Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.12 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
TRÊN NÚI CAO CÓ CON THẦN ĐIỂU
Sở Mục Vương qua đời , con là Lữ lên ngôi lấy hiệu là Trang Vương. Trang
Vương ở ngôi ba năm không có chút công lao gì với nước nhà , ngày nào cũng
đắm mình trong tửa sắc và săn bắn. Trang Vương còn sai yết bảng trước ngọ
môn :"Ai can vua sẽ bị chém".
Quan Đại phu Thân Vô Úy vào nói:
- Thần đến đây không phải để uống rượu , cũng không phải để nghe hát. Có
người hỏi thần câu này :"Có một con chim lớn, lông có đủ sắc đẹp, đậu trên gò
cao nước Sở đã ba năm nay, không thấy nó bay, cũng không nghe nó kêu,
không biết đó là loại chim gì?"
Trang Vương hiểu Thân Vô Úy muốn can mình, cười và nói:
-Chim ấy không tầm thường đâu. Khi nó bay thì đến tận đỉnh trời, khi nó kêu
mọi người đều khiếp vía.
Thân Vô Úy bèn lạy Sở Vương rồi lui ra. Nhưng Sở Vương vẫn tiếp tục chơi
bời như cũ.
Một thời gian sau , có quan đại phu là Tô Tòng vào yết kiến Sở Trang Vương,
khóc rống lên. Trang Vương hỏi:
- Sao ngươi khóc?
- Tôi khóc vì tôi sắp chết, lại khóc cho nước Sở sắp mất!
Vua hỏi tiếp:
- Nghĩa là sao?
Tô Tòng nói:
- Tôi muốn can đại vương, tất đại vương giết tôi. Tôi chết thì nước Sở
không còn ai can nhà vua nữa, nên Sở phải mất!
Sở Trang Vương nổi giần nói:
- Ta đã có lệnh hễ ai can ta là ta giết, nay ngươi vào can ta, chẳng ngu sao?
Tô Tòng nói:
- Ngu cũng chưa bằng đại vương!
Sở Trang Vương hét:
- Quân hỗn láo , sao dám nói càng?
Tô Tòng nói:
- Sự nghiệp của các Tiên Vương truyền đến ngày nay là một nước Sở hùng
cường, thế mà có kẻ ngu xuẩn vì ham mê tửu sắc mà bỏ nó, khiến cho chư hầu
đều phản, không ngu là gì? Đại vương giết tôi, đời sau sẽ gọi tôi là trung thần,
cho đại vương là Kiệt , Trụ. Hết lời!
Nói rồi đập vỡ các đồ chơi, đuổi Trịnh nữ, Thái nữ, lập Phàn Cơ làm chánh
cung. Ông nói:
- Tính ta ham săn bắn. Phàn Cơ thường can ta, nhưng ta không nghe.
Phàn Cơ không ăn thị các giống cầm thú đó, ấy là hiền nội của ta.
Từ đó Sở ngày một cường thình tiến lên hàng bá chủ.
BÀN
Đời sau lấy cái ý của Thân Vô Úy can Sở Trang Vương, thủ lãnh Lương Sơn
Bạc là Tống Giang viết bài " Thần Điểu" diễn tả chí mình. Xin trích đoạn mở
đầu:
Trên núi cao có con Thần Điểu
Ba năm qua bặt không tiếng kêu
Ngày hận mây trời che khuất bóng
Đêm buồn thỏ bạc rải thềm rêu
A ha! Thần Điểu con nương náu
Chờ ngày thét vỡ núi khe sâu
Vỗ cánh xé tan trời Bắc Khuyết
Nghiêng đầu đảo lồn chốn Ngao Châu
Thần Điểu ví chẳng rời non hiểm
Mặt nước Tâm Dương máu đỏ ngầu...
