Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Chính sách đối ngoại của hoa kỳ đối với trung quốc từ sau chiến tranh lạnh đến nay (1991 nay) công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học euréka lần thứ 10 năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 67 trang )

ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – EURÉKA
LẦN THỨ 10 NĂM 2008

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC TỪ SAU
CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY
(1991 - NAY)
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỘC NHÂN VĂN

Mã số cơng trình:


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – EURÉKA”
LẦN THỨ 10 NĂM 2008

TÊN CƠNG TRÌNH:

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
ĐẾN NAY (1991 – NAY)
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC NHÂN VĂN

Họ và tên nhóm tác giả

Giới tính

Sinh viên năm thứ

Trưởng nhóm:

Nữ

IV

Nữ

IV

Trần Hồi Linh
Hồng Thị Huệ

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Ngọc Dung – Chuyên ngành Lịch sử thế giới
– Phó trưởng khoa Lịch sử - Trường ĐH KHXH&NV


ĐỒN TNCS HỒ CHÍ MINH
BCH TP.HỒ CHÍ MINH
--------------TP.Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 09 năm 2008

PHIẾU ĐĂNG KÝ THAM DỰ

GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – EURÉKA
LẦN THỨ 10 NĂM 2008
1. Tên cơng trình:
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến
tranh Lạnh đến nay (1991 – nay)
2. Lĩnh vực nghiên cứu:
Đề tài của nhóm tác giả thuộc lĩnh vực Xã hội và Nhân Văn, thuộc nhóm
ngành Khoa học nhân văn.
3. Tóm tắt mục đích của cơng trình – những vấn đề mới:
Đề tài nghiên cứu và giới thiệu sự điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với
Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Do Hoa Kỳ và Trung Quốc đều là
nước lớn trên thế giới, vì vậy mối quan hệ và sự điều chỉnh chiến lược của hai
nước này có tác động rất sâu sắc đến các quốc gia, khu vực trên thế giới nhất là
khu vực Đông Nam Á - khu vực hai nước đang tích cực tranh giành ảnh hưởng.
Thực hiện đề tài này nhóm tác giả tìm hiểu, phân tích và đánh giá về sự điều chỉnh
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trên các lĩnh vực an ninh –
chính trị và kinh tế thông qua hai giai đoạn lớn: từ sau Chiến tranh Lạnh đến trước
sự kiện 11/9/2001 và sau sự kiện 11/9/2001 đến nay. Từ đó, đề tài có những dự
báo về trọng tâm chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thập niên tới.
Qua đề tài cũng đã góp phần vào việc hệ thống chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay trên tất cả các lĩnh vực và
mối quan hệ thăng trầm của Hoa Kỳ - Trung Quốc, cung cấp một khối lượng kiến
thức đáng kể cho người đọc về nội dung của chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay.


4. Nhóm tác giả dự thi:
 Tác giả 1:
Họ tên: Trần Hồi Linh
ảnh 3x4


Giới tính: Nữ
Năm sinh: 1985

Địa chỉ: 235B/A11/10 Nguyễn Văn Cừ - Quận 1 – Tp. Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0976.857.577
Khoa: Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

 Tác giả 2:
Họ tên: Hồng Thị Huệ
ảnh 3x4

Giới tính: Nữ
Năm sinh: 1984

Địa chỉ: Xóm Lê Lợi – Nhuộng – Xã Yên Trung – Huyện Ý Yên
– Tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0936.756.740
Khoa: Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

TM. Ban tổ chức Euréka cấp trường

Trưởng nhóm tác giả

Trần Hồi Linh


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực đối đầu tồn tại gần

nửa thế kỷ tan rã, cục diện thế giới và cấu trúc quyền lực quốc tế đã có những thay
đổi sâu sắc. Thế cân bằng chiến lược toàn cầu đã thay đổi, trật tự thế giới phát
triển theo hướng đa cực. Quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc khơng cịn bị chi
phối nặng nề bởi ý thức hệ, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ
quốc tế.
Trước những thay đổi của tình hình thế giới và ở các khu vực, hầu hết các
nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược đối ngoại cho phù hợp với tình hình
mới, điểm nổi bật nhất là sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước lớn.
Trong đó, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới với ưu thế trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và việc Hoa Kỳ điều chỉnh chính sách đối ngoại
như thế nào có ảnh hưởng trực tiếp tới từng quốc gia và khu vực trên thế giới. Vì
vậy việc quan tâm, nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về sự điều chỉnh chính sách
của Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay là điều rất cần thiết cho mỗi quốc
gia, mỗi khu vực.
Quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc là một trong những mối quan hệ quan trọng
và phức tạp trên thế giới. Trong khuôn khổ đề tài này nhóm tác giả muốn nghiên
cứu và giới thiệu sự điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau
Chiến tranh Lạnh đến nay. Do Hoa Kỳ và Trung Quốc đều là nước lớn trên thế
giới, vì vậy mối quan hệ và sự điều chỉnh chiến lược của hai nước này có tác động
rất sâu sắc đến các quốc gia, khu vực trên thế giới nhất là khu vực Đông Nam Á,
khu vực hai nước đang tích cực tranh giành ảnh hưởng. Việt Nam là một nước
nằm trong khu vực này vì vậy sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn và mối
quan hệ giữa các nước này vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn, buộc chúng ta phải
nhận thức đầy đủ để có đối sách thích hợp với xu thế chung và với từng nước.
Thực hiện đề tài này nhóm tác giả tìm hiểu, phân tích và đánh giá về sự điều
chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trên các lĩnh vực an
ninh – chính trị và kinh tế thông qua hai giai đoạn lớn: từ sau Chiến tranh Lạnh
đến trước sự kiện 11/9/2001 và sau sự kiện 11/9/2001 đến nay. Từ đó, đề tài có
những dự báo về trọng tâm chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thập
niên tới.

Để đạt được mục đích trên, đề tài có hai nhiệm vụ sau:
Một là, đề tài phải phân tích để thấy được sự điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc thông qua hai giai đoạn quan trọng như đã nêu ở
trên và mục đích của Hoa Kỳ trong sự điều chỉnh này.

1


Hai là, đề tài phải xác định được những nhân tố ảnh hưởng và những trọng
tâm trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thập niên tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn đặc biệt
là chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là một nội dung quan trọng trong việc nhận
thức để hoạch định chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam.
Vì thế cả trong nước và ngồi nước đã có những cơng trình khoa học, những bài
viết của một số nhà học giả, nhà chính trị, ngoại giao…đã nghiên cứu về chiến
lược đối ngoại của Hoa Kỳ qua các thời kỳ, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ trước và sau sự kiện 11/9/2001.
Có thể kể đến ba cơng trình của ba học giả nước ngồi là cuốn “ Chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh” của I.Randall B. Riley – Rames M.
Linday, “Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ: động cơ của sự lực chọn trong thế kỷ
XX” của Bruce W.Jentleson, và cuốn “Hoa Kỳ nửa thế kỷ: chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh Lạnh” của Thomas J McCormick do nhà
xuất bản chính trị quốc gia dịch và xuất bản năm 2004. Nhưng cả ba cơng trình
này đều thiên về lý luận và trình bày về quá trình hoạch định chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ. Trong khi đó ở trong nước cũng có các cơng trình nghiên cứu về đề
tài này như: “Chính sách kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương kể từ sau Chiến tranh Lạnh” của Đinh Quý Đô năm 2000, “Hoa Kỳ những
năm đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn Thiết Sơn năm 2002, “Chính sách thương mại
của Hoa Kỳ thời kỳ sau 1990” của Nguyễn Thị Kim Chi năm 2003 hay gần đây

nhất là cuốn “Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” của tác giả Nguyễn Thiết Sơn và Nguyễn Văn
Du xuất bản năm 2006. Nhưng tất cả chỉ đề cập một cách tổng quát nhất, hoặc
từng lĩnh vực cụ thể về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với từng khu vực,
khơng đi sâu vào phân tích chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với từng đối tượng cụ
thể đặc biệt là Trung Quốc.
Tuy có rất nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu về chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay nhưng các bài
cũng chỉ nghiên cứu một trong hai giai đoạn hoặc từng lĩnh vực cụ thể, vẫn chưa
tổng kết được q trình điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc qua
hai giai đoạn trên. Ví dụ như một số bài trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay: “ Sự điều
chỉnh chiến lược toàn cầu sau Chiến tranh Lạnh của Hoa Kỳ: từ G. Bush (cha)
đến Bill Clinton”; “Nhìn lại sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Mỹ sau chiến
tranh lạnh” của Hà Mỹ Hương, “Chính sách đối ngoại Mỹ trong những năm cuối
nhiệm kỳ của tổng thống George W.Bush”; “Chính sách an ninh, đối ngoại của
Mỹ đối với châu Á – Thái Bình Dương những năm đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn

2


Thái Yên Hương, “Chính sách đối ngoại Mỹ dưới chính quyền tổng thống
G.W.Bush trước vụ khủng bố 11/9”; “Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ
XX” của Trần Bá Khoa …Ngồi ra trên tạp chí Nghiên cứu Quốc Tế cũng có một
số bài viết về vấn đề này: “Chiến lược an ninh Đơng Á – Thái Bình Dương của
Mỹ: từ Clinton đến Bush”; “Bầu cử tổng thống năm 2004 và chiều hướng chính
sách đối ngoại trong nhiệm kỳ II của chính quyền Bush” của Lê Linh Lan, “Quan
hệ Mỹ – Trung: những vấn đề chính sách” của Lê Kim Sa… Tất cả các bài viết
này đều đã đưa ra quan điểm, đánh giá về chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ đối với
Trung Quốc ở một số lĩnh vực và trong từng giai đoạn.
Như vậy là chưa có một cơng trình nào tổng hợp, phân tích chính sách đối

ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay trên tất cả
các lĩnh vực và qua hai giai đoạn cụ thể như đã nêu. Vì thế đề tài “ Chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay” sẽ là sự
tổng hợp, phân tích và đánh giá về sự điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với
Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, góp phần xác định những nhân tố
tác động và trọng tâm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thập niên tới.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài xác định đối tượng chính là Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với
Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay (1991 – nay). Đề tài nghiên cứu việc
điều chỉnh chính sách đối ngoại của một nước qua các giai đoạn cụ thể vì thế
phương pháp nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trong đề tài là phương pháp lịch
sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử sẽ giúp cho nhóm tác giả ghi lại những nội dung chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc một cách cụ thể và chi tiết. Trong
khi đó, phương pháp logic giúp nhóm tác giả thấy được sự nhất quán trong mục
tiêu điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc qua các giai đoạn và
trên các lĩnh vực cụ thể.
Ngồi ra tác giả cịn sử dụng phương pháp liên ngành đó là phương pháp
nghiên cứu chính sách đối ngoại để từ đó có thể xác định đúng những cơ sở hoạch
định chính sách đối ngoại của một quốc gia đối với một chủ thể nhất định, những
mục tiêu của chính sách, và q trình thực hiện chính sách đó. Bên cạnh đó, tác
giả cũng sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê để có
thể phân tích và giải quyết vấn đề.
4. Đóng góp của đề tài.
Đề tài trước hết là nhận định sự thay đổi của cục diện thế giới sau khi Chiến
tranh Lạnh kết thúc, đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến việc hoạch định chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay.
Đề tài cũng góp phần dự báo xu thế phát triển của chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thời gian tới. Từ đó đề tài đã góp phần bổ sung
3



nhận thức về chiến lược đối ngoại của các nước từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay,
một vấn đề rất được quan tâm trong diễn biến phức tạp của tình hình thế giới hiện
nay.
Qua đề tài cũng đã góp phần vào việc hệ thống chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay trên tất cả các lĩnh vực và
mối quan hệ thăng trầm của Hoa Kỳ - Trung Quốc, cung cấp một khối lượng kiến
thức đáng kể cho người đọc về nội dung của chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc là mối quan hệ
rất quan trọng trong quan hệ quốc tế và việc nhận thức đầy đủ về nó là điều quan
trọng cho mỗi một quốc gia. Vì thế đề tài đã góp phần nhận thức rõ hơn vấn đề
này trong việc hoạch địch chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới.
5. Kết cấu đề tài.
Đề tài có phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần phụ lục. Phần
nội dung của đề tài chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay (1991 – nay)
Chương 2: Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh
Lạnh đến nay (1991 – nay)
Chương 3: Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thập niên tới.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CỦA HOA KỲ ĐỐI
VỚI TRUNG QUỐC TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN
NAY (1991 – NAY)
1.1. Khái quát chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong Chiến

tranh Lạnh
Sau chiến tranh thế giới thứ hai (CTTG II), Hoa Kỳ hầu như không bị ảnh
hưởng của cuộc chiến tranh và trở thành nước tư bản giàu có nhất thế giới. Trong
khi đó nền kinh tế các nước thua trận như Đức, Nhật, hầu như bị phá hoại hồn
tồn. Liên Xơ cũng bị thiệt hại nặng nề. Điều kiện đó thuận lợi cho Hoa Kỳ thực
hiện mưu đồ bá chủ thế giới sau Chiến tranh Lạnh.
Năm 1949 nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc mới được thành lập. Do
Đảng Cộng Sản Trung Quốc có chính sách thân Liên Xô chống Hoa Kỳ nên Hoa
Kỳ thực hiện chính sách giúp đỡ chính quyền Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân
Đảng tiến hành nội chiến với Đảng Cộng Sản Trung Quốc và lực lượng vũ trang
do Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo. Đồng thời Hoa Kỳ cũng có cả qn đội
đóng trên đất Trung Quốc. Chính phủ Hoa Kỳ chưa hề từ bỏ sự thừa nhận chính
quyền Tưởng Giới Thạch đồng thời cự tuyệt sự thừa nhận đối với chính quyền của
Trung Quốc mới, ngăn cản Trung Quốc thay thế chính quyền Quốc Dân Đảng ở
Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác.
“Hoa Kỳ muốn đất nước Trung Quốc thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Tưởng Giới Thạch – tay sai của Hoa Kỳ để Hoa Kỳ dễ dàng thơn tính được Trung
Quốc, biến Trung Quốc thành bạn đồng minh vững mạnh trong Chiến tranh Lạnh
để làm đối cực với Liên Xơ”1.
Nhưng khi nhìn thấy sự thắng lợi là tất yếu về phía Đảng Cộng Sản Trung
Quốc thì Hoa Kỳ một mặt vẫn ủng hộ Tưởng Giới Thạch, một mặt cử người sang
làm hòa với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. “Ngày 15-6-1949, trong bài nói chuyện
tại Hội nghị trù bị chính trị hiệp thương mới, Mao Trạch Đông đã trịnh trọng
tuyên bố: “Cái mà chúng ta chống chỉ là chế độ Đế Quốc chủ nghĩa cùng với
những kế hoạch âm mưu của chúng chống nhân dân Trung Quốc. Bất kỳ một
chính phủ nào, chỉ cần họ bằng lòng cắt đứt quan hệ với bọn phản động Trung
Quốc, đồng thời có thái độ hữu hảo thực sự, chứ không phải là giả dối đối với
nhân dân Trung Quốc thì chúng ta bằng lịng cùng với họ dựa trên cơ sở của các
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tơn trọng chủ quyền và lãnh thổ của nhau, tiến
hành đàm phán chính thức vấn đề kiến lập quan hệ ngoại giao, nhân dân Trung

1

Trương Tiểu Minh (2002), Chiến tranh Lạnh và di sản của nó, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội,
trang 380.

5


Quốc nguyện cùng với nhân dân các nước trên thế giới thực hiện hợp tác hữu hảo,
khôi phục và phát triển sự nghiệp buôn bán quốc tế, làm lợi cho phát triển sản xuất
và kinh tế phồn vinh”2. Và điểm này đã ảnh hưởng rất nhiều đến những chính sách
ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc sau này.
Mối quan hệ giữa hai bên đã rơi vào khủng hoảng khi nổ ra chiến tranh
Triều Tiên tháng 6/1950, với sự tham chiến của lực lượng vũ trang của cả hai
nước. Bên cạnh đó nhân tố Liên Xơ có ảnh hưởng tương đối lớn trong việc hoạch
định những chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Điều này thể
hiện trong giai đoạn đầu thành lập Trung Quốc mới, chính phủ Hoa Kỳ phản đối
gay gắt với phương châm chiến lược “ngả hẳn về một bên” của Trung Quốc. Hoa
Kỳ lo sợ Trung Quốc và Liên Xô sẽ liên kết với nhau cùng chống Hoa Kỳ. Bắt đầu
từ cuối thập kỷ 40, một bộ phận của cấp ra quyết sách trong chính quyền Hoa Kỳ
đều có một nhận thức chung với tính chất quan hệ của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc với Liên Xô là: Đảng Cộng Sản Trung Quốc có tính độc lập tương đối mạnh
đối với Liên Xơ, tuy họ chịu ảnh hưởng của Liên Xô, song không thể là công cụ
của Matxcơva. Và cho rằng “thắng lợi của Đảng Cộng Sản Trung Quốc khơng có
khả năng gây hại cho lợi ích của Hoa Kỳ”3. Chính sách đối ngoại của chính quyền
Truman với Trung Quốc là: khoét sâu mâu thuẫn giữa Đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Liên Xô, ngăn cản Trung Quốc mới ngả theo Liên Xô. Trong văn kiện số
34 của Hoa Kỳ nêu rõ mục tiêu trước mắt với Trung Quốc mới là: ngăn cản Trung
Quốc trở thành nước phụ thuộc Liên Xô. Chỉ rõ, Hoa Kỳ đồng thời với việc cẩn
thận tránh các biểu hiện can thiệp … cịn cần thơng qua những thủ đoạn chính trị

