Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.36 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
*ThS. Nguyễn Thị Tƣờng Duy– Khoa LLCT
- Trƣờng ĐH Công nghiệp Thực phẩm Tp.HCM
54
<b>VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP NGOẠI GI O “TÂM CƠNG” CỦA HỒ CHÍ MINH </b>
<b>TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GÂY THIỆN CẢM </b>
<b> PPLYING HO CHI MINH’ HE RT FOREIGN METHOD IN DEVELOPING </b>
<b>LIKING COMMUNICATIVE SKILL OF STUDENTS </b>
<b>Nguyễn Thị Tƣờng Duy*</b>
<b>TÓM TẮT </b>
Hồ Chí Minh khơng những là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hố thế giới mà còn là nhà ngoại
giao tài ba, khéo léo. Trong ngoại giao, Ngƣời sử dụng rất nhiều phƣơng pháp, trong đó nổi bật là phƣơng pháp
ngoại giao tâm cơng, chính phƣơng pháp này đã giúp Hồ Chí Minh gây đƣợc thiện cảm từ ngƣời đối diện, thậm
chí cảm hố đƣợc kẻ thù. Vì vậy, học tập và vận dụng phƣơng pháp này trong việc phát triển kỹ năng gây thiện
cảm trong giao tiếp của sinh viên hiện nay là vơ cùng cần thiết và có ý nghĩa.
<b>ABSTRACT </b>
Ho Chi Minh is not only hero of Vietnamese nation and culture famous man in the world but also is talent
diplomat. In diplomacy, he used a lot of medods. In those medods, heart foreign medod is the most salient. Ho
Chi Minh is loved even he also convert his enemy by using that way. So, students apply Ho Chi Minh‟ heart
foreign medod in developing liking communicative skill of them is necessary and meaning today.
<b>1. Truyền thống </b>n<b>goại giao hòa hiếu của </b>
<b>dân tộc Việt Nam - một trong những </b>
<b>nguồn gốc hình thành phƣơng pháp </b>
Việt Nam là nƣớc có vị trí quan
trọng trong giao lƣu quốc tế và có vị trí địa
chiến lƣợc đặc biệt ở Đông Nam Á, là cửa
ng đi vào Đơng Nam Á nói riêng và
Đơng Á nói chung, phía Bắc giáp với
Trung Quốc rộng lớn, phía Tây và Tây
Nam giáp với Lào, Campuchia, phía Đơng
và Nam nhìn ra biển Thái Bình Dƣơng. Vị
trí địa lý này tạo điều kiện thuận lợi cho
nƣớc ta tiếp xúc với nhiều quốc gia, dân
tộc khác nhau. Tranh thủ thuận lợi này,
ông cha ta đã không bỏ lỡ những cơ hội để
Việt Nam tiếp xúc với các nƣớc bên ngoài,
với mong muốn bày tỏ tình thân thiện và
tìm kiếm cơ hội phát triển cho Việt Nam.
Tuy nhiên, trong lịch sử, mối quan
hệ giữa dân tộc ta với các dân tộc khác
không phải lúc nào cũng hịa bình, phẳng
lặng. Có những khoảng thời gian rất dài
nƣớc ta bị dân tộc này, dân tộc khác gây
hấn và đem quân xâm lƣợc<b>. </b>Trong hồn
cảnh đó, cách giải quyết ƣu tiên và xuyên
suốt của ta là chủ trƣơng thƣơng lƣợng,
hồ bình. Và khi xung đột chấm dứt, ta lại
chủ động giao hảo với họ nhằm mục đích
55
hịa bình, thƣơng lƣợng. Vì lợi ích lâu dài
của tồn dân tộc, hịa bình cho đất nƣớc và
sự bình yên trong đời sống ngƣời dân, nên
khi cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm của nhân dân ta giành thắng lợi, ông
cha ta vẫn sẵn sàng dâng sớ cầu hịa, thậm
chí cịn chịu nhận tƣớc phong của các triều
đại phong kiến phƣơng Bắc. Chẳng hạn,
vào thời Lý, sau khi đánh bại quân Tống ở
sông Nhƣ Nguyệt, Lý Thƣờng Kiệt đã chủ
động cử sứ sang doanh trại giặc đề nghị
giặc hạ chiếu rút lui đại binh về nƣớc thì ta
sẽ lập tức sang “tạ tội” và tu cống. Chủ
trƣơng dùng “biện sĩ bàn hòa” của Lý
Thƣờng Kiệt đã có tác dụng quan trọng
trong việc tạo lập hòa hiếu giữa hai bên.
