Keywords: Bac Ninh, cultural heritage, tourism development, Cau river</b>
Xứ Bắc xưa có đơi dịng sơng với tên gọi
Nguyệt Đức giang hợp cùng dịng Nhật Đức
giang (sơng Thương) như một biểu tượng văn
hóa âm - dương hịa quyện, tạo sự ấm no, sung
túc cho vùng đất này. Dịng Nguyệt Đức (hay
cịn gọi là sơng Như Nguyệt, sông Cầu, sông
Thị Cầu) được nhắc đến trong nhiều cuốn địa
chí dưới các triều đại phong kiến. Vị thế của
nó được người xưa rất coi trọng, sách <i>Đại Nam </i>
<i>nhất thống chí</i> dưới triều Nguyễn cịn ghi rằng:
[sông Nguyệt Đức] năm Tự Đức thứ 3, liệt vào
hàng sông lớn, [được] chép vào điển thờ [4,
tr.94].
tại địa điểm Lục Đầu Giang, hịa thành dịng
Thái Bình rồi chảy tiếp ra biển Đông. Sông Cầu
<b>1. Di sản văn hóa vùng ven sơng Cầu và vai </b>
<b>trị trong phát triển du lịch</b>
Trải dài theo lịch sử, dòng Nguyệt Đức mang
phù sa màu mỡ bồi đắp cho đôi bờ, là điều kiện
lý tưởng để cư dân quần tụ, lập xóm làng, tăng
gia sản xuất, sinh sôi phát triển. Dọc theo bờ
sơng đó, cùng với sự tụ cư của con người, trong
cuộc sống, lao động và trong sáng tạo tinh thần
đã sản sinh ra những sản phẩm văn hóa trải
suốt các thời kỳ khác nhau, đó là những di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể mang những nét
đặc trưng của vùng Kinh Bắc.
<i><b>1.1. </b></i>Theo các nghiên cứu lịch sử, văn hóa,
đặc biệt là khảo cổ học, địa bàn ven sông Cầu,
sông Ngũ Huyện Khê từ hàng ngàn năm trước
đã là nơi cư trú của người Việt cổ và “là cái nôi
sinh thành người Việt” như nhận định của cố
GS. Trần Quốc Vượng [7]. Dọc theo hữu ngạn,
đoạn từ ngã ba Xà trở xuống, các nhà khảo
những kỹ thuật chế tác tinh xảo. Các di vật thu
được ở hai di chỉ trên cho thấy, đời sống kinh
tế, văn hóa của người Việt cổ ven sơng Cầu có
sự phát triển khơng ngừng theo thời gian.
Q trình tụ cư, lao động sản xuất của
người dân bám theo triền sông màu mỡ, đời
sống ngày càng thịnh vượng. Ven sông hình
thành các làng xóm trù phú kéo theo đời sống
tinh thần cũng ngày càng được nâng lên.
Mang những đặc điểm của cư dân trồng lúa
nước luôn cầu mong mưa thuận, gió hịa, mùa
màng bội thu nên làng nào cũng xây dựng các
cơng trình tín ngưỡng như đình, chùa, đền,
miếu,… tạo thành một hệ thống các điểm
Chùa Vọng Nguyệt (Khai Nghiêm tự) được
ghi trong sách <i>Đại Nam nhất thống chí: </i>“Chùa
Khai Nghiêm ở xã Vọng Nguyệt, huyện Yên
Phong do Nguyệt Sinh công chúa nhà Lý
dựng. Năm Khai Hựu thứ 5 đời Trần Hiến Tông
(1333) người xã ấy cho sửa sang lại. Đời Dụ
Tông (1341 - 1369) Hàn lâm học sỹ Trương Hán
Siêu soạn bài bia, đến nay vẫn còn” [4, tr.132].
Chùa hiện cịn lưu giữ được nhiều di vật, trong
đó có tấm bia trùng khắc năm Cảnh Thịnh thứ
5 (1797) chép lại nội dung văn bia do Trương
Hán Siêu soạn trước đây, nội dung có đoạn
nói đến việc đả phá đạo Phật: “Đạo Phật là
một chuyện hoang đường mà nhiều người
có quyền thế, ngoại đạo a dua theo... các bậc
thánh hiền ngày càng xa cách, chính đạo ngày
càng lu mờ...”.