và kinh tế, lợi dụng tất cả những bất hịa giữa Đảng Cộng Sản Trung Quốc với
Liên Xơ, giữa những người theo chủ nghĩa Stalin trong và ngoài tổ chức cộng sản
Trung Quốc và các phần tử khác. Nhưng chính quyền Hoa Kỳ khơng thể cắt đứt
quan hệ với chính quyền Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân Đảng. Hoa Kỳ hiểu
rằng chỉ có thể hy vọng vào khả năng lâu dài của sự chia rẽ Trung – Xô.
Đến năm 1958, Liên Xô và Trung Quốc bất đồng với nhau do Trung Quốc
pháo kích vào Kim Mơn, Mã Tổ ảnh hưởng đến Liên Xơ. Bên cạnh đó những
chính sách của Trung Quốc với Đài Loan cũng khiến Liên Xô không đồng ý. Cuối
thập niên 50 Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn, tạo điều kiện cho Hoa Kỳ thiết
lập ngoại giao thân thiện hơn với Trung Quốc. Liên Xơ có mâu thuẫn với Trung
Quốc nên đã có thái độ mềm dẻo hơn với Hoa Kỳ, điều này buộc Trung Quốc
cũng phải có chính sách thân thiện hơn với Hoa Kỳ. Bất đồng với Liên Xô đẩy
Trung Quốc sát về bên cực Hoa Kỳ nhất là khi mâu thuẫn Trung – Xơ cơng khai
hóa. Song lúc này do vấn đề Đài Loan nên quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ vẫn
chưa được cải thiện.
2
3

Trương Tiểu Minh, sđd, trang 314.
Văn kiện số 34 (NSC 34) của Hoa Kỳ.

6


Trong thập niên 60, quan hệ Trung – Xô và Trung Quốc – Hoa Kỳ đều
căng thẳng. Cuộc chiến tranh biên giới Xô – Trung năm 1969 trên sông Urussi
đánh dấu sự thay đổi chiến lược của Trung Quốc, tạo điều kiện cho mối quan hệ
Trung Quốc – Hoa Kỳ phát triển vào thập kỷ sau. Cùng lúc đó, do bị cuốn ngày
càng sâu vào chiến tranh Việt Nam, chi phí qn sự khổng lồ làm suy thối kinh tế
Hoa Kỳ. Lợi dụng lúc này Liên Xơ tích cực phát triển và nhanh chóng tăng cường

quyền lực quân sự của mình. Trong hồn cảnh này Hoa Kỳ muốn có thêm nhiều
đồng minh để cân bằng với Liên Xơ vì thế Nixon và cố vấn chính sách đối ngoại
của ơng ta bắt đầu nhận thấy vai trò quan trọng của Trung Quốc.
Tóm lại, đến cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX, do sự thay đổi lớn của hoàn
cảnh thế giới, Trung Quốc và Hoa Kỳ dần dần nhận thức được lợi ích của nhau để
cùng tồn tại, chiến lược “hai trận tuyến” của Trung Quốc, rồi đến “một trận tuyến”
Trung Quốc sát cánh với Hoa Kỳ cùng chống Liên Xô. Hoa Kỳ nhận thấy mâu
thuẫn Liên Xô - Hoa Kỳ lớn hơn mâu thuẫn Trung Quốc - Hoa Kỳ nên có thể cải
thiện quan hệ với Trung Quốc để tạo đối trọng với Liên Xơ. Vì trên thế giới lúc
này chỉ có Hoa Kỳ mới có thể ngang bằng với Liên Xô nên Trung Quốc muốn nhờ
vào sức mạnh của Hoa Kỳ để loại trừ sự uy hiếp của Liên Xô.
Nixon trong thời gian tranh cử chức tổng thống và sau khi lên cầm quyền
cũng ln tỏ ý muốn hịa giải với Trung Quốc. Nixon lợi dụng mâu thuẫn Xô –
Trung lôi kéo Trung Quốc để lấn át Liên Xô trong cuộc đối đầu Chiến tranh Lạnh.
Như vậy vì mục đích chống Liên Xơ nên hai nước Trung Quốc - Hoa Kỳ đã xích
lại gần nhau. Chính phủ Hoa Kỳ cố gắng nắm lấy mâu thuẫn Xô – Trung khoét sâu
vào sao cho có lợi cho Hoa Kỳ. Như việc Hoa Kỳ giảm bớt quân đội ở Đài Loan
để cho Trung Quốc thấy được thiện chí của Hoa Kỳ, phái đặc xứ đến Trung Quốc,
và biểu hiện công khai rằng Nixon rất muốn đến thăm Trung Quốc. Chuyến thăm
chính thức đầu tiên của Tổng thống Hoa Kỳ tới Bắc Kinh năm 1972 và Thông cáo
chung Thượng Hải lần thứ nhất đã mở ra giai đoạn phát triển mới trong quan hệ
hai nước.
Như vậy là Hoa Kỳ đã chơi “con bài Trung Quốc” trong việc cân bằng với
Liên Xô, Hoa Kỳ coi quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ là bộ phận quan trọng trong
chính sách đối ngoại của mình trong giai đoạn này. Tuy nhiên, xét về lợi ích quốc
gia đặc biệt là lợi ích kinh tế trong mối quan hệ với Đài Loan thì Hoa Kỳ khơng
muốn vứt bỏ Đài Loan, điều này cũng tác động nhiều đến các chính sách của Hoa
Kỳ đối với Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh. Nhưng do Trung Quốc rất kiên
quyết trong vấn đề Đài Loan vì vậy đến 1979 Hoa Kỳ đã có những thay đổi trong
chính sách với Đài Loan và thân hơn với Trung Quốc. Ngày 1/1/1979, hai nước đã

chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Hoa Kỳ chỉ coi Trung Quốc là con bài trong cuộc đối đầu Liên Xơ - Hoa
Kỳ vì thế những chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong

7


Chiến tranh Lạnh phụ thuộc vào tình hình Hoa Kỳ với Liên Xơ. Liên Xơ trở thành
nhân tố chính trong cơ sở hoạch định chiến lược của Hoa Kỳ với Trung Quốc ở
giai đoạn này.
Thập kỷ 80 của thế kỷ XX khi Reagan lên làm Tổng thống 1/1981 muốn
thiết lập “quan hệ chính thức” với Đài Loan vì Hoa Kỳ không thể bỏ rơi “một
người bạn và một đồng minh lâu dài”. Điều này đã gây căng thẳng trong quan hệ
Hoa Kỳ - Trung Quốc. Và sự căng thẳng ngày càng gia tăng khi Hoa Kỳ thi hành
chính sách bao vây cấm vận đối với Trung Quốc sau khi diễn ra sự kiện Thiên An
Môn ở Bắc Kinh ngày 4/6/1989.
Bên cạnh đó nhiều học giả cịn cho rằng, giá trị của Trung Quốc đối với
Hoa Kỳ đã giảm do Liên Xô đã sụp đổ vào đầu thập niên 90, Hoa Kỳ không chơi
con bài Trung Quốc để chống Liên Xô nữa. Mặc dù trong thời kỳ này, cả Hoa Kỳ
và Trung Quốc đều có chung lợi ích là tập trung sức lực phát triển kinh tế trong
nước và mở rộng kinh tế đối ngoại, nhưng những quan điểm khác nhau về dân
chủ, nhân quyền, những khác biệt về lợi ích giữa hai nước trên một số vấn đề (Đài
Loan, quyền tác giả, mậu dịch, xuất khẩu hàng dệt…) đã đưa đến những căng
thẳng trong quan hệ song phương giữa hai bên.
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong giai đoạn này
bị chi phối bởi nhiều nhân tố nhưng xét cho cùng là dựa trên lợi ích chiến lược của
Hoa Kỳ trong hoàn cảnh quốc tế của từng thời kỳ.
1.2. Bối cảnh quốc tế và nội tình Hoa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh
1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Bối cảnh quốc tế là nhân tố khách quan phức tạp và biến đổi khôn lường

nhất. Nhân tố quốc tế được những người hoạch định chính sách trong đó có chính
sách đối ngoại đặc biệt quan tâm. Bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp với sự thay
đổi lớn của cục diện kinh tế và cục diện chính trị thế giới sau Chiến tranh Lạnh là
nhân tố chi phối đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước và Hoa
Kỳ cũng khơng nằm ngồi phạm vi ảnh hưởng đó.
Cục diện kinh tế thế giới:
Trật tự thế giới mới chưa định hình, xu thế hịa bình hợp tác là chủ đạo
nhưng chủ nghĩa khủng bố và các vấn đề an ninh phi truyền thống đang là những
nguy cơ lớn với thế giới hiện nay và ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của
toàn cầu. Cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
Đông Âu. Đây là tổn thất chưa từng có trong phong trào cộng sản, cơng nhân quốc
tế và chủ nghĩa xã hội. Vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa đã bị suy yếu.
Hệ thống hai cực Yanta đứng đầu là Xô - Hoa Kỳ sụp đổ hồn tồn. Giờ
đây trên thế giới chỉ cịn lại đơn cực là Hoa Kỳ tuy có thể khơng kéo dài song từ
sau Chiến tranh Lạnh vai trò chi phối của Hoa Kỳ là rất đáng kể. Cùng với sự ổn