Việc giữ cho đất nƣớc tạm yên trong
hai mƣơi lăm năm hịa hỗn của nhà Trần
Tƣ tƣởng hòa hiếu một lần nữa đƣợc
nêu cao trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn.
Những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ln
mong muốn “giữ hịa hiếu cho hai nƣớc,
tắt muôn đời chiến tranh”, cho nên dù
chiến thắng vẻ vang, Lê Lợi vẫn sai ngƣời
sang cầu hòa viếng thăm, tặng vật phẩm để
cốt xây dựng quan hệ bang giao thân thiện
với nhà Minh.
Đến thời Quang Trung – Nguyễn
Huệ, dù quyết tâm “đánh cho sử tri nam
quốc anh hùng chi hữu chủ”[3<i>,</i> tr. 353]
nhƣng trƣớc khi đánh giặc và cả sau khi đã
thắng giặc, Quang Trung đều tính ngay tới
việc giao hiếu với nhà Thanh để dẹp “nỗi
hờn rửa nhục” của họ. Đúc kết lịch sử
bang giao của dân tộc, nhà sử học Phan
Huy Chú khẳng định: “Trong việc trị nƣớc,
hòa hiếu với nƣớc láng giềng là việc lớn,
mà những khi ứng thù thì lại rất quan hệ,
khơng thể xem thƣờng”[1, tr. 44].
Có thể nói, tinh thần hịa hiếu, u
chuộng hịa bình ln đƣợc thể hiện xuyên
suốt trong quá trình đấu tranh ngoại giao
của ông cha ta mà các thời đại của Lý
Thƣờng Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung,... là
những mốc điển hình. Hịa hiếu ln là tƣ
tƣởng nhất quán trong phƣơng cách của
nền ngoại giao Việt Nam. Mục đích duy
nhất của hịa hiếu là bảo đảm độc lập dân
tộc, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền
quốc gia và cuộc sống yên bình, hạnh phúc
của nhân dân. Hồ Chí Minh đã tiếp thu
truyền thống quý báu này, làm phong phú
thêm tƣ tƣởng ngoại giao của Ngƣời, đặc
biệt là đó là một trong những nguồn gốc
quan trọng giúp Ngƣời định hình một
<b>2. Phƣơng pháp ngoại giao tâm công của </b>
<b>Hồ Chí Minh </b>
56
thống. Ngƣời đã phát triển nó lên một tầm
cao mới, định hình một phƣơng pháp ngoại
giao mà chính nghĩa đƣợc đặt làm nòng
cốt, lấy tình thƣơng, lịng độ lƣợng làm sức
mạnh lay động lƣơng tri con ngƣời. Đó là
phƣơng pháp ngoại giao “tâm công”.
Ngoại giao “tâm cơng” có thể hiểu là
phƣơng pháp ngoại giao “đánh vào lòng
ngƣời”, tức là phƣơng pháp ngoại giao
dùng nhân nghĩa, đạo lý, lẽ phải để thuyết
phục và cảm hóa đối phƣơng, khơi gợi
lòng nhân trong mỗi con ngƣời, gây đƣợc
thiện cảm nơi ngƣời đối thoại.
Sinh thời, trong bất kỳ bài nói hay
bài viết nào của mình, Hồ Chí Minh chƣa
bao giờ nhắc đến cụm từ này. Nhƣng quá
trình hoạt động ngoại giao đầy tính nhân
văn và đầy tình ngƣời của Ngƣời đã định
hình nên một phƣơng pháp ngoại giao mới
mà chúng ta gọi là ngoại giao tâm công.
Nội dung cơ bản của phƣơng pháp
ngoại giao tâm cơng Hồ Chí Minh chính là
dựa trên cơ sở của chủ nghĩa nhân văn và
lòng nhân ái giữa con ngƣời với con ngƣời,
hƣớng tới mục tiêu hịa bình, hữu nghị.
