Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.01 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Cách mạng tháng 8 thành cơng. Ngày 2/9/1945, CHủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản tun ngơn Độc lập tuyên bố trớc quốc dân và thế giối: nớc VN dân chủ
cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam hoà ra đời.
Lúc này đặc điểm nổi bật của tình hình quốc tế sau CTTG II là các lực
l-ợng hồ bình, dân tộc, dân chủ trên TG đang trên đà tấn công mạnh mẽ vào chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản cách mạng dới nhioêù hình thức va ftính chất
kác nhau. Song các lực lợng đế quốc và các thế lực phản cách mạng cũng đang
tìm mọi cách để phục hồi và phát trtiển vai trị của mình, phản kích mạnh mẽ các
lực lợng hồ bỡnh, dõn tc, dõn ch v CNXH.
Những mâu thuẫn trên thế fgiới đang diễn ra khá phức tạp và ngày càng
gay gắt.
VN l mt b phn ca TG nờn ó chịu tác động lớn của cuộc đối đầu gay
gắt và phc stạp đó. Vừa mới ra đời, nớc VN DC CH đã bị CNĐQ và các thế lực
phản động liên kết với nhau bao vây, chống phá quyết liệt.
Với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, các đội quân đồng minh đã dồn
dập kéo vào VN.
ở miền Bắc, khoảng 20 vạn quân của Tởng Giới Thạch, gồm 4 quân đoàn
ồ ạt kéo vào đóng ở Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt –
Trung đến vĩ tuyến 16. Chúng kéo vào VN nhằm thực hiện ý đồ tiêu diệt ĐCS
ĐD, phá tan Mặt trận Việt Minh, giúp bọn phản CMVN đánh đổ chính quyền
nhân dân, lập 1 chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Lực lợng của Tởng
và bọn tay sai phản động là kẻ thù nguy hiểm đang đe doạ hàng ngày, hàng giờ
đối với chính quyền cách mạng.
ở miền Nam, tình hình còn nghioêm trọng hơn. Ngoài việc lấy danh
nghiũa quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, quân đội
Anh cịn đồng lỗ và giúp cho thực dân Fáp quay lại xâm lợc nớc ta lần thứ 2 vào
ngày 23/9/1945.
Ngoài lực lợng của quân Tởng, Anh, Fáp, trên đất nớc ta lúc đó có khoảng
6 vạn quân Nhật. Trong lúc chờ giải giáp, một bộ phận của quân đội Nhật đã đợc
quân Anh sử dụng, đánh vào lực lợng vũ trang của ta, dọn đờng cho quân Fáp
đánh chiếm Sài Gòn và các vùng ở miền Nam.
Dựa vào thế lực của quân đội nớc ngoài, các lực lợng phản CM trong cả
n-ớc đã lần lợt ngóc đầu dậy chống phá chính quyền CM.
Cha lúc nào trên đất nớc VN có nhiều kẻ thù nh vậy! Nền Độc lập, tự do
của nớc ta bị đe doạ nghiem trọng.
Trong lúc đó, lực lợng mọi mặt của nớc VNDCCH cha kịp củng cố và phát
triển.
Chính phủ VNDCCH ra dời cha đợc 1 nớc nào trên TG cơng nhận.
Khối đại đồn kết tồn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất và cơ cấu tổ
chức chính quyền CM đang cịn phải tiếp tục củng cố và mở rộng.
Lực lợng vũ trang CM còn non trẻ, trang bị kém, thiếu thốn đủ mọi bề,
kinh nghiệm chiến đấu cịn q ít.
Mặt khác, nền kinh tế của đất nớc chủ yếu là nông nghiệp vốn đã nghèo
nàn, lạc hậu, còn bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Cơng nghiệp lạc hậu và đình
Các “di sản” văn hoá lạc hậu của chế độ thực dân để lại khá nặng nề: hơn
90% không biết chữ, các tệ nạn xã hội nh mê tín dị đoan, rợu chè, cờ bạc, nghiện
hút…rất trầm trọng và phổ biến.
Giặc ngoài thù trong, khó khăn chồng chất khó khăn đè nặng lên đất nớc
ta, đặt chính quyền CM trớc 1 tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”!