8


định của châu Âu trong thời kỳ tái thống nhất và đẩy mạnh liên kết cũng như sự
phục hồi của Nhật Bản sau hơn một thập kỷ kéo dài, sự phát triển và nổi lên của
một số nước và khu vực đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN… nền
kinh tế và chính trị thế giới đang thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng đa cực.
Trật tự thế giới đang hình thành khơng phải bằng một sự áp đặt của một nước hay
nhóm quốc gia nào mà bằng chính sự thừa nhận lẫn nhau những giá trị chung về tự
do, dân chủ, hịa bình và phát triển.
Tuy nhiên những thách thức: Chủ nghĩa khủng bố và tội phạm xuyên quốc
gia, sự suy giảm mơi trường tồn cầu mà điển hình là ơ nhiễm kèm theo hậu quả
trái đất nóng lên. Các nguồn tài nguyên suy giảm nhất là tài ngun khơng có khả
năng tái sinh, sự mất đi tính đa dạng sinh học, tốc độ đơ thị hóa và vấn đề dân số,

các bệnh dịch và nạn nghèo khổ ở các nước đang phát triển đe dọa sự phát triển
bền vững. Tất cả những thách thức này đã làm tăng nhu cầu hợp tác quốc tế. Các
nước muốn phát triển thì phải hợp tác để có thể cùng nhau giải quyết những vấn đề
tồn cầu mà khơng một nước nào trên thế giới có thể tự giải quyết được.
Thế giới đang chuyển sang một kỷ nguyên phát triển mới dựa trên những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Với những công
nghệ mũi nhọn như công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ NANO… Đây là cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư mà
trước hết là tin học hóa. Đây là cuộc cách mạng mang tính đan xen nhiều ngành
khoa học, nhiều lĩnh vực, liên quan đến mọi yếu tố của lực lượng sản xuất, đến
mọi mặt của sản xuất xã hội và hoạt động kinh tế, làm thay đổi toàn diện và cải tạo
toàn diện đời sống nhân loại và sản xuất. Có thể nói loài người đang bước sang kỷ
nguyên phát triển mới, kỷ nguyên kinh tế tri thức và văn minh hậu công nghiệp.
Tạo ra diện mạo mới của kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết giữa
các quốc gia, khu vực hình thành nên nền kinh tế tri thức tồn cầu. Những tiến bộ
về khoa học và cơng nghệ và tác động của chúng đối với kinh tế thế giới, đặc biệt
là kinh tế các nước lớn trong đó có Hoa Kỳ.
Sự phát triển vơ cùng mạnh mẽ của kinh tế tri thức diễn ra chủ yếu ở các
nước tư bản phát triển mà Hoa Kỳ là một trong những cường quốc tư bản chủ
nghĩa của thế giới. Có thể nói sự thay đổi của tình hình thế giới phụ thuộc vào sự
thay đổi tình hình các nước đang phát triển trong đó Hoa Kỳ giữ vai trị quan trọng
Tồn cầu hóa kinh tế, tự do hóa thương mại đã trở thành xu thế lớn nhất của
thế giới về kinh tế vào cuối thế kỷ XX. Không một xu thế nào của sự phát triển
kinh tế thế giới được biết đến nhiều như tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra hiện
nay, với những đặc điểm nổi bật là sự lưu chuyển tự do ngày càng tăng các dịng
hàng hóa, dịch vụ, vốn, cơng nghệ, lao động. Sự hình thành các mạng lưới sản
xuất quốc tế với vai trị chi phối các cơng ty xun quốc gia, sự cạnh tranh giữa
các quốc gia và khu vực trong việc giành ưu thế của tồn cầu hóa và chiếm lĩnh

9



các vị trí mới trong nền kinh tế thế giới. Sự hình thành các định chế quốc tế ở
nhiều cấp độ… Đó là tiêu điểm cho việc xem xét mọi vấn đề phát triển trên bình
diện quốc gia và quốc tế. Vấn đề hiện nay khơng phải là xem tồn cầu hóa như
một xu hướng, vì thực tế nó đang diễn ra, mà là sự phát triển phức tạp với nhiều
mâu thuẫn của nó. Nó là xu hướng phát triển mang tính chất tất yếu của thời đại,
địi hỏi các nước phải tìm cách thích nghi. Nó tác động khơng chỉ về kinh tế mà
cịn cả về chính trị, xã hội, an ninh, quan hệ quốc tế. Có thể nói chiến lược đối
ngoại hiện nay là chiến lược toàn cầu hóa.
Các nước đều biết rằng cách mạng khoa học – cơng nghệ, sự phát triển kinh
tế tri thức, tồn cầu hóa kinh tế khơng chỉ tạo ra những khả năng, địa bàn rộng lớn
cho sự phát triển kinh tế mà cịn dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột. Đó là những
cuộc cạnh tranh gay gắt phức tạp, những chấn động lớn về kinh tế, những biến
động về thị trường, về cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng, những thay đổi đột
ngột về tương quan lực lượng kinh tế, chính trị trên thế giới. Để vạch ra chiến lược
đối ngoại, các nước đều nỗ lực tối đa trong việc dự báo những biến động của kinh
tế thế giới đặc biệt là nước lớn và đầy tham vọng như Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vừa là đối
thủ cạnh tranh lớn nhất, vừa là thị trường lớn nhất và vừa là đối tác lớn nhất của
các nước lớn trong đó có Trung Quốc.
Về kinh tế trong chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ, nhân tố Trung Quốc –
xét riêng trên lĩnh vực kinh tế - có một vị trí rất quan trọng. Trung Quốc là một thị
trường lớn với khoảng 1,3 tỷ dân, là nước hơn 20 năm qua có tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế cao nhất thế giới, trong vài ba thập kỷ tới sẽ trở thành một trong những
cường quốc có nền kinh tế lớn nhất thế giới.
EU đang là một siêu cường kinh tế. Họ không thua kém Hoa Kỳ về GDP,
chỉ số nhập khẩu, nhưng về vốn sẽ thua kém Hoa Kỳ và nhiều mặt, đặc biệt là
khoa học – cơng nghệ
Nhật Bản trong vài chục năm tới khó trở lại thời kỳ tăng trưởng kinh tế như
những năm 60, 70 thế kỷ XX. Song vẫn là người khổng lồ về kinh tế, vẫn là một

trong 3 trụ cột của kinh tế thế giới, có vai trị đặc biệt quan trọng trong khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương.
Nga cũng được coi là nhân tố quan trọng trên bản đồ kinh tế thế giới khi
các nước hoạch định chiến lược nhất là các nước lớn như Hoa Kỳ. Mặc dù trong
thời gian trước mắt Nga không thể khắc phục hết những khó khăn để trở thành một
siêu cường kinh tế, song tiềm năng về khoa học và công nghệ, về tài nguyên, lãnh
thổ, con người là vô cùng lớn. Và theo thời gian địa vị kinh tế của Nga chắc chắn
tăng lên.
Khơng ai có thể phủ nhận vai trị to lớn của khoa học kỹ thuật đặc biệt
trong thời đại ngày nay khi mà những thành tựu về khoa học kỹ thuật tạo nên
những bước biến đổi không ngừng làm thay đổi bộ mặt xã hội. Trong bối cảnh tài

10


nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm các nước tranh giành nhau tài nguyên
đặc biệt là tài nguyên chất xám. Các nước lớn đang cố nắm giữ thật nhiều tài
nguyên chất xám này để tạo thế chi phối sự vận hành của nền kinh tế thế giới và
tất nhiên chi phối lớn đến cục diện chính trị thế giới.
Tồn cầu hóa với những cơ chế do những tập đồn lớn trên thế giới chi
phối, một mặt tạo ra cơ hội lớn cho các quốc gia ở Châu Á- Thái Bình Dương, mặt
khác cũng tác dụng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của khu vực này. Chẳng
hạn như nạn đầu cơ, sự phát triển của những nhân tố “ảo” của sự tăng trưởng kinh
tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 – 1998 chứng tỏ rằng trong cơ chế tồn
cầu hóa, những biến động, rối loạn kinh tế có thể xảy ra bất cứ lúc nào kéo theo
những hậu quả nghiêm trọng về chính trị xã hội, có thể làm thay đổi cục diện
chính trị thế giới.
Cục diện chính trị thế giới
Chính trị là biểu hiện tập trung lợi ích kinh tế, vì thế nó có vai trị to lớn
trong việc hoạch định chiến lược đối ngoại các nước trên thế giới với biểu hiện là