Theo Ngƣời: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi
khác, nhƣng có một điều thì dân nào cũng
phải giống nhau. Ấy là dân nào cũng ƣa sự
lành và ghét sự dữ” [4, tr. 351]. Trong hoạt
động cách mạng nói chung hay trong hoạt
động ngoại giao nói riêng và cả trong
những ứng xử đời thƣờng, Hồ Chí Minh
ln đối xử với mọi ngƣời bằng thái độ
bao dung, bác ái. Riêng với ứng xử ngoại
giao, Ngƣời đặc biệt chú trọng đến yếu tố
nhân nghĩa, thấy đƣợc đây chính là điểm
tƣơng đồng giữa các dân tộc, có tác dụng
thức tỉnh “lƣơng tri nhân loại”, là cơ sở để
tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của quốc tế đối
với cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của dân
tộc Việt Nam. Đọc đáp từ trong buổi chiêu
đãi của Thủ tƣớng Pháp G. Bidault
(2-7-1946), Ngƣời nói: “Chúng ta đều đƣợc
kích thích bởi một tinh thần, triết lý Đạo
Khổng và triết lý phƣơng Tây đều tán
dƣơng một nguyên tắc: kỷ sở bất dục vật
thi ƣ nhân”. Tôi tin rằng trong những điều
kiện ấy, Hội nghị sắp tới sẽ đi đến những
57
mích gì với nhân dân Mỹ, chúng tơi muốn
sống hịa bình và hữu nghị với nhân dân
Mỹ”[5, tr. 117] . Dù quyết liệt chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ và vạch trần tội ác
của chúng, nhƣng đối với nhân dân Pháp,
nhân dân Mỹ tiến bộ, Hồ Chí Minh ln
khơi dậy niềm tự hào dân tộc của họ, luôn
đánh giá đúng những ƣu điểm và những
cống hiến của họ đối với nhân loại. Ngƣời
nói: “Chúng tơi muốn có những quan hệ
hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà
chúng tơi kính trọng vì nhân dân Mỹ là
một dân tộc tài năng, đã có nhiều cống
hiến cho khoa học nhất là gần đây đã lên
tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lƣợc
miền Nam Việt Nam”[5, tr. 253].
Để thực hiện phƣơng pháp ngoại giao
hƣớng tới lòng nhân, tranh thủ lòng ngƣời
Thứ nhất, Ngƣời cho rằng, muốn ngoại
giao thành công thì phải chú ý đến tác
phong, trang phục và phải có kiến thức
chun mơn. Thật sự, sự lịch lãm, tinh tế
và vốn kiến thức uyên bác là một điểm
mạnh đã đem lại sự thành công cho Hồ Chí
Minh trong mọi hoạt động ngoại giao.
Không phải ngẫu nhiên mà trong vƣờn Phủ
Chủ Tịch, Bác trồng rất nhiều cây ăn trái
và nhiều hoa hồng, Ngƣời luôn tặng hoa
hoặc trái cây cho khách quốc tế khi họ đến
thăm Ngƣời. Còn khi tiếp khách, Ngƣời
không bao giờ quên tặng hoa cho phụ nữ.
Nhà báo Fracoise de Corrèze đã không bao
giờ quên hành động của Hồ Chí Minh: khi
cuộc họp báo năm 1946 kết thúc, nhân trên
bàn có trang trí lọ hoa hồng, Ngƣời đã lấy
một bông hồng tặng chị vì chị là nhà báo
nữ. Tuần báo Regard đã đăng tấm hình ghi
nhận khoảnh khắc đó với lời bình: “ Gần
bốn mƣơi năm đấu tranh cách mạng mà
vẫn lịch thiệp nhƣ thƣờng”[7, tr. 251]. Sau
này, khi hay tin Bác mất, Fracoise de
Corrèze đã ơm bó hồng đến Đại sứ quán ta
ở Paris viếng Bác và khóc nức nở. Đặc
biệt, Hồ Chí Minh đã sử dụng có hiệu quả
58
hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân
dân Pháp ngày càng phát triển”[7, tr. 232].
Hồ Chí Minh cũng để lại trong lịng binh
lính và sĩ quan Pháp niềm xúc động dạt
dào bằng những cử chỉ giản dị, thân thiện.
