Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thí nghiệm về quán tính (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.21 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1001 câu hỏi đáp về lịch sử Việt Nam</b>



<b>1. Ba vua trong câu ca dao "Một nhà sinh đặng ba vua/Vua còn, vua mất, vua </b>
<b>thua chạy dài" là những vua nào? </b>


<b>Trả lời: Đó là Đồng Khánh (vua còn); Kiến Phúc (vua mất) và Hàm Nghi (vua thua </b>
chạy dài)


Câu ca dao này nói về gia đình Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai - Hồng tử thứ
26 của vua Thiệu Trị. Ơng có 3 người con làm vua:


- Vua Kiến Phúc: tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ ba của Kiên Thái Vương và
bà Bùi Thị Thanh. Vua Tự Đức vì lúc bé bị bệnh đậu mùa, khơng có con nên đã nhận Ưng
Đăng làm con nuôi. Sau này, Ưng Đăng lên ngôi, là vị vua thứ 7 của triều Nguyễn.


- Vua Hàm Nghi: tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, cịn có tên là Nguyễn Phúc Minh, con
thứ 5 của Kiên Thái Vương và bà Phan Thị Nhàn. Là vua thứ 8 triều Nguyễn.


- Vua Đồng Khánh: tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, con trưởng của Kiên Thái Vương
Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, đồng thời là con nuôi của vua Tự Đức. Là vị
vua thứ 9 của triều Nguyễn.


Trong 3 vua này thì vua Kiến Phúc chỉ làm vua được 8 tháng. Vua mất lúc mới 16 tuổi,
chưa nạp phi, khơng có con cái. Vua Hàm Nghi chống lại quân Pháp, ban hịch Cần Vương,
tổ chức kháng chiến nhưng thất bại. Vua phải chạy lên vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh. Sau
bị Pháp bắt đầy đi Algérie năm 1888. Vua Đồng Khánh lên ngôi năm 1885. Vua rất được
lịng người Pháp nhưng chỉ ở ngơi được hơn 3 năm, mất ngày 28 tháng 1 năm 1889. Khi đó
ơng 25 tuổi.


Câu ca dao này ra đời khi vua Đồng Khánh vừa lên ngôi. Vua Kiến phúc đã mất. Vua Hàm
Nghi đang cùng quân Cần Vương chạy lên vùng núi. Do đó mới gọi là "vua cịn, vua mất,


vua thua chạy dài".


<b>2. Vì sao nhà Nguyễn kiêng tên Hoa? </b>
<b>Trả lời: Vì mẹ vua Thiệu Trị tên là Hồ Thị Hoa</b>


Từ đầu triều Nguyễn, tất cả các danh từ có từ “hoa” đều phải đổi. Vì thế mà chợ Đơng Hoa
thành chợ Đơng Ba, tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hoá, cầu Hoa bắc qua rạch Thị
Nghè đổi thành cầu Bông, điệu hát “hoa tình” thành “huê tình”, “hoa lợi” thành “huê lợi”,
“hoa viên” thành “h viên”,… Vì sao có chuyện kiêng cữ và chuyển đổi ấy?


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hồ Thị Hoa có đủ các đức tính thục, thận, hiền, trinh; sống hết đạo hiếu kính. Bà được
Hồng đế và Hồng hậu dành cho nhiều tình cảm yêu thương. Đến tháng 5/1807, bà sinh
con trai đầu lòng, đặt tên là Miên Tông. Bà mất sau khi sinh con 13 ngày. Khi ấy, bà mới
17 tuổi.


Mẹ mất, Miên Tông được gửi cho bà nội là Hồng hậu Thuận Thiên ni cho đến trưởng
thành. Thương xót cơ con dân bất hạnh, vua Gia Long xuống dụ cấm triều đình và bá tánh
từ nay không được nhắc đến từ “hoa” nữa. Những từ có chữ “hoa” thì phải chuyển đổi
thành ba, h, bơng, hố,… để khỏi phạm h.


Năm 1820, Hồng tử Đảm lên nối ngơi, lấy niên hiệu Minh Mạng. Năm 1841, người con
mất mẹ lúc 13 ngày tuổi Miên Tông lên ngôi, niên hiệu là Thiệu Trị.


Vua Thiệu Trị đã làm nhiều việc để làm tròn đạo hiếu đối với người mẹ bạc mệnh. Đặc
biệt nhất là triều đại của ông và con cháu của ông sau này đã triệt để kiêng kỵ tên “Hoa”,
tên huý của mẹ ông. Việc kiêng kỵ ấy còn ảnh hưởng cho đến ngày nay. (Theo Nguyễn
Đắc Xuân – Chuyện các bà trong cung Nguyễn). 3.Tiền giấy được phát hành ở nước ta
<b>dưới triều đại nào? </b>


<b>Trả lời: Triều Trần</b>



Nhiều người vẫn nhầm lẫn nghĩ rằng tiền giấy được phát hành đầu tiên ở nước ta vào triều
Hồ.