Có hai người can Sở Trang Vương nên thức ngộ: Thân Vô Úy dùng lời can
theo phép ẩn dụ, Trang Vương hiểu được nhưng chưa chịu thay đổi ngay, còn
Tô Tòng mắng xối xả vào mặt Trang Vương, Trang Vương cảm thấy lạnh
mình, và thức ngộ ngay lập tức. Mới hay rằng, khuyên can người là một việc
biết cách khuyên can hay không là việc khác. Vậy phải tùy theo tính khí mỗi
người mà can. Sở Trang Vương sau này là một trong..Võ Lâm Ngũ Bá.
ANH EM TRỊNH TRANG CƠNG
Trịnh Kh́t đợt nới ngơi ( ở nước Trịnh ) lấy hiệu là Trịnh Vũ Công. Phu
nhân là con gái thân hầu sinh được hai con Ngộ Sinh và Đoạn. Trong lúc sinh
Ngộ Sinh phu nhân " đẻ ngược" , khiến bà đau ngất, mới đặt tên này. Vì vậy
bà rất ghét Ngộ Sinh, còn Đoạn thì đẹp trai, khỏe mạnh khiến bà ngày càng
Trịnh Vũ Công qua đời, Ngộ Sinh nối ngôi lấy hiệu là Trịnh Trang Công. Phu
nhân bảo Trang Công:
- Tiên vương có dặn không đem đất ấy phong cho ai cả!
- Vậy thì phong đất Kinh Thành cho Đoạn!
Trang công lặng thinh.
Phu nhân nổi giận nói:
- Nếu thấy khó thì đuổi nó đi đến xứ khác ăn xin!
Trang Công đành phải nghe lời mẹ phong đất Kinh Thành cho Đoạn. Từ đó
Đoạn có tên là Kinh Thành Thái Thúc.
Phu nhân nói riêng với Đoạn:
- Con đến đó nên luyện tập binh mã. mẹ ở đây làm nội ứng, chờ dịp thuận tiện
mẹ báo tin, con về đánh úp lấy mà làm vua, dẫu mẹ có chết cũng vui.
Trong lúc đó công tử Lã can Trang Công:
- Đoạn từ khi về Kinh Thành ngày nào cũng giả vờ đem binh lính đi săn, thật
ra là đi thao luyện. Chúa công nên trị hắn đi!
Trang Công nói:
- Tội của em ta chưa rõ ràng, làm vậy e mẫu thân ta buồn vàg dân chúng sẽ dị
Lã nói:
- Tôi có cách khiến cho mưu gian của Đoạn phải lộ.
Nói rồi liền thì thầm vào tai Trang Công mấy câu...
Hôm sau Trịnh Trang Công giả vào triều chầu vua để thám thính. Khương thị
( mẹ Trang Công ), liền cho người báo tin cho Đoạn biết. Đoạn sai con là
Công Tôn Hoạt Vệ mượn quân, còn phần mình đem quân vào đất Trịnh.
Công tử Lã dò biết được liền đem quân đánh úp đất Kinh Thành. Trịnh Trang
Công vào Kinh Thành kể tội Đoạn. Dân chúng ai cũng chê Đoạn bất nghĩa.
Còn Đoạn kéo quân đi giữa đường, nghe tin Kinh Thành có biến, biết mình
mắc mưu thâm:
- Mẹ ta hại ta rồi
Nói xong rút gươm tự vận.
LỜI BÀN
Chuyện này đáng lấy làm bài học lớn cho các bậc cha mẹ. Con cùng một nhà
mà đứa yêu đứa ghét làm sao tránh được những sự đau lòng phải xẩy ra? Đoạn
chết là do Khương phu nhân có ác tâm. Giả sử Đoạn thành công, Trang Công
chết,người đời kết luận sao về vụ án này? Có phải phu nhân giết con mình
không? Dù Đoạn hay Ngộ Sinh chết, ta đều kết luận là bà Khương thị giết
con!
Từ đây về sau những trường hợp tương tự xảy ra nhiều lắm. Trịnh Trang công
biết thương mẹ và thương em, nhưng ông ở vào một tình thế khó xử, ta không
trách ông được.
trường hợp như thế này, nên lấy đó làm kinh nghiệm.