Vận mệnh độc lập, tự do của dân tộc vừa mới giành đợc đang đứng trứơc
nguy cơ mất còn.
<b>II. Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và tạm ớc Việt </b>–<b> Pháp (14/9/1946).</b>
<b>1. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946:</b>
<i><b> * Hoàn cảnh: </b></i>
Sau khi chim úng các đô thị ở Nam Bộ và cực Nam trung Bộ, thực dân
Fáp chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc để thơn tính cả nớc ta.
Lúc này ở miền Bắc nớc ta 20 vạn quân Tởng đang chiếm đóng và đàn áp
CM.
Trớc tình hình đó, ta chủ động đàm phán với Fáp, tạm hồ hỗn với chúng
để nhanh chóng gat6j 20 vạn quân Tởng về nớc và tranh thủ thời gian chuẩn bị
<i><b> * Thêi gian:</b></i>
Vào 16 giờ ngày 6/3/1946, tại ngơi nhà số 38 phố Lí Thái Tổ, trớc mặt các
đại diện của các nớc Trung Hoa, Anh, và Mĩ, Chủ tịch HCM đã kí với Giăng
Xanhtơni “Hiệp định sơ bộ”. Bản phụ khoản cũng đợc đại diện 2 phía kí cùng 1
lúc.
<i><b> * Néi dung:</b></i>
Chính phủ Fáp cơng nhận nớc VNDCCH là 1 quốc gia tự do có chính phủ
của mình, nghị viện của mình, qn đội của mình, tài chính của mình và là 1
phần tử của liên bang Đông Dơng và trong khối liên hiệp Fáp.
Vấn đề thống nhất 3 kì đợc chính phủ Fáp cam đoan thừa nhận những
quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.
Chính phủ VN chấp nhận để 15.000 quân Fáp đa vào miền Bắc thay thế
quân đội Tởng Giới Thạch. Mỗi năm sẽ rút 1/5 số quân đó về Fáp và sau 5 năm
sẽ rút hết.
Hai bên sẽ ngừng cuộc xung đột và giữ nguyên quân đội 2 bên tại vị trí cũ
để tạo bầu khơng khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay các cuộc điều đình thân
thiện và thẳng thắn về các vấn đề ngoại giao của VN, chế độ tơng lai của Đơng
Dơng, những quyền lợi kinh tế và văn hố của Fáp ở VN.
Hà Nội, Sài Gịn hoặc Pari có thể đợc chọn làm nơi họp.
<i><b> * Nhận định:</b></i>
Kí Hiệp định 6/3 là 1 bớc “hồ để tiến” của Đảng và Chính phủ ta. Cuộc
đấu tranh của nhân dân VN để thực hiện Độc lập - Tự do - Hạnh phúc lập – chủ
quyền – thống nhất còn trải qua nhiều khó khăn gian khổ.
<b>2. T¹m íc 14/9/1946:</b>
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, thực dân Fáp vẫn tiếp tục gây xung đột vũ
trang ở Nam Bộ, lập Chính phủ Nam Kì tự trị, âm mu tách Nam Bộ ra khỏi VN.
Do sự đấu tranh kiên quyết của ta, cuộc đàm phán chính thức giã 2 Chính phủ
đựơc tổ chức tại Phôngtennơblô từ ngày 6/7 đến 10/9/1946. Hội nghị đã bàn các
vấn đề: địa vị của VN trong khối Liên hiệp Fáp và những mối quan hệ ngoại giao
giữa VN với các nớc, tổ chức Liên bang Đông Dơng, vấn đề thống nhất 3 kì và
việc trng cầu dân ý ở Nam Bộ, những vấn đề kinh tế, vă hoá và soạn thảo dự án
Hiệp ớc. Nhng cuộc đàm phán đã thất bại.
Trong khi đó, tại Đơng Dơng, quân Fáp tăng cờng hoạt động khiêu khích.
Quan hệ Việt – Fáp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh.
Bản Tạm ớc gồm có 14 khoản, trong đó quy định 1 số điều quan hệ tạm
thời về kinh tế và văn hoá giữa 2 nớc, đình chiến chiến sự ở miền Nam, quy định
thời gian tiếp tục đàm phán Việt – Fáp vào đầu năm 1947.