Có thể, Hồ Quý Ly là người đóng vai trị quyết định trong việc ban hành tiền giấy, nhưng
tiền giấy được phát hành lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1396 (dưới thời vua Trần Thuận
Tơng).


Về việc này, nhiều sử gia có những đánh giá rất khác nhau. Có người cho rằng Hồ Quý Ly
cần thu đồng để đúc vũ khí. Cũng có người đánh giá cao cải cách tiền giấy của Hồ Quý Ly
bởi cùng với tiền giấy, Hồ Quý Ly cịn có những cải cách khác rất tiến bộ và có đóng góp
rất lớn cho sự phát triển của toàn xã hội bấy giờ.


Năm 1400, Hồ Quý Ly mới cướp ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ (1400 - 1407).
<b>4. Tổng thống nước nào muốn đặt tên con là Hồ Chí Minh? </b>


<b>Trả lời: Tổng thống Ghi Nê Sêcuturê </b>


Sêcuturê, Tổng thống Ghi Nê sang thăm Việt Nam theo lời mời với tư cách là khách của
Hồ Chủ Tịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tên con là Hồ Chí Minh.


Sêcuturê quả thật rất chân thành và rất cảm phục Hồ Chí Minh nhưng ơng ta chưa hiểu câu
"nhập gia vấn huý" của phong tục nước ta. Liền đó Hồ Chủ Tịch trả lời lại rất khơn khéo,
tài tình: "Bác khơng có vợ nên khơng có con, vậy Bác đề nghị các cháu thanh niên, nếu sắp
tới, cháu nào có con trai thì đặt tên cháu là Sêcuturê!"


Mọi người dự lễ đều vui cười thoải mái, phục tài đối đáp của Bác, vừa được lịng khách
nước ngồi, vừa phù hợp với phong tục nước ta trong hồn cảnh đó.



(Theo 100 điều nên biết về phong tục Việt Nam)


<b>5. Chồng bà Trưng Trắc tên là Thi hay Thi Sách? </b>
<b>Trả lời: Chồng bà Trưng Trắc tên Thi. </b>


Sách Thủy kinh chú viết "…Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ
tử danh Trưng Trắc vi thê" (nghĩa là: ...Con trai của lạc tướng Châu Diên tên là Thi hỏi
[sách] con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ). Từ "sách" trong câu trên vốn
có nghĩa là "hỏi". Do nhầm lẫn, người đời sau đã ghép từ "sách" đó với từ Thi thành tên
Thi Sách.


Các bạn có thể tìm hiểu thêm về vấn đề này tại đây.


<b>6. Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên vào thời gian nào? </b>


<b>Trả lời: Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ</b>
<b>chống thực dân Pháp (23/11/1940). </b>


Tác giả sáng tạo ra lá cờ nền đỏ, ở giữa có ngơi sao vàng năm cánh này là đồng chí
<b>Nguyễn Hữu Tiến (sinh ngày 5/3/1901 tại Hà Nam, hy sinh ngày 28/8/1941). Tâm huyết</b>
của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông:


"Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hỡi sỹ nơng cơng thương binh


Đồn kết lại như sao vàng năm cánh".



Lá cờ đỏ sao vàng là biểu tượng của hồn nước, lòng dân, của tình đồn kết đời đời bền
vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nền đỏ tượng trưng cho màu nhiệt huyết cách
mạng, màu chiến đấu và chiến thắng; màu vàng của ngôi sao tượng trưng cho sự sáng ngời
của linh hồn dân tộc Việt Nam; năm cánh sao là sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp đồng
bào chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.


Lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm
khảm của mỗi người dân Việt.


<i>(Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam)</i>


<b>7. Tại sao người miền Nam lại gọi con trưởng là &quot;anh hai&quot;? </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

vì bệnh đậu mùa. Nguyễn Ánh là người trọng tình, trọng nghĩa, ơng muốn dành vị trí cao
nhất cho hai người mà ông hết mực yêu thương này. Vì thế về sau, với ơng khơng có gì là
“thứ nhất” cả, dù có tồn vẹn thế nào thì cũng chỉ là “thứ hai” mà thôi, và ông muốn thực
hiện điều ấy bằng những chính sách của mình. Phải chăng cách nói “anh hai / chị hai” bắt
nguồn từ đây? (Nguồn: Internet)