Người xưa vẫn có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Quả thực ý nghĩa của nó có
thể áp dụng qua mọi thời đại. Để học được chữ “Lễ” cần phải hiểu thế nào là
giá trị của một con người, bởi thông qua đó, chúng ta có thể hiểu được kỹ hơn
những kiến thức đạo luật làm người mà các bậc tiền bối đã để lại. Đó quả là
một kho kiến thức khổng lồ và vô giá, mà hàng thế kỷ, từ năm này qua năm
khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác luôn tìm tòi và học hỏi, để nâng cao vốn
sống của mình.
Học lễ nghĩa cũng là kiến thức cần phải trau dồi để trở thành một con người có
giá trị cao hơn. Thật vậy, giá trị con người được đánh giá qua chuẩn mực của
lễ giáo xưa. Do ảnh hưởng của nền văn hóa Khổng giáo nên khi đánh giá về
một con người, Việt Nam thường lấy tiêu chí của Nho giáo để làm chuẩn. Đối
với nam giới thì là tam cương (quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê
(vợ chồng).), ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Chí, Tín). Đối với nữ giới là Tam
Tòng (Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử), Tứ Đức (Công,
Dung, Ngôn, Hạnh). Tuy nhiên, những tiêu chuẩn này cũng đã bị mai một qua
các thời đại. Do vậy, ngày nay các chuẩn mực Nho giáo trên được xem nhẹ
hơn so với trước đây.
Khi nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Chí, Tín, người xưa hiểu rằng ngụ ý nói đến
đánh giá giá trị con người và chuẩn mực này thường áp dụng đối với nam giới.
"Nhân" luôn được đặt lên vị trí hàng đầu, là lòng yêu thương đối với mọi
người và muôn loài vật. Được coi là quy định bản tính con người thông qua
"Lễ".
“Lễ” chính là sự tôn trọng, hòa nhã với mọi người trong cách cư xử hàng
ngày. Lễ còn phụ thuộc vào tập quán và phong tục của từng vùng, miền. Các
quan hệ xã hội và gia đình cũng đòi hỏi phép tắc, lễ nghĩa theo từng lúc, từng
chỗ, từng nơi và từng hoàn cảnh.
sống. Một người được sống có tình nghĩa là khi mà họ biết cách đối nhân, xử
thế. Biết cám ơn và biết ơn người đã giúp đỡ, biết tôn trọng tình nghĩa gia
đình, tình bạn, tình đồng nghiệp và mọi người xung quanh. Thời nay, người
sống có tình nghĩa rất nhiều song chữ “Nghĩa” nhiều khi bị mai một bởi hư
danh và vật chất.
Ngoài ra, các chuẩn mực để đánh giá một con người còn xét cả về “Trí” và
“Tín”. Chữ “Trí’’ được thể hiện qua sự hiểu biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng
sai và kiến thức nói chung. Một người khôn ngoan, thông minh, nhanh nhẹn
được xem là đạt chữ “Trí”, song bên cạnh đó cũng phải hội tụ được cả Lễ,
Nghĩa và Tín nữa, thì lúc đó “Trí” mới mang giá trị cao.
“Tín” được xác định qua cách thể hiện là một người giữ đúng lời nói hay
không, có phải là một người đáng tin cậy hay không. Nếu một người giữ được
chữ “Tín” thường chiếm được sự tin tưởng của người khác. Đó thường là
những người sống có trách nhiệm với xã hội, gia đình và bản thân. Do vậy, họ
rất được người thân, bạn bè và đồng nghiệp tôn trọng.