những chính sách đối ngoại. Từ sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên xô sụp đổ, tương quan lực lượng quốc tế và trật tự thế giới thay đổi căn bản.
Bối cảnh đó khiến các nước trên thế giới phải thay đổi hoặc điều chỉnh chiến lược
đối ngoại của mình và theo đó các chính sách đối ngoại cũng thay đổi hoặc điều
chỉnh.
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới hai cực tan rã, cục diện thế giới
và cấu trúc quyền lực thế giới thay đổi sâu sắc và được sắp xếp lại. Thế cân bằng
chiến lược trên phạm vi toàn cầu đã thay đổi. Chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Hoa
Kỳ đã chi phối mạnh mẽ đời sống quan hệ quốc tế thế cân bằng chiến lược chuyển
hướng có lợi cho Hoa Kỳ và phương Tây và bất lợi cho các nước cách mạng theo
chủ nghĩa xã hội. Trật tự thế giới đang trong q trình hình thành, khơng phải là
một cực duy nhất do Hoa Kỳ lãnh đạo, nhưng cũng không phải là đa cực như là
một sự phân bố công bằng về sức mạnh. Và các nước lớn ngày càng có vai trò
mạnh mẽ trong việc chi phối quan hệ quốc tế hiện đại vừa kiềm chế nhau vừa hợp
tác và cạnh tranh khốc liệt với nhau.
Trước và sau Chiến tranh Lạnh các nước lớn vẫn có vai trị chi phối tình
hình quan hệ quốc tế. Nhất là Hoa Kỳ - một cường quốc có tiềm lực kinh tế, quân
sự, khoa học kỹ thuật … hùng mạnh, chưa có lực lượng nào có thể đương đầu với
Hoa Kỳ. Những nước chủ nghĩa xã hội cịn lại đang là mục tiêu tấn cơng của Hoa
Kỳ thơng qua hoạt động “diễn biến hịa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa của các nước này.
“Sự kiện 11/9/2001 ở Hoa Kỳ đã làm cho tình hình thế giới có nhiều biến
đổi sâu sắc. Hoa Kỳ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu, lợi dụng chống khủng bố,
tự cho mình quyền can thiệp, tấn cơng bất cứ quốc gia nào bị Hoa Kỳ coi là không

11


thân thiện hoặc liên quan đến khủng bố. Có thể nói Hoa Kỳ đang vẽ lại bản đồ địa
- chính trị thế giới, sắp đặt một thế giới đơn cực do Hoa Kỳ lãnh đạo sau Chiến

tranh Lạnh”4.
Các dân tộc điều chỉnh các chính sách đối ngoại của mình vừa đảm bảo lợi
ích quốc gia – dân tộc vừa góp phần đấu tranh kiềm chế bớt quyền của Hoa Kỳ.
Chính vì thế mà nhiều tổ chức khu vực và thế giới phát triển lớn mạnh hơn như
EU, ASEAN…
Sự thay đổi vị thế cạnh tranh kinh tế của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: Vị thế và chính sách của một hoặc một
số nước lớn trong khu vực ln đóng một vai trò đặc biệt quan trọng hợp tác kinh
tế ở khu vực đó. Ở Châu Á- Thái Bình Dương chúng ta vẫn biết vai trị đó thuộc
về Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tuy nhiên sự nổi lên của Trung Quốc hiện nay đã tạo ra
nhiều thay đổi trong khu vực.
Mặc dù hiện tại Trung Quốc mới chỉ chiếm 3,5% GDP và 4% thương mại
thế giới nhưng sức mạnh tiềm năng của đất nước khổng lồ này, nhất là sau khi
nước này tham gia WTO sẽ tác động mạnh tới chiều hướng phát triển của tồn khu
vực. Các nhà phân tích của Lehmann Brothers còn khẳng định: “Trung Quốc đang
nổi lên là một cực tăng trưởng quan trọng, không chỉ đối với châu Á, mà còn đối
với cả thế giới. Nếu phân tích theo PPP thì Trung Quốc đã chiếm 10% GDP thế
giới đứng thứ 2 chỉ sau Hoa Kỳ. Nếu tốc độ tăng trưởng 6% - 9% thì Trung Quốc
sẽ vượt Nhật Bản và châu Âu trong việc góp phần vào tăng trưởng kinh tế thế giới
ngay trong năm nay 2008”5. Dự báo khác cho rằng đến năm 2020 tỷ trọng thương
mại và sản lượng của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới sẽ gia tăng gấp đôi và
kim ngạch thương mại sẽ vượt Nhật Bản và vượt cả kim ngạch thương mại của 7
nền kinh tế châu Á khác (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Malaysia,
Inđônêsia và Thái Lan)6.
Trung Quốc hiện đang trở thành đối thủ cạnh tranh rất mạnh mẽ của các
nước ASEAN về cả sản phẩm xuất khẩu dùng nhiều lao động và các mặt hàng
điện tử trên thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản. Chẳng hạn trong thời kỳ vừa qua, thị
phần của Đông Á trong nhập khẩu của Nhật Bản tăng lên từ 30% lên 41% nhưng
Trung Quốc đã chiếm hết phần tăng này. Thị phần các mặt hàng may mặc bằng sợi
nhân tạo của Trung Quốc ở thị trường Nhật Bản tăng từ 59,1% năm 1996 lên

80,4% năm 2000, trong khi thị phần của Việt Nam, Thái Lan, Inđônêsia, Philippin
và Malaysia đã giảm chỉ còn tổng cộng 5,5%7. Là một cường quốc kinh tế chính
4

Nguyễn Xuân Sơn – Nguyễn Văn Du (2006), Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt
Nam trong hai thập niên đầu thếk kỷ XXI, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, trang 39.
5
Nguồn WTO, www Geographic. Org.
6
Mari Pangestu, Trung Quốc và WTO – Các thách thức và lựa chọn cho ASEAN, Diễn đàn phát triển châu
Á lần 4, Seoul, 4 - 5/11/2002, Nguồn WTO, www Geographic.Org.
7
Nguyễn Xuân Sơn – Nguyễn Văn Du, sđd, trang 49.

12


trị đang lên, rõ ràng Trung Quốc sẽ gây ra một số xáo động cho các mẫu hình khu
vực đã xác lập. “Ra nhập WTO là tiếng chuông mới nhất và vang xa nhất báo hiệu
sự xuất hiện của Trung Quốc quyết định xem liệu họ có thành cơng trong một trật
tự mới hay không, một trật tự mà châu Á sẽ ngày càng tập trung quanh Trung
Quốc”8.
Nhật Bản là cường quốc kinh tế ở Đông Á đang đứng trước những thách
thức gay gắt để duy trì được vai trị này. Khi những thách thức bên trong và bên
ngồi ln thường trực.
Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất của các nước Đơng Nam Á và thật
khó hình dung là Đơng Nam Á có thể tìm được thị trường nào thay thế cho thị
trường Hoa Kỳ. Chiến lược và chính sách của Hoa Kỳ ln ln vẫn là đóng chặt
vị thế của mình ở châu Á – Thái Bình Dương nói chung và Đơng Nam Á nói
riêng. Vì vậy bất kỳ một sự hợp tác kinh tế khu vực nào muốn loại Hoa Kỳ ra

ngoài cuộc chơi đều gặp rất nhiều trở ngại. Trong khi đó đang xuất hiện xu hướng
chạy đua giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản trong việc thiết lập các hiệp định tự do hóa
thương mại song phương với các đối tác châu Á dẫn đến sự cạnh tranh của chính
các nước này trong việc giành được các ưu đãi thương mại.
Những nhân tố quốc tế trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định chính
sách đối ngoại các tất cả các nước dù lớn hay nhỏ, nhất là một nước như Hoa Kỳ
thì điều này có ảnh hưởng rất lớn.
1.2.2. Tình hình Hoa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh.
Tình hình trong Hoa Kỳ có nhiều thay đổi sâu sắc tác động tới việc hoạch
định và triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ qua các đời tổng thổng Hoa
Kỳ. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ qua các đời tổng thống cũng khơng có
những thay đổi cơ bản, nếu có thì chỉ là cách tiến hành mà thơi. Một đặc điểm
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là vừa có tính liên tục, vừa có tính gián
đoạn, những điều chỉnh mang tính tình huống đều phụ thuộc vào tình hình trong
nước và thế giới trong đó tình hình trong nước là vơ cùng quan trọng.
Can dự vào Irắc 4 năm qua đã làm cho những tình cảm của cộng đồng thế
giới đối với Hoa Kỳ và vị trí của Hoa Kỳ trên thế giới ngày càng giảm sút. Cuộc
chiến tranh Irắc làm giảm đi lòng tin của người dân nhiều nước vào giá trị của Hoa
Kỳ. Tại Irắc ngày càng gia tăng các cuộc xung đột, những thiệt hại về người và
của cho qn đội chiếm đóng khơng ngừng được tăng lên. Sự sa lầy của Hoa Kỳ ở
chiến trường Irắc không chỉ làm giảm vai trò của Hoa Kỳ trên trường quốc tế mà
còn làm cho kinh tế Hoa Kỳ ngày càng sa sút.
Về quân sự, Hoa Kỳ không phát huy được sức mạnh của mình vì sức mạnh
quân sự Hoa Kỳ tuy lớn mạnh nhưng lại được sử dụng quá phân tán và quá tải vào
8

Báo nhân dân ngày 15/9/1999, TTXVN.