(Trương Hống, Trương Hát) - hai vị tướng đã đi
vào lịch sử từ thế kỷ thứ VI. Các di tích thờ đức
Thánh là các ngơi đình, đền nằm ở các làng
hai bên tả hữu ngạn sông Cầu, theo thống kê
Khi nhắc đến những ngơi đình ở xứ Bắc,
dân gian có câu ca rằng: <i>“Thứ nhất là đình Đơng </i>
<i>Khang/Thứ nhì Đình Báng, vẻ vang đình Diềm”. </i>
Đây là ba ngơi đình nổi tiếng, niềm tự hào của
người dân xứ Bắc. Trong đó, đình Diềm là ngơi
đình của làng Viêm Xá (làng Diềm). Đình được
xây dựng vào những năm cuối thế kỷ XVII, đến
nay các cấu kiện kiến trúc vẫn còn giữ lại tương
đối nguyên vẹn. Điều tạo nên sự độc đáo hấp
dẫn của ngôi đình là nghệ thuật chạm khắc
trang trí trên các cấu kiện kiến trúc, đặc biệt là
ở bộ cửa võng của đình làng. Các nghệ nhân
dân gian đã thổi hồn vào từng nét chạm tạo
nên một bức tranh hồn hảo, thực sự khơng
cịn là một cấu kiện kiến trúc bình thường mà
đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật hồn
mỹ, độc nhất vơ nhị ở xứ Kinh Bắc xưa. Điều
khá lý thú là ở phần bờ bắc, gần như đối diện
với Viêm Xá, làng gốm cổ Thổ Hà cũng có ngơi
đình nổi tiếng được xây dựng cùng thời với
đình Diềm. Đình Thổ Hà thờ thành hồng là
Lão Tử - một trường hợp khá độc đáo của tín
ngưỡng thờ thành hồng của người Việt. Đình
lãng mạn, nhưng, về phương diện địa - lịch sử
thì dịng sơng này lại là vị trí chiến lược quan
trọng: là phòng tuyến tự nhiên để bảo vệ từ xa
cho kinh thành Thăng Long. Vị thế đó đã nhiều
lần che chắn, cản bước quân thù khi tiến đánh
Thăng Long, mà tiêu biểu nhất là cuộc quyết
chiến chống quân xâm lược Tống của quân và
dân ta năm 1077 dưới sự lãnh đạo của vị anh
hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Trong cuộc chiến
ấy, vào những giờ phút cam go, căng thẳng
nhất của cuộc chiến, bên bờ Như Nguyệt đã
vang lên bài thơ thần <i>Nam quốc sơn hà</i>, được
coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
dân tộc. Chiến thắng sông Như Nguyệt đã để
lại cho ngày nay một số lượng lớn các di tích
nằm cả đôi bờ bắc nam, tiêu biểu như đền Xà,
đền Núi, bến sông Như Nguyệt, chùa Bồ Vàng,
bờ Xác, đền Vọng Nguyệt, đền Phấn Động, trại
Các di tích, di vật ở các làng xã ven sông
Cầu là những dấu ấn văn hoá vật thể minh
chứng cho sự tồn tại, phát triển không ngừng
của cư dân ở đây. Đó là những tác phẩm nghệ
thuật độc đáo, thể hiện tài nghệ của các thế hệ
con người nối tiếp nhau trong suốt chiều dài
lịch sử dân tộc hàng nghìn năm, tạo nên một
dịng văn hóa phong phú, đặc sắc của vùng
q ven sơng Cầu.
thời kỳ, dịng sông nhộn nhịp thuyền buôn
vào ra tấp nập, đưa những sản phẩm gốm của
hai làng tỏa đi khắp muôn nơi. Nay, nghề gốm
bị mai một nhưng ở những ngơi làng này cịn
lưu đầy những dấu tích thịnh vượng của nghề
xưa. Xuôi xuống một chút vùng Đáp Cầu - Quế
Võ cịn có ngơi làng nổi tiếng với truyền thống
học hành, khoa cử, đó là làng Kim Đôi. Lịch sử
đã ghi nhận đây là một trong những làng có
nhiều người đỗ đạt khoa bảng nhất với 25 vị đỗ
tiến sĩ, trong đó dịng họ Nguyễn có tới 18 vị.