Chuẩn mực Nho giáo khi đánh giá một người phụ nữ thường xét đến Công,
Dung, Ngôn, Hạnh. Bốn tiêu chuẩn này vẫn được coi là điểm chuẩn qua mọi
thời đại. Chẳng hạn đối với chữ “Công”, đòi hỏi người phụ nữ phải khéo léo,
đảm đang trong công việc gia đình. Từ việc khéo léo trong nội chợ, nữ công
gia chánh, dọn dẹp nhà cửa đến việc nuôi dạy con cái. Nhưng ngày nay,
những tiêu chuẩn trên cởi mở hơn do tiếp thu nền văn hóa phương Tây. Người
phụ nữ không bị bắt buộc ở nhà để làm tròn bổn phận “Công”, mà họ đã được
hoạt động xã hội, được học lên cao hơn, được làm những công việc mà trước
kia chỉ dành cho nam giới. Nhưng, vẫn còn có nhiều người quan niệm rằng
phụ nữ vẫn phải duy trì chữ “Công” trong gia đình. Quan điểm này hoàn toàn
đúng, song vẫn thiếu một vế. Đó là cũng phải yêu cầu nam giới trợ giúp chữ
“Công” với phụ nữ trong gia đình. Bởi phụ nữ hiện đại, mặc dù họ tham gia
hoạt động xã hội, nhưng họ vẫn làm tròn bổn phận chữ “Công” trong gia đình.
Như vậy, họ sẽ phải gánh vác công việc gấp đôi. Một người nam giới vẫn có
Tuy vậy, cũng có một số ít không làm tròn bổn phận chữ “Công” trong gia
đình. Do mức sống thời nay khác khá xa so với thời xa xưa, nên người phụ nữ
thời nay không phải tự tay nấu cơm mà có thể đi ăn nhà hàng; không phải giặt
là quần áo mà có thể mang ra tiệm giặt là… Đó cũng là một sự phát triển mới
của xã hội, tạo nhiều công ăn việc làm cho những người khác. Điều này cũng
là quy luật tự nhiên, trong việc bố trí sắp đặt hệ thống công việc của một xã
hội đang tìm tòi sự phát triển. Phụ nữ thời nay, xét về mặt nào đó thì đảm đang
hơn cả xưa kia. Bởi họ vừa tham gia hoạt động xã hội, vừa đảm việc nhà.
Trong khi đó vẫn bị coi rằng chưa đạt tiêu chuẩn chữ “Công” như thời xưa.
Vậy điều này có phải là quá sức và hơi bất công đối với phụ nữ thời nay hay
không?
“Dung” thời nay được xét trên nhiều phương diện, kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp
hình thức và vẻ đẹp tâm hồn chứ không chỉ giới hạn vẻ đẹp thuần túy cổ xưa.
Nếu có vẻ đẹp tuyệt vời mà tâm hồn nhạt nhẽo, thì coi như là chưa đạt được
chữ “Dung”. Với một người phụ nữ dung mạo bình thường, giản dị, những
tâm hồn thanh thoát, tao nhã thì vẫn được coi là đạt tiêu chuẩn chữ “Dung”.
Xưa kia, phụ nữ được xem là đẹp với tiêu chuẩn mặt trái xoan, lông mày lá
liễu, mắt lá dăm và mũi dọc dừa. Nhưng ngày nay, quan niệm vẻ đẹp phong
và nụ cười duyên dáng. Đẹp từ dáng đi nhẹ nhàng, phong cách lịch thiệp, hòa
nhã. Hay đẹp từ cách ăn mặc gọn gàng, tươi tắn, khiêm nhường và cởi mở…
“Dung” sẽ chỉ toàn vẹn khi bạn biết kết hợp được giữa vẻ đẹp hình thức và vẻ
đẹp tâm hồn. Để làm được điều đó thì người phụ nữ không chỉ trau truốt về
cách ăn, mặc, đi, đứng, nói, ngồi… mà còn phải trau dồi cả văn hóa. Đó chính
là vốn sống để bạn trau dồi về tâm hồn. Từ đó bạn sẽ cảm nhận được nét đẹp,
điều hay, xấu, dở, biết yêu thương và biết sống vì mọi người.
Lời ăn tiếng nói của phụ nữ luôn được xem là một trong bốn tiêu chuẩn quan
trọng của các cụ xưa kia để lại. Và đến ngày nay, “Ngôn” vẫn được đánh giá
là tiêu chuẩn không thể thiếu của một người phụ nữ Việt nam. Một người phụ
hiện nên tính cách một người phụ nữ, được xét là có “Ngôn” hay không.