13



rất nhiều các hoạt động can thiệp vũ trang ở nước ngồi trong khi Hoa Kỳ vẫn
khơng ngăn chặn được việc phổ biến vũ khí hạt nhân.
Vừa bước sang thế kỷ XXI Hoa Kỳ đã chịu tác động lớn trước cuộc tấn
công khủng bố 11/9. Chống khủng bố đã trở thành mục tiêu chiến lược hàng đầu ít
nhất trong vài thập kỷ tới. An ninh quân sự trở thành trụ cột số một của Hoa Kỳ kể
từ sau sự kiện này.
Hoa Kỳ đang tìm cách chi phối tình hình quốc tế và duy trì vai trị siêu
cường lâu dài của mình. Sau một thời gian dài thay đổi cơ chế quản lý, cơ cấu kinh
tế và sớm nắm bắt được cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới khởi đầu mạnh
mẽ từ đầu những năm 80, kinh tế Hoa Kỳ đang trải qua chu kỳ phát triển dài nhất
trong thời hịa bình (từ tháng 3/1991).
Từ tình hình an ninh khơng ổn định Hoa Kỳ tiếp tục tăng cường liên minh
quân sự ở hai hướng Đông Tây của lục địa Âu, Á. Tất cả đều nhằm phục vụ cho bá
quyền của Hoa Kỳ ở các châu lục trên thế giới của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ trong tình
hình mới của thế giới đã khơng cịn coi Nga và Trung Quốc là đối thủ trực tiếp
trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX nữa mà là đối tượng cần kiềm chế, đồng thời tìm
kiếm hợp tác với nhau trong cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố.
Hoa Kỳ chủ trương tiếp tục duy trì ưu thế hải quân, đồng thời phát triển
không quân chiến lược. Trong tư duy chiến lược quân sự của Hoa Kỳ, hải quân
phải giữ vai trò hỗ trợ các hoạt động của khơng qn, cịn lục qn bảo đảm khơng
qn nội địa.
Thay đổi chính sách liên kết liên minh, trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và
ngay cả ở những thập niên đầu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Hoa Kỳ chủ
trương xây dựng các đồng minh ổn định lâu dài như liên minh Hoa Kỳ - Anh, Hoa
Kỳ - Nhật, Hoa Kỳ - Hàn Quốc… Nhưng từ sau sự kiện 11-9 họ đã điều chỉnh lại
chủ trương trên. Trong khi vẫn duy trì những mối quan hệ đồng minh truyền
thống, Hoa Kỳ còn chú trọng thiết lập các liên minh tạm thời, dựa trên những lợi
ích chung để cùng ứng phó với những khủng hoảng gặp phải. Hiện nay,
Washington đã lập được những liên minh lớn chống khủng bố bao gồm hơn 100

nước.
Sau Chiến tranh Lạnh bối cảnh Hoa Kỳ có nhiều biến động, trong nội bộ
Hoa Kỳ diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt. Sau Chiến tranh Lạnh tuy vai trị
của Hoa Kỳ khơng bị thách thức như xưa, Hoa Kỳ lại vừa thắng trong cuộc chiến
tranh vùng vịnh 1991, nhưng kinh tế Hoa Kỳ chịu nhiều tổn thất nặng nề và đi
xuống. Các nội bộ tranh cãi về đường hướng phát triển của Hoa Kỳ và được giải
quyết dần dần qua các đời tổng thống Hoa Kỳ.
Chính trị Hoa Kỳ bất ổn định nhất là khi thất bại trong chiến tranh Irắc, sự
thất bại của các lực lượng bảo thủ mới trong giới cầm quyền Hoa Kỳ trong cuộc
thập tự chinh để phổ biến những “giá trị dân chủ Hoa Kỳ” ra toàn thế giới bằng

14


chính sách bá quyền đơn phương và chiến lược “đánh đòn phủ đầu” chống lại bất
cứ nước nào mà Hoa Kỳ coi là “không theo Hoa Kỳ”. Điều này đã thể hiện rõ
trong cuộc chiến Irắc của Hoa Kỳ khiến cho nhân dân Irắc lâm vào đau khổ với
cuộc sống ln trong tình trạng bất ổn. Các nước Ả - Rập có chủ trương thân Hoa
Kỳ nhưng sau chiến tranh Irắc đã xa lánh Hoa Kỳ. Do Hoa Kỳ xem cuộc chiến
tranh Irắc là tiêu điểm của chính sách chống khủng bố quốc tế sau sự kiện
11/9/2001 nên thất bại của nó kéo theo thất bại của Hoa Kỳ trong cuộc chiến
chống khủng bố.
1.3. Vị trí của Trung Quốc trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
“Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thiết lập trên cơ sở sức mạnh tồn diện
về quốc phịng, an ninh, kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ cao đặc biệt nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của vấn đề an ninh”9.
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc là một bộ phận quan
trọng trong chính sách đối ngoại chung của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ quan tâm đặc biệt
đến khu vực châu Á –Thái Bình Dương, Trung Quốc lại có vai trò chủ chốt trong
các vấn đề an ninh, kinh tế… ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và

của thế giới nói chung. Đây là yếu tố quyết định sự ưu tiên trong việc hoạch định
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Trên thực tế, Trung Quốc có vai trị rất lớn trong mọi vấn đề của khu vực,
Hoa Kỳ muốn làm bá chủ khu vực không thể bỏ qua yếu tố ảnh hưởng Trung
Quốc. Là một nước lớn và có mức độ can thiệp cao đến các vấn đề an ninh, sự lựa
chọn con đường phát triển của Trung Quốc có ý nghĩa quyết định đến hịa bình và
ổn định của khu vực, và tất nhiên ảnh hưởng lớn tới tình hình thế giới. Vì vậy Hoa
Kỳ - một nước khơng muốn một nước nào nổi lên đe dọa vị trí của mình thì Trung
Quốc đương nhiên vơ cùng quan trọng với từng bước đi ngoại giao của Hoa Kỳ.
Mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ là bảo vệ và duy trì địa vị chủ đạo thế giới
của siêu cường duy nhất. Bảo vệ và mở rộng lợi ích chiến lược và lợi ích kinh tế ở
các nơi trên thế giới, tiếp tục phổ biến chế độ chính trị của Hoa Kỳ sang các nước
trên thế giới. Cùng với việc sức mạnh tổng hợp của Trung Quốc ngày càng tăng
lên thì vị trí của Trung Quốc càng được nâng cao trong chiến lược tồn cầu của
Hoa Kỳ. Trong đó các chính sách đối ngoại là những thể hiện cụ thể vai trò quan
trọng của Trung Quốc trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Trên bình diện quốc tế, với diện tích lớn thứ 3 thế giới và dân số chiếm gần
1/6 dân số toàn thế giới. Đối với Hoa Kỳ, Trung Quốc là một thị trường tiêu thụ và
đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là bạn hàng lớn nhất
của Trung Quốc (tiếp sau là EU và Nhật Bản), Trung Quốc là nơi thu hút vốn đầu

9

Lê Văn Mỹ (2007), Quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ sau đại hội XVI ĐCS Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu
Trung Quốc, Số 5/ 2007, Trang 28.

15


tư trực tiếp nước ngoài đứng thứ hai thế giới (sau Hoa Kỳ) và là đối tượng thương

mại lớn của Hoa Kỳ.
Nhờ chính sách cải cách kinh tế và mở cửa, từ thập niên 1990 Trung Quốc
đã vươn lên mạnh mẽ và được coi là một cường quốc kinh tế ở Đông Bắc Á.
Những thành tựu kinh tế cho phép Trung Quốc thực hiện nhiều tham vọng và mục
tiêu trên nhiều lĩnh vực khác nhau và ở mức độ nhất định sẽ tác động trực tiếp đến
các vấn đề quốc tế trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy khơng một chính quyền
Hoa Kỳ nào khơng coi Trung Quốc là “kẻ cạnh tranh và đối thủ tiềm tàng trong
khu vực”. Các học giả Hoa Kỳ cũng nhận xét “sự trỗi dậy của Trung Quốc là một
trong bốn thách thức lớn được đặt lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự
của các chính quyền Hoa Kỳ”10.
Trong lĩnh vực quân sự, những thành tựu tăng trưởng kinh tế đã tạo điều
kiện cho Trung Quốc tăng cường ngân sách quốc phịng, thực hiện q trình hiện
đại hóa qn đội từ hai thập kỷ qua. Chương trình hiện đại hóa qn đội của Trung
Quốc bao gồm việc trang bị những loại vũ khí tiên tiến, phần lớn là mua của Nga.
Ngồi ra, Trung Quốc xây dựng hải quân thành một lực lượng hiện đại trên biển
kết hợp các phương tiện vũ khí hạt nhân, và thường ưu tiên cho các cuộc đọ sức kỹ
thuật thơng tin cùng vũ khí thế hệ mới. Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu và phát
triển hệ thống tên lửa đạn đạo, thử nghiệm tên lửa phá hệ thống phòng thủ để đánh
bại bất cứ hệ thống phòng thủ nào của Hoa Kỳ.
Sự lớn mạnh của Trung Quốc trên trường quốc tế khiến bất kỳ một chính
quyền Hoa Kỳ nào cũng khơng thể làm ngơ vai trị chiến lược của Trung Quốc,
không thể không tôn trọng vai trị nước lớn của Trung Quốc và duy trì lợi ích kinh
tế của Hoa Kỳ. Song có thể trong tương lai chính quyền mới sẽ cố gắng làm giảm
vai trị của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ.
Đối với Hoa Kỳ, cái lợi lớn nhất của việc Trung Quốc gia nhập WTO chính
là việc mở cửa thị trường đơng dân nhất thế giới (hơn 1,2 tỷ dân) với sức mua
chưa được thỏa mãn, giàu triển vọng về thương mại và đầu tư này. Vì thế thời kỳ
Tổng thống Bush II Hoa Kỳ ra sức ủng hộ việc Trung Quốc gia nhập WTO.
Song song đó Hoa Kỳ tăng cường truyền bá các tư tưởng tự do, dân chủ của
Hoa Kỳ vào Trung Quốc. Đồng thời Hoa Kỳ nhấn mạnh đến chính sách phịng