<b>8. Có ai biết &quot;Ngũ Quảng&quot; khơng? </b>


<b>Hỏi: Có ai biết "Ngũ Quảng" khơng? Kể tên từng "Quảng..." từ trong ra ngoài</b>
<b>Trả lời: Ngũ Quảng gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam,</b>
<b>Quảng Ngãi. "Ngũ Quảng" chỉ đất miền Trung Quảng Bình là Quảng ngồi cùng tính vơ.</b>
Quảng Bình đất rộng, người thưa Cái tên tỉnh, từ xa xưa có rồi: Khi mà đất nước phân đơi
Đằng trong chúa Nguyễn, đằng ngồi vua Lê... Quảng Bình có Động Phong Nha và đất
"Hai huyện" bao la lúa vàng Tiếp vào: Quảng Trị hiên ngang Cồn tiên, Dốc Miếu, rồi sang
Đơng Hà Dịng sơng Bến Hải ruột rà Một thời chia cắt xót xa một thời... Vĩ tuyến mười
bảy ngăn đơi Nhưng khơng ngăn được tình người, nước non. Nghĩa trang Liệt sĩ Trường


Sơn Di tích lịch sử mãi cịn ghi cơng Biết bao xương máu anh hùng Đã để lại đã nằm cùng
chốn đây... Vào nữa là "Quảng Đức" này Cái tên đã đổi từ ngày Gia Long Sau thành tên
tỉnh Thừa Thiên Một vùng đất đã ghi tên sử dài Cố đô nước Việt một thời Vàng son...chìm
nổi... một thời Cố đơ... Về đây nhớ món bún bị món cơm hến Huế ngọt lừ bờ môi.. Kể ra
được ba "Quảng" rồi Chỉ con 2 "Quảng" nữa thôi là về Đi vào đèo dốc quanh co Hải Vân
mây núi lượn lờ biển xanh Bên kia đèo. Đó, Quảng Nam Một dải đất bao trang vàng sử
xanh Nổi tiếng phố cổ Hội An Mỹ Sơn thánh địa. Chiêm Thành xưa kia Tháp Chiên Đài,
tháp Bằng An Ngũ Hành Sơn đứng quan san bốn bề. Bây giờ Quảng Ngãi ta về Là nơi Núi
Ấn - Sông Trà nhắc tên Là nơi Văn hoá Sa Huỳnh Đất lịch sử 3 ngàn năm nay rồi. Ngũ
Quảng ơi! ngũ Quảng ơi! Nơm na chút có mấy lời viết ra! (sưu tầm)


<b>10. Người lao động bắt đầu được nghỉ lễ ngày Giỗ Tổ Hùng Vương từ năm nào?</b>
<b>Trả lời: Năm 2007 Chiều 28-3-2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam</b>
đã cơ bản nhất trí với tờ trình của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 73 Bộ luật Lao động về
việc cho phép người lao động nghỉ ngày Giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 Âm lịch).
Luật có hiệu lực từ năm 2007. Ngày 26-4-2007, người lao động cả nước bắt đầu được nghỉ
lễ ngày Giỗ Tỗ Hùng Vương.


<b>11. Chúa Chổm là ai? </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

được. Điều đặc biệt ở chỗ Lê Trang Tông - vị vua thứ 12 của nhà Hậu Lê lên ngơi khơng
phải ở nước mình. Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Lê Ninh mới 11 tuổi được
viên quan Lê Quán ẵm chạy loạn sang đất Ai Lao rồi được bề tôi cũ của nhà Lê là An
Thành hầu Nguyễn Kim phò tá lập lên làm vua. Sách Đại Việt sử ký tồn thư chép: “Qúy
Tỵ, Nguyễn Hịa năm thứ một (1533). Mùa xuân tháng giêng, vua lên ngôi ở Ai Lao (tức
nước Lào ngày nay – tác giả), đặt niên hiệu là Ngun Hịa, tơn đại tướng quân Nguyễn
Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công trưởng nội ngoại sự, lấy hoạn quan là Đinh
Công làm Thiếu úy Hưng quốc cơng, ngồi ra người nào cũng được phong thưởng, để cùng
lòng giúp đỡ. Lại giao kết với vua Ai Lao là Sạ Đẩu để nhờ quân và lương, mưu việc tiến
lấy lại nước”. Vì sao Lê Trang Tông được dân gian ưu ái cho mỹ danh nghèo nàn Chúa