Bản thân là chủ tịch nƣớc nhƣng Hồ Chí
Minh sẵn sàng bắt tay với từng sĩ quan
Pháp, bày tỏ lòng biết ơn trang trọng, nồng
hậu của Ngƣời đối với chính phủ và nhân
dân Pháp. Đặc biệt Ngƣời đã khơi gợi
đƣợc tình cảm thân thuộc sâu kín trong
lịng mỗi ngƣời lính Pháp, khiến họ phải
cảm động, bùi ngùi và đánh thức đƣợc
Thứ ba, để thực hiện thành công
phƣơng pháp ngoại giao “tâm cơng”, Hồ
Chí Minh luôn bày tỏ sự nhã nhặn; phong
thái giản dị; ngơn từ súc tích, khiêm tốn,
phù hợp với tâm lý, tính cách của từng đối
tƣợng giao tiếp. Ngƣời ứng xử rất linh
hoạt, nhạy bén, phù hợp với từng đối
tƣợng, Bác căn dặn cán bộ ngoại giao cần
có thái độ và cách ứng xử phù hợp với tâm
lý, tính cách của từng đối tƣợng giao tiếp.
Ngƣời luôn căn dặn: “làm ngoại giao thì
phải nhanh trí, biết đối đáp có lý lẽ, buộc
đối phƣơng phải chịu, mới giữ gìn đƣợc
quốc thể” [7, tr. 256]. Tuy nhiên, Ngƣời
cũng nhắc nhở: khi nói và viết phải chú ý
bốn vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau,
đó là: Nói, viết cái gì? Nói, viết cho ai?
Nói, viết để làm gì? Nói, viết nhƣ thế
nào?” [5, tr. 576]. Và yêu cầu: “ chƣa điều
tra, chƣa nghiên cứu, chƣa biết r , chớ nói,
chớ viết”, “ những vấn đề chƣa đƣợc kết
luận, chúng ta cần phải hết sức thận trọng
trong mọi lời nói và việc làm, nếu không
sẽ ảnh hƣởng không tốt”[4, tr. 185].
59
<b>3. Vận dụng phƣơng pháp ngoại giao </b>
<b>tâm công của Hồ Chí Minh trong việc </b>
<b>phát triển kỹ năng gây thiện cảm trong </b>
Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa
con ngƣời với con ngƣời, mà qua đó nảy
sinh sự tiếp xúc tâm lý đƣợc thể hiện ở sự
trao đổi thông tin, sự ảnh hƣởng, sự rung
cảm và sự hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp trở
thành một vấn đề rộng lớn có ý nghĩa quan
trọng trong khoa học, cuộc sống và sự phát
triển của mỗi cá nhân. Đó là nhu cầu tất
yếu trong đời sống của mỗi con ngƣời,
nhƣng không phải ai trong chúng ta cũng
biết thiết lập cuộc giao tiếp thành công nhƣ
mong đợi mà còn phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố kỹ năng, trong đó yếu tố gây thiện
cảm là yếu tố quan trọng và quyết định sự
thành công của các cuộc giao tiếp ngay từ
những phút giây gặp gỡ lần đầu tiên. Hồ
Chí Minh là ngƣời thầy vĩ đại và thành
công nhất trong việc gây đƣợc thiện cảm
với ngƣời đối điện, không chỉ với những
ngƣời bình thƣờng mà ngay cả những
ngƣời bên kia chiến tuyến với Ngƣời, đơi
khi có cả những ngƣời là kẻ thù của
Ngƣời. Ngƣời đã sử dụng hiệu quả phƣơng
pháp ngoại giao tâm công mà cho đến nay
việc học tập và vận dụng nó đối với sinh
viên là vơ cùng cần thiết đối với việc phát
triển kỹ năng gây thiện cảm trong giao
tiếp.
Môi trƣờng giao tiếp của sinh viên
rất đa dạng, từ gia đình, nhà trƣờng cho
đến xã hội. Trong đó mơi trƣờng nhà
trƣờng là nơi sinh viên phải thể hiện sự
tiếp xúc, giao lƣu phổ biến và thƣờng
xuyên nhất. Để có đƣợc sự tin yêu của cha
mẹ, ngƣời thân, bạn bè, thầy cô là điều mà
bất kỳ sinh viên nào cũng mong muốn và
cố gắng đạt đƣợc. Hơn nữa, để tồn tại, phát
triển, làm chủ đƣợc bản thân, làm chủ
đƣợc công việc, thành công trong môi
trƣờng cạnh tranh, nhiều sức ép và tính
cạnh tranh cao thì sinh viên khơng chỉ cần
có chun mơn, kiến thức vững vàng (cịn
gọi là kỹ năng cứng) mà cần có thêm kỹ
năng mềm. Đây là một hành trang cực kỳ
quan trọng đối với ngƣời lao động trong
thời đại mới. Và kỹ năng gây thiện cảm
trong giao tiếp là một trong những kỹ năng
mềm quan trọng nhất mà sinh viên cần
phải trang bị để có thể nhanh chóng đạt
đƣợc thành công trong học tập, công việc
và trở thành ngƣời có ích cho xã hội.