ngừa, kiềm chế và có thái độ cứng rắn với Trung Quốc. Vấn đề nhân quyền, Tây
Tạng, Đài Loan và “Thuyết về mối đe dọa của Trung Quốc” sẽ được sử dụng như
cái cớ để Hoa Kỳ can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Trung Quốc, chia rẽ mối
quan hệ của Trung Quốc với các nước xung quanh, làm ngăn ngừa, hoặc ít ra chặn
bước tiến của Trung Quốc.

10

Nguyễn Thị Thanh Thủy (2003), Chính quyền Bush và những thách thức từ Đông Bắc Á, Nghiên cứu
quốc tế, số 69/2003, Trang 67.

16


Với Hoa Kỳ, Trung Quốc là một nước đang đi lên, kinh tế ngày càng vững
mạnh, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho quân sự ngày càng phát triển lại đang
trong q trình hiện đại hóa qn đội. Hoa Kỳ luôn khẳng định Trung Quốc là
nhân tố thách thức Hoa Kỳ trong ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Hoa Kỳ
lãnh đạo một phần là do sự khác biệt về ý thức hệ, chính trị đã làm cho khơng ít
người Hoa Kỳ coi Trung Quốc là “thành lũy cuối cùng” của chủ nghĩa cộng sản và
là đối thủ tiềm tàng của Hoa Kỳ. Tuy nhiên Hoa Kỳ cũng không muốn gây đối đầu
căng thẳng hoặc khả năng có thế xảy ra xung đột với Trung Quốc. Trong lúc đó,
Trung Quốc ln kêu gọi xây dựng lịng tin, bình đẳng cùng có lợi. Hoa Kỳ cũng
khó kiếm cớ để khiêu khích với Trung Quốc. Sau sự kiện 11/9/2001 hai bên mong
muốn mở rộng quan hệ hợp tác trên lĩnh vực chống khủng bố, chống phổ biến vũ
khí sát thương hàng loạt…Thấy được vai trị to lớn của Trung Quốc đối với Hoa
Kỳ có thể dễ dàng giải thích nguyên nhân tại sao Hoa Kỳ coi trọng việc hoạch
định chiến lược ngoại giao đối với Trung Quốc.
Hịa bình và ổn định phát triển là mục đích cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều
hướng tới, đồng thời nó cũng là yếu tố then chốt để hỗ trợ nhau, tránh xung đột.

Để duy trì sự ổn định của hệ thống thế giới hiện nay, Hoa Kỳ rất cần đến sự hợp
tác trong đó vị trí của Trung Quốc là quan trọng nhất. Trung Quốc là một nước ở
khu vực, cũng là nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới, có vai trị nhất định trong
việc bảo đảm ổn định đời sống chính trị thế giới. Mặt khác, Trung Quốc đang trên
đà phát triển mạnh về kinh tế, là thị trường hết sức quan trọng đối với Hoa Kỳ.
Chính vì vị trí quan trọng của Trung Quốc nên việc hoạch định chính sách đối
ngoại của chính quyền Hoa Kỳ đối với Trung Quốc luôn được ưu tiên trong chính
sách đối ngoại chung của Hoa Kỳ.

17


CHƯƠNG 2
CHÍNH SÁCH CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC TỪ SAU
CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY (1991 – NAY)
Nếu như quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh chủ
yếu liên quan đến an ninh hai bên thì sau Chiến tranh Lạnh, phạm vi mối quan hệ
Hoa Kỳ - Trung Quốc rộng rãi và phức tạp hơn nhiều, nhất là khi Hoa Kỳ điều
chỉnh chiến lược tồn cầu trên thế mạnh. Chính vì thế việc hoạch định chính sách
đối ngoại đối với Trung Quốc ln được các chính quyền Hoa Kỳ quan tâm.
Quan hệ giữa Hoa Kỳ - Trung Quốc và việc hoạch định chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ trong chiến tranh đến nay đều dựa trên
cơ sở của ba thông cáo chung Hoa Kỳ - Trung Quốc vào các năm 1972, 1979, và
1982. Nhưng sau Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ cũng có những điều chỉnh trong chính
sách đối ngoại với Trung Quốc cho phù hợp với tình hình mới.
2.1. Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc từ sau Chiến tranh
Lạnh đến trước sự kiện 11/9/2001.
Thời kỳ đầu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, trong nội bộ Hoa Kỳ xuất
hiện mâu thuẫn tương đối lớn trong việc lựa chọn chính sách chiến lược đối với
Trung Quốc. Có hai quan điểm trái ngược nhau: thứ nhất, Trung Quốc là một nước

có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và đang hiện đại hoá quân sự, đã trở thành mối
đe doạ lớn đối với Hoa Kỳ, do đó cần kiềm chế Trung Quốc. Thứ hai, với một
nước Trung Quốc đang phát triển mạnh, việc áp dụng chính sách kiềm chế
Trung Quốc là khơng phù hợp với lợi ích quốc gia cơ bản của Hoa Kỳ.
Trên thực tế thời kỳ đó, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đã nhận
thức rằng, chính sách cơ lập, kiềm chế vừa khơng phù hợp với lợi ích của Hoa Kỳ
vừa khơng khả thi. Nếu thu hút Trung Quốc hội nhập vào hệ thống quốc tế và
“dính líu” vào sự phát triển kinh tế bên trong và bên ngồi thì Hoa Kỳ mới có thể
có được lợi ích kinh tế và ảnh hưởng về chính trị ở những mức độ nào đó. Chính
vì thế, trải qua tranh luận trong thời gian dài, chiến lược tiếp xúc thay thế chiến
lược ngăn chặn đã trở thành lựa chọn cuối cùng của Hoa Kỳ nhằm đối phó với sức
mạnh Trung Quốc ngày càng tăng. Sự thay đổi chiến lược này cũng được thể hiện
ở các chính sách đối ngoại trên từng lĩnh vực của các chính quyền Hoa Kỳ trong
giai đoạn này cụ thể là chính quyền Bush I (1989 – 1992), chính quyền Bill
Clinton (1993 – 2001), chính quyền Bush II (2001). Từ sau sự kiện Thiên An Mơn
1989, chính quyền Bush I đã áp dụng hình thức trừng phạt cơ lập và kiềm chế tồn
diện cả về kinh tế lẫn chính trị đối với Trung Quốc.
Năm 1993, chính phủ B.Clinton đã đánh giá và điều chỉnh lại cách trừng
phạt Trung Quốc không thành công trước đây. Ông cho rằng “một Trung Quốc lớn
mạnh và ổn định đang thực hiện hiện đại hóa và đi đến phồn vinh phù hợp với lợi

18


ích lâu dài của Hoa Kỳ”, đề nghị tiếp xúc toàn diện với Trung Quốc và đề xuất xây
dựng mối quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây dựng Trung Quốc – Hoa Kỳ11.
Trước chuyến thăm Trung Quốc năm 1998 của tổng thống B.Clinton đã phát biểu
quan điểm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc: “Nếu chúng
ta cô lập Trung Quốc, thế giới không những khơng an ninh, mà cịn có thể gặp
nguy hiểm, những cố gắng của chúng ta dành cho khu vực châu Á cũng sẽ bị phá