Vua Lê Thánh Tông đã từng ban khen cho làng
8 chữ vàng <i>“Kim Đôi gia thế chu tử mãn triều” </i>
(người Kim Đơi áo đỏ, áo tía đầy trong triều).
Và hơn cả, dọc theo đôi bờ sông ấy là các
làng quan họ cổ: Đông Mai, Cổ Mễ, Thị Cầu, Đẩu
Hàn, Thượng Đồng, Khúc Toại, Trà Xuyên… Ở
những làng thơn đó, những làn điệu dân ca
quan họ mượt mà, những canh quan họ thâu
đêm được các liền anh liền chị tình tứ cất lên
trong những dịp hội hè lễ tết: <i>“Về Kinh Bắc tìm </i>
<i>câu quan họ/Người qua cầu gửi gió áo bay/Long </i>
<i>lanh ánh mắt nheo mày/Liền anh liền chị mê </i>
<i>say đối lời”.</i> Làng Viêm Xá - nơi duy nhất thờ bà
Thủy tổ Quan họ, nay vẫn còn giữ được “nhà
chứa” với tuổi đời ngót trên thế kỷ, là nơi diễn
ra các sinh hoạt văn hóa của “bọn” quan họ.
Vào độ đầu tháng Hai, làng mở hội, dân khắp
các vùng xung quanh về tụ họp để tưởng
nhớ công đức của Vua Bà - người sáng tạo và
truyền dạy các làn điệu dân ca Quan họ Bắc
Ninh. Các nghi lễ diễn ra trong lễ hội thể hiện
lịng thành kính, cầu mong Vua Bà che chở cho
dân làng làm ăn thuận lợi, mùa màng tươi tốt,
dân an vật thịnh. Đặc sắc nhất là các hình thức
sinh hoạt quan họ như hát cửa đình, cửa đền,
trong “nhà chứa” của các ông trùm, bà trùm với
nghi thức trang trọng vừa cổ xưa, độc đáo, vừa
phong phú, thể hiện phong cách và tài năng
ca hát của các nghệ nhân, liền anh liền chị ở
làng Thủy tổ Quan họ.
Các làng xã vùng ven sơng Cầu cịn có
vơ cùng độc đáo có khả năng thu hút được du
khách bốn phương. Lễ hội Kéo co thơn Hữu
Chấp - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia - là
một trong những lễ hội truyền thống lâu đời
đã tồn tại hàng trăm năm và đã trở thành nét
đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần. Lễ hội
được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng Giêng
với ước vọng chinh phục thiên nhiên, cầu
mong mưa thuận gió hịa, người dân có cuộc
sống ấm no, hưng thịnh… Lễ hội đền Bà Chúa
Kho, hội đền Cùng giếng Ngọc vào mỗi dịp
đầu xuân thu hút hàng vạn lượt người khắp
các nơi nô nức tham gia…
khai thác có hiệu quả giá trị của những di sản
văn hóa tiêu biểu này trong phát triển du lịch
vùng Kinh Bắc hiện nay.
<b>2. Thực trạng phát huy di sản văn hóa trong </b>
<b>phát triển du lịch</b>
Những di sản văn hóa phong phú, đa dạng,
mang đậm bản sắc văn hóa của vùng Kinh Bắc
là điều kiện thuận lợi để lựa chọn, khai thác,
đưa những di sản văn hóa ấy trở thành những
Những năm qua, việc phối hợp giữa cơng
tác quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch
ở Bắc Ninh đã bước đầu được chú trọng. Với lợi
thế về vị trí địa lý và tiềm năng du lịch, Bắc Ninh
có nhiều điều kiện để phát triển du lịch, đặc
biệt là các loại hình như du lịch văn hóa tâm
linh, du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm... Đây
là địa phương khơng có các tài ngun thiên
nhiên đặc hữu, như khơng có rừng, khơng có
biển, khơng có cảnh quan thiên nhiên đặc
sắc, lại cũng không phải là điểm đến để mua
sắm, nghỉ dưỡng, nên có thể khẳng định rằng,
số lượng khách chủ yếu được thu hút bởi hệ
thống di sản văn hóa, trong đó nổi bật là các
di tích, lễ hội. Theo một số nghiên cứu đánh
giá, số lượng khách du lịch đến Bắc Ninh đông
nhất là vào những thời điểm đầu năm và mục