Chổm? Chuyện này bắt nguồn từ giai thoại dân gian: Hồi nhỏ vua Lê Trang Tơng có tên
tục là Chổm, mẹ là cô bán rượu xinh đẹp người làng Kim Lũ ven sông Tô Lịch. Bố cô
trước là một viên quan nhỏ của nhà Lê trước cảnh vua Lê Chiêu Tơng chưa có con nối
nghiệp, muốn con gái mình đổi đời liền bày cho cơ đem rượu ra bán bên cạnh nhà tù giam
vua Lê Chiêu Tông, chuốc rượu cho lính canh say mèm rồi được dịp lẻn vào tình tự với
vua. Sau cơ bán rượu có thai, vua Chiêu Tông liền giao cho cô chiếc ấn ngọc và bảo cơ
trốn đi, nếu đẻ con trai thì gặp dịp khơi phục lại nhà Lê. Chiêu Tơng sau đó chết trong tay
nhà Mạc. Cô gái bán rượu sinh ra được bé trai, đặt tên là Chổm. Nhà nghèo chàng Chổm
phải đi làm thuê nuôi mẹ. Nhiều lần Chổm bán củi la cà ăn uống nơi các hàng quán ở cửa ô
Thăng Long, lạ nỗi Chổm ăn mở hàng ở hàng nào thì hơm đó qn ấy bán đắt như tôm
tươi. Một đồn mười, mười đồn trăm, các chủ quán nghĩ Chổm tốt vía nên thi nhau mời
Chổm ăn mở hàng và sẵn lòng cho ăn chịu. Được thể, Chổm tiêu pha, ăn uống bạt mạng,
nợ nần khắp nơi, người nào địi thì Chổm bảo “Chờ lúc làm nên tơi sẽ trả”. Nhưng ai biết
lúc nào Chổm làm nên. Bẵng đi thời gian sau Chổm (Lê Trang Tông) được làm vua, từ Ai
Lao trở lại Thăng Long, khi kiệu vua đến cửa ơ, các chủ hàng nhận ra đó là anh Chổm nợ
vung nợ vãi ngày xưa nên thi nhau chào đón địi nợ. Nợ nhiều, Chổm vẫn quen cái tính
vung tay q trán nên ai địi cũng trả. Vua sai quân lính lấy tiền trả, nhưng chủ nợ thật nợ
dỏm lẫn lộn nhiều q mà vua thì khơng nhớ mình đã nợ ai, quan quân cứ thế vung tay trả
tiền mãi không thôi, mệt quá đành vung tiền ném cho đám chủ nợ nhặt. Nhưng chủ nợ
càng ngày càng đông như nêm cối. Đến cửa Đại Hưng một viên tướng bèn hạ lệnh “cấm
chỉ” khơng ai được phép địi nợ vua nữa. Tên ngã Tư Cấm Chỉ (ở cạnh Hàng Bông thuộc
phố Tống Duy Tân, Hà Nội nay) cũng từ đó mà ra đời. Cịn thành ngữ “Nợ như chúa
Chổm” thì ăn liền với vua Lê Trang Tơng. (Nguồn: Trần Đình Ba - Cử nhân khoa học
chuyên ngành Lịch sử).


<b>12. Tính đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có bao nhiêu người được phong </b>
<b>quân hàm Đại tướng?</b>


<b>Trả lời: Tính đến tháng 7/2007, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 12 vị được phong</b>
<b>quân hàm Đại tướng. </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Các bạn có thể tham khảo Danh sách các Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại
<b>đây. </b>


<b>13. Tiến sĩ và tiến sĩ khoa học khác nhau như thế nào? </b>


Trong quy chế đào tạo sau đại học ở Liên Xô trước đây khơng có học vị thạc sĩ mà chỉ
có học vị phó tiến sĩ và tiến sĩ. Ở Pháp cũng tương tự như Liên Xơ nhưng tên gọi có khác:
tiến sĩ đệ tam cấp và tiến sĩ quốc gia. Sau khi Liên Xơ tan rã, ở Cộng hịa Liên bang Nga,
người ta khơng cịn phân biệt hai loại trên mà gọi chung là tiến sĩ. Ở Pháp cũng thế. Ở Việt
Nam, trước năm 1990, ta theo quy chế của Liên Xô. Sau đó, nếu duy trì quy chế cũ, ta
khơng giống nước nào. Do đó, Chính phủ ký quyết định chuyển tên gọi phó tiến sĩ thành
tiến sĩ mà khơng phải là thạc sĩ vì thời gian đào tạo thạc sĩ chỉ 2 năm, cịn phó tiến sĩ là 4
năm. Cũng theo quy chế của Liên Xô trước đây, một luận án phó tiến sĩ có giá trị tương
đương với một luận án tiến sĩ thì Hội đồng chấm có thể đề nghị lên cấp trên cho nghiên
cứu sinh hoàn chỉnh luận án để đưa ra hội đồng cấp trên cho phép đưa ra bảo vệ tiến sĩ.
Cịn bình thường, sau khi có bằng phó tiến sĩ, nghiên cứu sinh mới được bảo vệ tiến sĩ. Đổi
tên gọi phó tiến sĩ thành tiến sĩ nhưng không để những tiến sĩ cũ bị cào bằng, người ta thêm
từ khoa học phía sau để phân biệt. Vậy tiến sĩ khoa học được đánh giá cao hơn tiến sĩ.