hoại, và như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đã đoạn tuyệt với một thị trường có
tầm quan trọng bậc nhất thế giới, đồng thời còn phá vỡ sự hợp tác trên vấn đề liên
quan đến các loại vũ khí giết người hàng loạt, cản trở chúng ta tiến lên trong sự
nghiệp thúc đẩy nền dân chủ nhân quyền ở Trung Quốc. Chính vì vậy, Hoa Kỳ
phải giao tiếp với giới lãnh đạo Trung Quốc, giải quyết trực diện những vấn đề
xảy ra và cũng chỉ có như vậy Hoa Kỳ mới có thể tạo ra những ảnh hưởng vào
tương lai của Trung Quốc, mang lại nền hịa bình, an ninh và thịnh vượng cho
nhân dân Hoa Kỳ trong thế kỷ tới”12.
Khi nhậm chức vào tháng 1/2001, Tổng thống Bush II cam kết thực hiện
một chính sách cứng rắn hơn chính sách của hai người tiền nhiệm đối với Trung
Quốc. Khác với chính sách can dự tích cực đối với “đối tác chiến lược” Trung
Quốc của B.Clinton, chính quyền Bush phủ nhận quan hệ đối tác chiến lược với
nước này thay vào đó là khái niệm “đối thủ cạnh tranh chiến lược” số một. Hoa
Kỳ thực hiện chính sách hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc đối với khu vực, triệt
để lợi dụng vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, dân chủ, nhân quyền… nhằm gây áp lực
và kiềm chế Trung Quốc. Vì vậy, những tháng đầu dưới chính quyền Bush II quan
hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc khá căng thẳng. Quan điểm này đã điều chỉnh mối quan
hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc cho đến trước sự kiện 11/9.
2.1.1. Về lĩnh vực kinh tế.
Mở rộng kinh tế là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất để Hoa
Kỳ phát triển quan hệ với Trung Quốc sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Sau khi Liên
Xô tan rã Hoa Kỳ cho rằng họ khơng cịn nhu cầu hợp tác chiến lược với Trung
Quốc nữa, hơn nữa Trung Quốc lại trở thành nước XHCN lớn nhất, do đó cơ sở
quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên mỏng yếu. Song cũng chính lúc đó, sau khi
Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách mở cửa sâu hơn, kinh tế Trung Quốc có những
bước phát triển mạnh, chính là cơ sở mới để Hoa Kỳ phát triển quan hệ với Trung
Quốc. Những năm 90 của thế kỷ XX, Hoa Kỳ liệt kê 10 nước có thị trường mới
phát triển và Trung Quốc đứng đầu trong danh sách đó13. Mặc dù trong giai đoạn
này quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ gặp nhiều trở ngại lớn, nhưng quan hệ thương
11


Thông tấn xã Việt Nam, tài liệu tham khảo đặc biệt hàng ngày, ngày 25/12/2005, trang 5.
Dẫn lại, Đinh Quý Đơ (năm 2000), Chính sách kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương kể từ sau Chiến tranh Lạnh, NXB KHXH, trang 222.
13
Thông tấn xã Việt Nam, tài liệu tham khảo đặc biệt hàng ngày , ngày 2/11/2007, trang 23
12

19


mại vẫn phát triển với tốc độ cao. Từ chính sách kiềm chế, cơ lập Hoa Kỳ đã
chuyển sang chính sách dính líu và tăng cường các quan hệ kinh tế - thương mại vì
lợi ích kinh tế.
Sau Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã tiến hành xóa bỏ những trừng phạt về
kinh tế với Trung Quốc, khôi phục lại các hình thức bn bán, đầu tư, liên doanh
kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung quốc, và không phản đối các tổ chức tài chính quốc
tế cho Trung Quốc vay tiền. Trong nhiệm kỳ đầu của tổng thống B.Clinton, do tập
trung vào tranh cử, Đảng Dân chủ tăng cường cơng kích chính sách hịa giải của
chính quyền Bush I. Vì vậy khi lên nắm quyền, Tổng thống B.Clinton đã thi hành
chính sách cứng rắn đối với Trung Quốc. Tháng 5/1993, Hoa Kỳ tuyên bố gắn
việc gia hạn quy chế tối huệ quốc (MFN) đối với Trung Quốc với việc cải thiện
nhân quyền ở Trung Quốc. Nhưng khi nhận thấy Trung Quốc là một thị trường
đầu tư và xuất khẩu quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế Hoa Kỳ trong bối
cảnh cạnh tranh gay gắt, từ giữa năm 1994, Hoa Kỳ đã thực hiện những chính sách
kinh tế mềm dẻo hơn đối với Trung Quốc. Mặc dù vậy, mối quan hệ giữa vấn đề
nhân quyền với quy chế tối huệ quốc vẫn là vấn đề trung tâm trong chính sách
kinh tế và quan hệ buôn bán của Hoa Kỳ với Trung Quốc.
Nhằm thúc đẩy hơn nữa lợi ích to lớn về kinh tế giữa hai nước, tháng
5/1994 Tổng thống B.Clinton tuyên bố chấm dứt việc gắn vấn đề nhân quyền với

quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc. Quyết định này đã dành được sự ủng hộ
của nhiều nước, đặc biệt là các nhà doanh nghiệp Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nó đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường và mở rộng hơn nữa hợp tác thương
mại kinh tế giữa hai nước, giúp cải thiện và phát triển mối quan hệ Hoa Kỳ Trung Quốc. Sau khi Tổng thống Bush II lên cầm quyền, ông ta luôn coi Trung
Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược”, thái độ với Trung Quốc tương đối cứng
rắn. Nhưng cho dù vậy, Hoa Kỳ vẫn coi Trung Quốc là “đối tác kinh tế”, đồng thời
thể hiện mong muốn phát triển quan hệ này với Trung Quốc.
Việc hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế của Hoa Kỳ đối với Trung
Quốc là một q trình lâu dài và ln được điều chỉnh qua các giai đoạn mở rộng
quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước, đáp ứng lợi ích kinh tế của hai bên.
Cuối tháng 8/1994, Bộ trưởng thương mại và dịch vụ Hoa Kỳ H.Brown tới thăm
Trung Quốc, ông đã tuyên bố rằng, lần đi thăm này sẽ mở đầu một thời đại mới
trong quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ. Đây sẽ là nhân tố quan trọng trong việc giữ
gìn và bảo vệ ổn định ở châu Á. Cũng trong chuyến đi này, hai bên đã đạt được
hiệp định chung về mở rộng hợp tác kinh tế buôn bán, đã ký kết một số hợp đồng
với tổng trị giá 6 tỷ USD.
Sau khi Hoa Kỳ tuyên bố trừng phạt Trung Quốc về vấn đề vi phạm bản
quyền, ngày 11/3/1995 hai nước đã ký Hiệp định về quyền sở hữu tài sản trí tuệ,
giải quyết được một cản trở lớn trong việc trao đổi qua lại về kinh tế và thương

20


mại giữa hai nước. Đặc biệt, về việc xem xét quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ đối
với Trung Quốc đã có những điều chỉnh tích cực. Việc gia hạn quy chế được Quốc
hội Hoa Kỳ xem xét hàng năm, nhưng từ tháng 6/1996 Hoa Kỳ chính thức trao
quy chế đó cho Trung Quốc.
Tháng 6/1998 trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống B. Clinton,
lãnh đạo hai nước đã đạt được những bước phát triển trong quan hệ kinh tế, nhưng
vẫn chưa nhất trí được vấn đề như đảm bảo quy chế tối huệ quốc vĩnh viễn cho

Trung Quốc, tạo điều kiện cho Trung Quốc gia nhập WTO. Đến ngày 15/11/1999,
tại Bắc Kinh, đại diện thương mại Hoa Kỳ Charlene và đại diện thương mại
Trung Quốc Thạch Quảng Sinh đã chính thức ký Hiệp định Thương mại Hoa Kỳ Trung Quốc. Đây là nhân tố tích cực mở đường cho Trung Quốc gia nhập WTO,
cũng như mở cửa thị trường Trung Quốc. Cả hai bên đều cho rằng đây là một hiệp
định mà cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều “thắng lợi”. Về phần mình, Hoa Kỳ đã đạt
được mục tiêu đưa Trung Quốc vào sân chơi chung của thương mại toàn cầu và
chiếm lĩnh được nhiều hơn thị trường Trung Quốc. Ngày 19/9/2000, Quốc hội Hoa
Kỳ thông qua việc dành quy chế tối huệ quốc vĩnh viễn cho Trung Quốc. Sau vụ
va chạm máy bay đầu tháng 4/2001, và một số các vấn đề ngoại giao khác nảy
sinh, các việc hoàn tất vấn đề Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
WTO đã dừng lại. Tuy nhiên, đến chính quyền Bush, Hoa Kỳ nhận thức được tầm
quan trọng của mối quan hệ với Bắc Kinh nên đã bày tỏ ý muốn duy trì mối quan
hệ tốt với Trung Quốc và tích cực phát triển quan hệ kinh tế mậu dịch với Trung
Quốc, ủng hộ Trung Quốc gia nhập WTO. Trong một tuyên bố ông nhấn mạnh:
“Buôn bán Trung Quốc - Hoa Kỳ có lợi cho nhà sản xuất nông nghiệp và các
doanh nghiệp thương nhân Hoa Kỳ, cần duy trì đối tác và hợp tác với Trung Quốc
trong các lĩnh vực hai bên cùng có lợi”14.
Với những chính sách kinh tế ln được điều chỉnh của Hoa Kỳ trong mối
quan hệ với Trung Quốc, hai nước đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong giai
đoạn này.
Bảng 1: Kim ngạch mậu dịch Hoa Kỳ - Trung Quốc

14

Nguyễn Thiết Sơn ( 2002), Hoa Kỳ năm đầu thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 233.

21



×