Tạo đƣợc thiện cảm là điều cần thiết
và khó nhất trong giao tiếp, địi hỏi phải có
nhiều yếu tố. Vận dụng phƣơng pháp ngoại
giao tâm công của Hồ Chí Minh, để tạo
Trƣớc hết, phải chú ý đến phong
cách ăn mặc và trang phục lịch sự, phù hợp
với không gian, thời gian và đối tƣợng tiếp
xúc. Nó là một thông điệp không lời, ăn
mặc cũng là cách để chuyển tải thông tin.
Ln gọn gàng, lịch sự thì mới có thể tạo
đƣợc thiện cảm với ngƣời đối thoại, bởi vì
trang phục xuề xoà, luộm thuộm thì khó
tạo đƣợc ấn tƣợng tốt.
Kế đến, lời nói phải tự tin, r ràng,
mạch lạc; phải nắm chắc đƣợc nội dung
mình cần nói và mục đích của cuộc giao
tiếp. Trƣớc cuộc giao tiếp, phải chuẩn bị
vấn đề, chuẩn bị trả lời các câu hỏi: Gặp
ngƣời đó để làm gì? Lý do tại sao gặp mặt?
Mình là ai, ngƣời đối diện là ai? Từ đó suy
ra thực hiện bằng cách nào? Khi nào thì tác
động bằng ngơn ngữ, bằng nội dung nói:
Nói cái gì? Nói những chuyện gì? Hỏi
những câu hỏi gì? Dự định trả lời câu hỏi
nhƣ thế nào?...
60
diện. Ƣớc muốn sâu xa của mỗi ngƣời là
đƣợc khen ngợi, đƣợc tôn trọng và đƣợc
Yếu tố không thể thiếu nữa để gây
đƣợc sự quý mến trong cuộc giao tiếp là
phải hiểu r ngƣời đối thoại cũng nhƣ tìm
hiểu tâm lý, tính cách của họ. Cần phải
hiểu r ngƣời mà chúng ta đang nói
chuyện, họ thích và khơng thích điều gì.
Chúng ta khơng thể lấy lòng ngƣời khác
khi không biết họ muốn, cần nghe những
gì. Bởi vì biết nói những điều ngƣời đối
diện muốn nghe là một nghệ thuật trong
ứng xử.
Cuối cùng, để giao tiếp tốt cần phải
biết cách vận dụng cả mặt bên ngoài và
bên trong của hoạt động giao tiếp. Mặt bên
Để gây thiện cảm trong giao tiếp, điều đầu
tiên chúng ta phải xuất phát từ sự chân
thành và hƣớng đến sự thành thật trong tất
cả những mối quan hệ. Nếu trong giao
tiếp, chúng ta thiếu tinh thần ngay thẳng,
giả dối thì dù vẻ bên ngồi từ hình dáng,
trang phục, lời nói… có tốt đẹp đến mấy
cũng đều trở thành vô nghĩa, thậm chí để
lại hậu quả không lƣờng sau cuộc giao
tiếp.
Tóm lại, ứng xử sao cho đẹp lòng
ngƣời nhƣng khơng thiệt cho mình, đƣợc
sự tin yêu của mọi ngƣời là cả một nghệ
thuật. Điều đó địi hỏi sự nhảy cảm, tinh tế
trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trong
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>
1. Học viện quan hệ quốc tế (2002), <i>Góp </i>
<i>phần t m hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về </i>
<i>ngoại giao</i>, Nxb. Lao động, Hà Nội.
2. Vũ Dƣơng Huân (2000), <i>Tư tưởng Hồ </i>
<i>Chí Minh về ngoại giao</i>, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội.
3. <i>Lịch sử Việt Nam</i>, (1971), Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2000), <i>Toàn tập, Tập 4, </i>
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.