Lê Trung Hoa (SGGP Online)


<b>14. Hiệu lệnh xung phong của đợt tổng cơng kích cuối cùng đêm 6/5/1954 tại Điện</b>
<b>Biên Phủ là gì? Trả lời: Tiếng nổ của một tấn bộc phá trên đồi A1. </b>Đêm ngày
5/5/1954, ta đưa vào lòng đồi A1 một tấn bộc phá, được chia thành những gói 20 kg. Sáng
ngày 6/5/1954, tiểu đồn 255 phịng ngự suốt 34 ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua
đồi Cháy làm lực lượng dự bị. Đêm 6/5/1954, ta cho nổ khối bộc phá làm hiệu lệnh xung
phong bắt đầu đợt tổng cơng kích cuối cùng tiêu diệt địch tại Điện Biên Phủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>16. Bạn hãy cho biết ý nghĩa của quốc hiệu văn Lang!</b> Trả lời: Hiện tại, ít nhất có


ba cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang. Cách giải thích thuyết
phục nhất: Văn Lang là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Khoảng thế kỉ VII TCN, các vua Hùng đã dựng nên nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ nước
ta. Đó là nhà nước Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa như thế nào? Đó là câu hỏi
mà mỗi người con đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc. Hiện tại, ít nhất
có ba cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang: Cách thứ nhất cho
<b>rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn</b>
Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm
mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách Đới Kí của
Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là "Điêu Đề” cũng khơng ngồi ý nghĩa này
(Điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy
giờ, dân ta khơng chỉ xăm hình vào trán). Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục
nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo
cách này giải thích: hai chữ "tân lang" (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở
thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục
nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, "tân lang" là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất
hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế
kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người. Cách thứ
<b>ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con</b>
sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả
nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch sử. Theo đó thì: 1. Văn là người, nhóm người, tộc
người, cộng đồng người,… 2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm
Hán - Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer). Ghép lại, Văn
Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Lập luận của
những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được củng cố thêm bởi kết quả của
hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ
này, cách giải thích thứ ba được nhiều người tán thành nhất.


(Theo Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam - Tập 1)



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tài, vua Lê và chúa Trịnh vẫn cho bà trông coi việc dạy học trong vương phủ... Năm 70
tuổi, Nguyễn Thị Duệ xin về nghỉ nơi quê nhà. Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua
đời. Khi mất, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm phúc thần.


<b>19. Ai là người đầu tiên cắm cờ chiến thắng trên dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4</b>
<b>năm 1975? Trả lời: Bùi Quang Thận Bùi Quang Thận (1948-) là người lính Giải phóng</b>
qn miền Nam đã cắm lá cờ chiến thắng đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam trên nóc dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Bùi Quang Thận đi trên chiếc xe tăng 843 tiến vào dinh Độc Lập. Xe của ông bị kẹt tại
cổng phụ. Ông mang cờ xuống xe, chạy bộ vào dinh. Cùng với chính trị viên đại đội Vũ
Đăng Tồn trên xe tăng 390, hai ơng là những người lính Giải phóng qn đầu tiên vào
dinh Độc Lập. Khi xơng vào dinh, do khơng nhìn thấy cửa kính trong suốt, ông đã lao đầu
vào cửa và ngã bật ra phía sau. Vào trong dinh, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở
lại “canh chừng” các thành viên nội các Việt Nam Cộng hòa và chờ cấp chỉ huy đến, cịn
ơng thực hiện cho được nhiệm vụ của mình là cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập. Đại tá
Chiêm, chỉ huy trưởng lực lượng phòng vệ phủ Tổng thống được lệnh dẫn Bùi Quang Thận
cùng hai người đi theo hỗ trợ là Nguyễn Hữu Thái - cựu chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài
Gòn và nhà báo Huỳnh Văn Tòng. Khi đại tá Chiêm dẫn vào thang máy để lên chỗ cắm cờ,
ông đã không chịu vào thang máy do đây là lần đầu tiên được biết đến loại thiết bị này.
Ơng kể lại: "Lúc đó tơi thấy thang máy giống như... cái hịm. Vào đó nó nhốt mình ln,
biết bao giờ mới ra được!". Sau khi nghe đại tá giải thích, ơng đã cảnh giác u cầu đại tá
vào trước để mình vào sau rồi lên cắm cờ. Bùi Quang Thận đã kéo lá cờ xanh đỏ sao
<b>vàng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, trên lá cờ ông đã viết và</b>
<b>ký tên: "11g30 ngày 30-4. Thận". Sự kiện cắm cờ này được viết trong tác phẩm "Người</b>
cắm cờ trên Dinh Độc Lập" của Trần Đăng Khoa, in trong tập "Người thường gặp".