đích chủ yếu của các du khách tới đây là du lịch
tín ngưỡng tâm linh. Qua nghiên cứu thực tế
tại điểm đền Phấn Động và đền Bà Chúa Kho
cho thấy 80% du khách đến đây vì nhu cầu tín
ngưỡng, khoảng 20% cịn lại là tham quan,
vãng cảnh di tích. Các điểm di tích tại khu vực
ven sơng Cầu hàng năm thu hút một lượng
khách lớn đến đây thực hành tín ngưỡng, nổi
địa phương, năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm
2030, trong đó nhấn mạnh việc phát triển các
sản phẩm du lịch đặc thù gắn với các điểm di
sản văn hóa tại vùng ven sông Cầu như: Xây
dựng khu du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng miền
Quan họ tại phường Hòa Long; trải nghiệm và
khám phá các giá trị văn hóa làng quê vùng
Kinh Bắc; du ngoạn sơng Cầu; bảo tồn các giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc; hình thành
khu du lịch văn hóa - lễ hội đền Bà Chúa Kho
đạt tầm vóc là khu lễ hội tín ngưỡng cấp quốc
gia; khu du lịch lịch sử chiến tuyến Như Nguyệt
với loại hình du lịch trải nghiệm chiến trường
lịch sử chống quân xâm lược… Đến nay, các
dự án trong quy hoạch đang được triển khai
tại các điểm khác nhau.
Được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại, dân ca quan
họ thực sự là nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn
du khách trong và ngoài nước. Tỉnh Bắc Ninh
coi đây là một sản phẩm đặc thù để phục vụ
hóa trên địa bàn tỉnh. Đầu năm 2019, UBND
tỉnh Bắc Ninh ban hành quyết định công nhận
11 điểm du lịch, trong đó khu vực ven sơng
Cầu có các điểm như Văn miếu Bắc Ninh, làng
Viêm Xá, đền Bà Chúa Kho… Điều này tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp lữ hành có thể chủ
động trong việc lên kế hoạch xây dựng, thiết
kế thông tin sản phẩm du lịch, quảng bá, đón
du khách các nơi đến với Bắc Ninh.
Cùng với việc đa dạng hóa các hình thức du
lịch, những năm qua, Bắc Ninh cũng quan tâm
đầu tư và thu hút đầu tư để xây dựng các cơ
sở lưu trú cho du khách. Các điểm lưu trú tập
trung tại khu vực thành phố Bắc Ninh, từ đây
có thể dễ dàng đi tới các điểm di sản. Đến nay,
Bắc Ninh có 604 cơ sở lưu trú, trong đó có các
khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao. Các cơ
sở lưu trú đã đáp ứng được nhu cầu của khách
du lịch, nhất là nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi của
Với sự quan tâm, đầu tư về nhiều mặt, trong
những năm qua, du lịch Bắc Ninh đã đạt những
hiệu quả đáng kể. Theo số liệu thống kê, số
lượng khách đến địa phương tăng theo từng
năm: năm 2015 đạt 576.000 lượt khách, năm
2016 là 874.000 lượt, năm 2017 là 1.100.000
lượt và năm 2018 tăng lên gần 1,4 triệu lượt.
Số lượng khách tăng lên theo từng năm đồng
nghĩa với việc doanh thu từ du lịch cũng tăng
đáng kể: năm 2015 thu được 382 tỷ đồng, năm
2016 là 589 tỷ đồng, năm 2017 là 710 tỷ đồng
và năm 2018 doanh thu đạt 855 tỷ đồng, tăng
hơn 20% so với năm 20171<sub>. Nguồn thu này đã </sub>
góp phần khơng nhỏ vào sự tăng trưởng kinh
tế chung của toàn tỉnh. Mặc dù chưa có con số
thống kê cụ thể lượng khách cũng như doanh
thu tại các điểm di tích, di sản ở khu vực ven
sơng Cầu, nhưng có thể khẳng định, các di sản
văn hóa ở đây là một trong những địa điểm có
sức cuốn hút đối với du khách.