<i><b>* Nhận định chung:</b></i>
Thực hiện chủ trơng hoà hỗn, việc kí Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm
-ớc 14/9/1946 của Chính phủ và Chủ tịch HCM là đúng đắn. Phân tích, đánh giá
chủ trơng đó, HCM nói: “Việc này cũng làm cho nhiều ngời thắc mắc và cho đó
là chính sách q hữu. Nhng các đồng chí và đồng bào Nam Bộ thì lại cho là
đúng. Mà đúng thật. Vì đồng bào và đồng chí ở Nam Bộ đã khéo lợi dụng dịp đó
Chúng ta cần hồ bình để xây dựng nớc nhà, cho nên chúng ta đã ép
lịng mà nhân nhợng để giữ hồ bình. Dù thực dân Fáp đã bội ớc, đã gây chiến
tranh, nhng gần 1 năm tạm hồ bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực
l-ợng căn bản. Khi Fáp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì
cuộc kháng chiến tồn quốc bắt đầu”.
<b>III. ChiÕn dịch Việt bắc Thu - Đông 1947.</b>
gii quyt khú khăn khi phạm vi chiếm đóng mở rộng và thực hiện âm
mu “Đánh nhanh thắng nhanh”, tháng 3/1947, Chính phủ Fáp cử Bô-la-éc làm
cao uỷ Fáp ở Đông Dơng thay Đác-giăng-li-ơ.
Kế hoạch tiến công lên Việt Bắc của quân đội Fáp, do tớng Salăng vạch ra,
đợc Chính phủ Fáp phê chuẩn tháng 7/1947 nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não
kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá hoại kho tàng, xởng máy, bao vây
và khoá chặt biên giới Việt – Trung, ngăn chặn giữa ta với quốc tế…, cố giành
1 thắng lợi về quân sự để tập hợp lực lợng phản động lập chính phủ bù nhìn tay
sai và hi vọng kết thúc chiến tranh.
Theo kế hoạch đó, ngày 7/10/1947, thực dân Fáp đã huy động lực lợng mở
cuộc hành quân lên Việt Bắc mang mật danh LEA.
Thực dân Fáp huy động 12 000 quân tinh nhuệ và hầu hết máy bay ở
Đông Dơng, chia thành 3 cánh, mở cuộc tiến công Căn cứ địa Việt Bắc:
Ngày 7/10/1947, binh đồn qn dù do Xơvanhắc chỉ huy lần lợt đổ quân
xuống thị xã Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn. Cùng ngày, binh đồn cơ giới do
Bơphơrê chỉ huy, từ Lạng Sơn ngợc đờng số 4 lên Na Sầm, Thất Khê, đánh lên
Ngày 9/10, 1 binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thuỷ đánh bộ do
Commuynan chỉ huy, từ Hà Nội ngợc sông hồng và sông Lô lên Tuyên Quang,
Chiêm Hoá để đánh vào Đài Thị, bao vây phía tây Căn cứ địa Việt Bắc.
Ngày 15/10/1947, Ban thờng vụ Trung ơng Đảng ra chỉ thị: Phải phá tan
<i>cuộc tấn công mùa đông của giặc Fáp.</i>
Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trờng, Bộ Tổng chỉ huy
quyết định tập trung lực lợng đánh địch trên 3 mặt trận
<i>ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hoá, quân ta liên tục chặn đánh địch hàng</i>
chục trận, nổi bật là các trận Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau, đánh chìm nhiều
tàu chiến, canơ, diệt nhiều tên địch.
<i>ở mặt trận đờng số 4, quân ta đã đánh nhiều trận phục kích, đặc biệt là</i>
trận ở Bơng Lau ngày 30/10/1947, phá huỷ nhiều xe của giặc, diệt nhiều tên
địch, thu nhiều vũ khí.
<i>ở mặt trận đừng số 3, qn ta đánh phục kích, tập kích, địa lơi trên 20 trận</i>
lớn nhỏ ở Chợ Mới, Chợ Đồn…
Các gọng kìm của địch ở Việt Bắc bị bẻ gãy.
Phối hợp với Việt Bắc, ở các chiến trờng trên toàn quốc, quân và dân ta đã
hoạt động kiềm chế địch.
Bị thất bại nặng nề, địch buộc phải rút chạy khỏi Việt Bắc.