<b>20. Ai là người kéo cờ trong lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945? Trả lời:</b>
[COLOR="DarkSlateGray"]Đó là bà Đàm Thị Loan - đội viên đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân và bà Lê Thi - nữ sinh Trường Đồng Khánh, Hà Nội.[/COLOR] Bà Đàm
Thị Loan sinh năm 1926 tại Áng Giàng, Bình Long, Hồ An, Cao Bằng. Năm 1940, bà


tham gia hội Việt Minh của xã, lấy bí danh là Thanh Xuân. Năm 1942, bà đi hoạt động
cách mạng và là một trong số 34 đội viên đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có
mặt trong lễ tuyên thệ ngày 22/12/1944. Sau này, bà trở thành phu nhân của Đại tướng
Hoàng Văn Thái. Bà Lê Thi tên thật là Dương Thị Thoa, là con gái thứ tư của cố giáo sư
Dương Quảng Hàm. Sau cách mạng tháng Tám, từ năm 1947 đến 1950, bà được tổ chức
điều về hoạt động bí mật trong nội thành Hà Nội, âm thầm vận động bà con ủng hộ kháng
chiến chống Pháp. Hịa bình lập lại, bà được cử đi học Trường Lý luận cao cấp Nguyễn Ái
Quốc (nay là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) khóa đầu tiên, sau đó ở lại trường
và bắt đầu cơng việc nghiên cứu. Năm 1961, làm Viện trưởng Viện triết học, đến năm
1987, bà cùng đồng nghiệp xây dựng Trung tâm nghiên cứu gia đình và phụ nữ. Bà được
Nhà nước phong hàm giáo sư năm 1991.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Nguyễn Du, UNESCO đã tơn vinh ơng là Danh nhân văn hóa thế giới. - Nguyễn Trãi sinh
năm 1380, mất năm 1442. Năm 1980, nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi,
UNESCO đã tơn vinh ơng là Danh nhân văn hóa thế giới. - Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh
năm 1890, mất năm 1969. Năm 1990, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được tổ chức UNESCO tơn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới.


<b>22. Tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở nước ta là tờ báo nào?</b>
<b>[COLOR="DarkRed"]Trả lời: Tờ Gia Định báo Gia Định báo là tờ báo đầu tiên bằng</b>
chữ Quốc ngữ, được ra mắt vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gịn. Đây là phương tiện
truyền thơng đầu tiên hồn tồn mới mẻ, làm cho tiếng Việt mới có cơ hội phổ biến trong
dân chúng. Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân Pháp lúc
đó là 3 tỉnh miền Đơng Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và giá 0,97 đồng/tờ. Thời
gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng tháng. Báo ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi
tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày ra báo của Gia Định báo khơng cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc
lại thứ bảy. Số trang của Gia Định báo cũng không cố định, khi thì 4 trang, lúc 12 trang.
Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và tạp vụ. Phần công vụ
chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, cơng quyền, đăng các cơng văn, nghị định, thơng
tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn phần tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các


lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, văn hóa - xã hội... Bước đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu
là cơng cụ thơng tin của thực dân Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo
chuyên đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân. Sau này,
khi Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục biên khảo,
thơ văn, lịch sử... Từ đó, báo khơng chỉ làm một tờ cơng báo đơn thuần nữa. Gia Định báo
cũng có góp phần cổ động việc học chữ Quốc ngữ và lối học mới, mở đường cho các thể
loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ Quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí
Việt Nam.[/COLOR]


<b>23. Chùa Diên Hựu là tên gọi khác của ngôi chùa nào? Trả lời: Chùa Một Cột</b>
Chùa Một Cột có tên chữ là Diên Hựu (phúc lành dài lâu) được xây dựng vào năm 1049
thời vua Lý Thái Tông. Tương truyền khi ấy vua Lý Thái Tơng đã cao tuổi mà chưa có con
trai nên nhà vua thường đến các chùa để cầu tự. Một đêm ông chiêm bao thấy Đức Phật
Quan Âm hiện lên đài hoa sen ở một hồ nước hình vng phía tây thành Thăng Long, tay
bế đứa con trai trao cho nhà vua. Ít lâu sau hồng hậu sinh con trai. Nhà vua cho dựng chùa
Một Cột có dáng dấp như đã thấy trong giấc mơ để thờ Phật Quan Âm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>25. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã miêu tả chủ nghĩa tư bản bằng hình ảnh con vật gì?</b>
<b>Trả lời: Con đỉa Trong tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" (1925), Hồ Chí Minh đã</b>
miêu tả bản chất "ăn bám" của chủ nghĩa tư bản bằng hình tượng "con đỉa hai vịi". Người
viết: [COLOR="navy"]"Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai
<b>cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp vơ sản ở thuộc địa. Nếu</b>
<b>muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một</b>
<b>vịi thơi thì cái vịi cịn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp</b>
<b>tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra". [/COLOR] </b>


<b>26. Khi mới thành lập, Đảng ta có tên là gì? [COLOR="DarkRed"]Trả lời: Đảng</b>
<b>Cộng sản Việt Nam Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta có các tên gọi: - Từ tháng 2/1930:</b>
Đảng Cộng sản Việt Nam - Từ tháng 10/1930: Đảng Cộng sản Đông Dương - Từ tháng
2/1951: Đảng Lao động Việt Nam - Từ tháng 12/1976: Đảng Cộng sản Việt Nam.