Tuy nhiên, trong những năm qua, hoạt
động khai thác giá trị di sản văn hóa gắn với
phát triển du lịch vẫn còn những hạn chế, khó
Các dự án phát triển du lịch trong khu vực
đã được tiến hành, nhưng qua nhiều năm chưa
thực hiện xong, các điểm quy hoạch phát triển
du lịch đầu tư chưa đồng bộ, các loại hình dịch
vụ du lịch như hàng lưu niệm, hướng dẫn viên,
vui chơi giải trí, dịch vụ tư vấn thơng tin… chưa
phát triển. Các sản phẩm du lịch cịn thiếu tính
đặc sắc, đơn điệu, chưa đáp ứng được mức độ
trải nghiệm du lịch. Nhìn chung mới phát huy
được một số yếu tố lợi thế có sẵn, chưa đầu tư
có chiều sâu, thiếu tính sáng tạo… Hoạt động
tuyên truyền, quảng bá cho các di sản văn hóa,
tạo hình ảnh điểm đến trong hoạt động du
lịch còn khá nghèo nàn, chưa hấp dẫn, thu hút
được cộng đồng.
<b>3. Giải pháp phát huy giá trị di sản văn hóa </b>
<b>phục vụ phát triển du lịch</b>
Với những tiềm năng về nguồn di sản văn
hóa đang hiện hữu bên đơi bờ sông Cầu cũng
như thực trạng phát huy giá trị của các di sản
văn hóa phục vụ cho việc phát triển du lịch,
thiết nghĩ có một số công việc cần tiến hành
trong thời gian tới. Khai thác các tiềm năng
này là một phần thực hiện quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch của địa phương được thành
công, thúc đẩy du lịch thực sự trở thành một
“ngành kinh tế mũi nhọn” của địa phương, góp
phần vào sự phát triển chung của cả nước.
các sự kiện văn hóa gắn với các di tích, di sản
mang tính chất vùng, liên vùng. Ví dụ: tổ chức
Lễ hội chiến thắng sông Như Nguyệt (định kỳ
3 - 5 năm một lần). Lễ hội có sự tham gia của
nhiều làng, thôn nằm cả hai bên bờ sông Cầu
với những kịch bản nhằm tái hiện chiến thắng
lừng lẫy năm xưa. Cùng với đó, có thể tổ chức
các cuộc thi bơi thuyền, bơi vượt sông,… giữa
các địa phương với nhau.
Cùng với việc đầu tư cho các điểm di tích,
cần xây dựng mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng như
đường giao thông, cơ sở lưu trú, biển báo chỉ
dẫn, các cơ sở dịch vụ, thông tin liên lạc,…
phục vụ cho du khách đến du lịch tại đây. Tại
các địa điểm như làng quan họ cổ Viêm Xá, Thị
<i><b>Hai là,</b></i> hình thành các tour/tuyến du lịch di
sản văn hóa cụ thể, độc đáo hấp dẫn du khách.
Cần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, khơng chỉ
kết nối các điểm du lịch di tích, lễ hội mà còn
phải kết hợp với những thế mạnh du lịch làng
nghề, du lịch sinh thái (du thuyền trên sông
Cầu) thưởng thức những làn điệu quan họ, du
lịch trải nghiệm (trải nghiệm làm các sản phẩm
thủ công, làm ruộng, chăn nuôi…).
Đặc biệt, cần một giải pháp phối kết hợp
giữa hai địa phương bằng sự thỏa thuận giữa
chính quyền Bắc Ninh và Bắc Giang trong việc
đầu tư và phát triển du lịch tả, hữu ngạn sơng
Cầu. Nhiều bài báo, tạp chí hay cơng trình
nghiên cứu đã đề xuất giải pháp nhằm phối
hợp phát huy giá trị di sản văn hóa Quan họ
ở đôi bờ sông Cầu, nhưng đến nay mới chỉ có
những động thái riêng của từng bên đối với
việc khai thác các di sản của bên mình mà chưa
có sự bàn thảo song phương. Di sản văn hóa ở
đơi bờ đều phong phú, đa dạng, mang những
lịch văn hóa có sức hút lớn đối với du khách.
<i><b>Ba là,</b></i> tăng cường quảng bá cho các di sản
văn hóa. Từ thực tế là du khách mới biết đến
một số điểm di tích, lễ hội, làng nghề tiêu biểu
như đền Bà Chúa Kho, đình làng Diềm,… cịn
lại những di sản khác thì thiếu thơng tin, hoặc
thống qua từ một nguồn nào đó. Do vậy cần
có các chương trình, kế hoạch cụ thể về quảng
bá, xây dựng hình ảnh điểm đến cho các di sản