Để đạt được chữ “Ngôn” cũng đòi hỏi bạn phải học hỏi rất nhiều từ những
người lớn tuổi, bạn bè. Từ trường lớp, sách vở và các phương tiện truyền
thông… Kiến thức phong phú sẽ cho bạn lời nói khôn ngoan và sự tự tin.
Theo các bậc tiền bối xa xưa, chữ “Hạnh” thể hiện phẩm chất đạo đức của
người phụ nữ, điều này hàm ý thương chồng, con, chung thủy, biết hy sinh và
chịu khó. Nếu như xưa kia người phụ nữ chỉ ở nhà lo tề gia nội trợ, nâng khăn
sửa túi cho chồng thì mối quan hệ xã hội của họ bị hạn chế rất nhiều. Cơ hội
hoàn toàn có thể làm được.
Nhưng ngày nay, phụ nữ hiện đại vừa lo toan việc nhà, vừa lo công việc xã
hội. Áp lực công việc sẽ làm họ cảm thấy mệt mỏi. Nếu như người chồng
không hiểu ý và thông cảm giúp đỡ, thì sẽ nảy sinh xích mích và khoảng cách
sẽ lớn dần nếu cả đôi bên không biết bày tỏ quan điểm cùng chia sẻ công việc.
Người phụ nữ thời nay do quan hệ xã hội vì công việc sẽ gặp gỡ nhiều người
khác giới. Do vậy, hoàn cảnh cuộc sống sẽ dễ dàng đẩy họ đến việc phạm vào
chữ “Chung thủy”. Điều này là một thực trạng của xã hội hiện nay. Người phụ
nữ thời nay khó mà đạt được tiêu chuẩn chữ “Hạnh” như phụ nữ xưa kia đã
đạt được.
Tuy nhiên, thời nay vẫn có rất nhiều phụ nữ giữ được phẩm hạnh chung thủy
với chồng, chỉ có điều không chắc người chồng lại giữ được chữ “chung thủy”
với vợ. Tình trạng này xảy ra nhiều hơn so với dự đoán hay các cuộc thăm dò
ý kiến. Chữ “Hạnh” sẽ được đánh giá thế nào đây, khi có quá nhiều mâu thuẫn
và nghịch lý đi bên cạnh?
Thầy trò Khởng Tử bỏ nước Lỡ lưu vong ra nước ngoài. Một hôm Khổng Tử
gọi Tử Cống (một trong 72 học trò hiền của Khổng Tử) hỏi:
- Thưa thầy, người nhân là người biết thương người; người trí là người hiểu
người.
Khổng Tử khen "hay". Rồi kêu Tăng Tử vào hỏi lại câu trên. Tăng Tử suy
nghĩ một hồi rồi đáp:
- Thưa thầy, người nhân là người biết thương mình; người trí là người tự biết
mình.
Khổng Tử chịu quá! Đoạn ông gọi Tử Lộ vào hỏi:
- Theo con, thế nào làngười nhân, thế nào là người trí?
Tử Lộ thưa:
- Theo con, người nhân là người làm sao cho người khác thương được mình;
còn người trí là người làm sao cho người khác hiểu được mình! ...
Khổng Tử rất đỗi ngạc nhiên, ngửa mặt khen rằng:
- Bất ngờ thay! ...
Lời Bàn:
Cùng một câu hỏi nhưng ba câu trả lời hoàn toàn khác nhau, đây thật là điều
thú vị và bất ngờ.
Nhưng ta thường thấy việc đời không khác nào một dòng sông, có lúc từ trên
cao đổ ào ào xuống vực sâu, có lúc trườn mình, len lách qua hẻm núi, có lúc
thênh thang lặng tờ giữa bình nguyên ... thiên hình vạn trạng. Nhưng mỗi dạng
trạng đều phù hợp với mỗi hoàn cảnh. Bởi không bao giờ trời mưa lụt mà sông
cạn, trời nắng hạn mà nước sông dâng. Núi dựng bạt ngàn dòng sông không
thể không uốn mình lượn theo thế núi. Con người cũng thế. Có lúc ta vì người
và người vì ta, có lúc ta vì ta, và người vì người, theo hoàn cảnh mà hành sự.