[/COLOR]


<b>27. Nước ta mang quốc hiệu Đại Việt từ năm nào? Trả lời: Năm 1054 </b>Nước ta
mang quốc hiệu Đại Việt từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu Đại
Việt tồn tại không liên tục qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn. Từ năm
1804, nước ta không còn mang quốc hiệu Đại Việt nữa.


<b>28. Vị vua nào ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam? Trả lời: Lý Nhân Tông (ở</b>
ngôi 55 năm, từ năm 1072 đến năm 1127). Lý Nhân Tông tên húy là Lý Càn Đức, là con
của Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan. Lý Nhân Tông sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính
Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, lên ngơi tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), ở ngơi 55
năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), thọ 61 tuổi. Lý Nhân Tông cũng là vị
vua đặt nhiều niên hiệu nhất trong lịch sử nước ta. Trong thời gian 55 năm ở ngôi, Lý
Nhân Tông đã 8 lần đặt niên hiệu.


<b>29. Bạn hãy kể tên những người con rể của Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ</b>
<b>Vương)! [COLOR="DarkRed"]Trả lời: Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18) có 2</b>
người con rể được các truyền thuyết nhắc đến, đó là Sơn Tinh (chồng Công chúa Ngọc
Hoa) và Chử Đồng Tử (chồng Công chúa Tiên Dung).[/COLOR]


<b>30. "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo" là câu nói nổi tiếng của ai?</b>
<b>Trả lời: Thái sư Trần Thủ Độ Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông</b>
Nguyên lần thứ nhất, trước thế mạnh ban đầu của giặc, vua Trần Thái Tông tỏ ra rất lo
lắng. Khi ấy, vua dời thuyền sang hỏi ý kiến của Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ đã
khẳng khái trả lời "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo". Câu nói nổi tiếng đó
của Trần Thủ Độ đã góp phần củng cố tinh thần chiến đấu của vua tôi nhà Trần, tạo nên
những chiến công oanh liệt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đúc vũ khí theo kiểu châu Âu ở núi Vụ Quang và sản xuất được 500 khẩu súng theo mẫu
1874 của Pháp. Ơng được coi là ơng tổ của ngành qn giới nước ta. Ngồi chế tạo vũ khí,


ơng cịn xây dựng được một đội qn có tính chiến đấu cao, kỷ luật nghiêm. Năm 1893,
trong trận đánh Đồn Nu (Thanh Xuân - Thanh Chương - Nghệ An), ông bị trúng đạn và hy
sinh lúc mới 29 tuổi.


<b>32. Thế nào là lính khố đỏ, lính khố vàng, lính khố xanh, lính khố lục? Trả lời:</b>
<b>[COLOR="DarkOrchid"]Lính khố đỏ là lính người Việt trong quân đội chính quy cơ</b>
<b>động của Pháp thời trước Cách mạng tháng Tám. Chân lính khố đỏ quấn xà cạp bằng vải</b>
đỏ. Lính khố vàng là lính không trực tiếp thuộc quyền quản lý của Pháp mà thuộc quyền
<b>quản lý của triều đình nhà Nguyễn. Chân lính khố vàng quấn xà cạp bằng vải vàng. Lính</b>
<b>khố xanh là lính người Việt do thực dân Pháp tổ chức ở các tỉnh trước Cách mạng tháng</b>
Tám. Chân lính khố xanh quấn xà cạp bằng vải xanh. Lính khố lục là lính Việt Nam do
thực dân Pháp tuyển mộ để canh gác các phủ, huyện. Chân lính khố lục quấn xà cạp bằng
vải xanh lục.[/COLOR]


<b>33. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) nổ ra ở tỉnh thành nào của nước ta?</b>
<b>Trả lời: Thanh Hóa </b>Ba Đình là một căn cứ kháng chiến được xây dựng trên vùng đất
thuộc 3 làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mĩ Khê thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Các
ngơi đình của 3 làng được biến thành các chốt đóng quân, nối với nhau bằng chiến hào, có
thể hỗ trợ cho nhau. Từ Ba Đình, nghĩa qn có thể tỏa đi các nơi, kiểm sốt các tuyến giao
thơng quan trọng trong vùng. Khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) là một trong các cuộc
khởi nghĩa tiêu biểu của phong trào Cần Vương.