Như thế mới không lỗi.
Qua câu hỏi nhân trí của Khổng Tử, Ngũ tử Tư ở nước Ngô (người cùng thời
với Khổng Tử) nói:
nhân nghĩa" (ý nói phiến diện) mà thôi! Nhân và Trí ít nhiều gì vốn đã có sẵn
trong mỗi người, chỉ sử dụng có hợp lúc không thôi!
Do đó bất kỳ việc gì, đúng hay sai, công hay tội chúng ta khó mà đem nhận
xét chủ quan ra để phán xét được. Bởi việc hành xử của tha nhân còn tùy
thuộc hoàn cảnh của họ lúc đó.
Hoàn Âm Hầu Hàn Tín, người đất Hoài Âm, lúc còn là một người áo vãi,
nghèo, đã chẳng có đức hạnh, tài năng gì để được tôn cử vào chức này chức
nọ, lại còn vụng về ccả đường làm ăn buôn bán, thường sống nhờ, ăn bám
người khác, cho nên lắm kẻ không ưa.
Nhiều lần từng sống nhờ, ăn bám viên đình trưởng Nam Xương và Hạ Hương,
có lần đến mấy tháng. Vợ viên đình trươnggr phát ngán, bèn thổi cơm sớm, ăn
luôn trên giường, bữa nào Tín đi vắng thì mặc, không dành phần cơm cho. Tín
hiểu ý, giận bỏ đi hẳn.
Tín ngồi câu ở chân thành, trong số các mụ giặt sợi, có mụ thấy Tín đói thì
chia phần cơm của mình cho Tín ăn. Mụ ta giặt luôn mấy chục ngày liên bên
suối. Tín mừng bảo mụ ta:
- Thế nào tôi cũng đền ơn bà xứng đáng !
Mụ giận nói:
- Làm thân trai mà kiếm miếng cơm không xong, tôi thương cậu thì cho cậu
ăn, chứ mong gì báo với bổ.
Trong bọn làm nghề đồ tể ở Hoài Âm, có một tên khinh Tín, bảo:
- Mày tuy lớn con, khoái đeo kiếm nhưng trong bụng nhát như thỏ đế.
Rồi trước mặt mọi người, hắn làm nhục Tín, bảo:
- Thằng Tín có dám chết thì đâm tao đi, bằng không thì chui qua đũng quần
tao đây này.
chợ ai cũng bưng miệng cười vì chê Tín là nhát.
Rồi Tín xách gươm đi theo Hạng Lương. Hạng Lương thua, Tín đi theo Hạng
Vũ. Hạng Vũ không tin dùng, Tín bỏ Sở về với Hán.
Không bao lâu, Tín bị ghép tội, bị chém với mười ba người khác, những người
trong bọn đã bị hành quyết, đến lượt Tín, Tín nói to:
Nhà vua không muốn thành tựu việc thiên hạ à? Sao lại chém tráng sỹ chứ?
Đằng Công lấy làm lạ bèn tha tội chết, tâu lên Hán Vương, dần dần Hàn Tín
được Hán Vương phong làm đại tướng.
Tín lập nhiều công to, làm vua nước Tề, khi đến Sở, Tín cho mời bà lão giặt
lụa khi xưa tặng bà ngàn vàng. Cho viên đình trưởng Nam Xương ở Hạ
Hương một trăm đồng tiền và nói:
- Ông là kẻ tiểu nhân, làm phúc mà không làm cho trót !
Lại gọi gã đồ tể làm nhục mình khi xưa đến, cho làm chức trung úy nước Sở.
Tín nói với văn võ bá quan rằng:
- Đây là một dũng sỹ. Xưa kia hắn làm nhục ta, ta to con há lại không giết nổi
hắn sao! Nhưng giết hắn như thế thì tầm thường lắm ! cho nên ta nhịn, ta mới
có ngày nay.