<b>34. Vị vua nào ở ngôi ngắn nhất trong lịch sử nước ta? Trả lời: Lê Trung Tông</b>
<b>(1005) và Nguyễn Dục Đức (1883) - đều làm vua trong 3 ngày. Vua Lê Hồn (Lê Đại</b>
Hành) có 4 Hồng tử là Long Du, Ngân Tích, Long Việt và Long Đĩnh. Lê Hoàn đã chọn
người con thứ ba là Long Việt làm Thái tử, nhưng khi Lê Hoàn mất (tháng 3/1005), các
Hoàng tử đánh nhau trong 7 tháng để tranh giành ngôi vua. Tháng 10, Long Việt vừa lên
ngôi được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết chết, thọ 23 tuổi. Nguyễn
Phúc Ưng Chân lên ngôi theo di chiếu của vua Tự Đức, nhưng các quan phụ chính đại thần
là Nguyễn Văn Tường và Tơn Thất Thuyết vì khơng ưa nên phế đi khi ơng vừa lên ngôi


được ba ngày (20, 21 và 22 tháng 7 năm 1883). Dục Đức sinh năm Quý Sửu (1853), bị phế
và bị giết năm 1883, thọ 30 tuổi.


<b>35. Hàng tháng, vua Tự Đức ngự triều vào những ngày nào? Trả lời: Ngày lẻ </b>Vua
Tự Đức là một người con rất có hiếu. Hàng tháng, ngày lẻ thì vua ngự triều, giải quyết mọi
cơng việc triều chính, cịn ngày chẵn thì vua vào vấn an sức khỏe mẹ (Hồng thái hậu Từ
Dũ). Từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc nước đến việc nhà, vua Tự Đức đều hỏi qua ý kiến
của mẹ. Khi bà Từ Dũ ban câu gì hay, nhà vua đều cho ghi chép lại, gọi là "Từ huấn lục".


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang Xuân, ngày 7 vào thành Thăng Long sẽ mở</b>
<b>tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta xem có đúng thế khơng?". </b>


<b>37. Trong kháng chiến chống Mĩ, nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã</b>
<b>huấn luyện loại ong nào thành vũ khí đánh giặc? Trả lời: Ong vò vẽ Trong kháng chiến</b>
chống Mĩ, nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã huấn luyện ong vò vẽ để đánh
giặc. Người ta dùng một loại nấm dai xông tổ ong cho chúng mê ngủ rồi di chuyển tổ đến
nơi cần bố trí... Hàng ngày, một số người mặc đồ lính Mĩ, ngụy (bên trong có mặc đồ bảo
hiểm, mặt lạ, ủng, găng tay,...) dùng cây chọc phá tổ ong để ong bay ra đốt. Cứ tập liên tục
như thế khoảng 1 tháng. Khi đó, bộ đội và dân thường đi qua tổ ong thì khơng hề gì, nhưng
lính Mĩ, lính ngụy đi qua thì hết bầy ong này đến bầy ong khác lao ra đốt... Ong vị vẽ trở
thành vũ khí đánh giặc độc đáo của ông cha ta.


<b>38. Tỉnh nào là tỉnh đầu tiên được giải phóng hồn tồn ở miền Nam Việt Nam?</b>
<b>Trả lời: Tỉnh Phước Long </b> Tỉnh Phước Long được giải phóng hoàn toàn vào ngày
6/1/1975. Chiến thắng Phước Long đánh dấu những biến đổi quan trọng trong so sánh lực
lượng giữa ta và địch từ sau Hiệp định Pari. Chiến thắng Phước Long đã góp phần cho
Trung ương Đảng đánh giá đúng tình hình khả năng của Mỹ nguỵ, đề ra chủ trương chiên
lược, quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nó mở đầu cho
cuộc tổng tiến cơng và nổi dậy đồng loạt và với quy mô rộng lớn nhất từ xưa đến nay trong
mùa Xuân 1975, góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.



<b>39. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được tuyên bố thành lập ở</b>
<b>tỉnh nào? Trả lời: Tỉnh Tây Ninh Ngày 20/12/1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành</b>
(nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, đại biểu các cấp, các dân tộc, tơn giáo tồn miền
Nam đã họp, quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong những hình thức tổ chức của
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam và có những đóng góp rất quan trọng trong lịch sử
của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức yêu
nước nổi tiếng của đồng bào miền Nam đã được giao trọng trách làm Chủ tịch Mặt trận.


<b>40. Chiến dịch giải phóng Sài Gịn - Gia Định chính thức mang tên chiến dịch Hồ</b>
<b>Chí Minh vào ngày tháng năm nào? Trả lời: Ngày 14/4/1975 Trong một khu rừng ở Lộc</b>
Ninh, Ban chỉ huy Chiến dịch nhất trí đề nghị Bộ Chính trị xin được đổi tên Chiến dịch
tổng cơng kích giải phóng Sài Gịn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Quyết định đổi
tên này do đồng chí Lê Duẩn kí ngày 14/4/1975.


</div>

<!--links-->
Trac nghiem ve luong tinh Song-Hat on TN
  • 26
  • 734
  • 0
  • ×