Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch: Tour Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.55 KB, 21 trang )

HÀ NAM
Khi xe đang di chuyển trên trục đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ
các em sẽ chia sẻ với khách 2 câu chuyện
 Địa danh Quán Gánh – Bánh Giầy
- Vua Quang Trung trên đường thất trận, đã rút lui về
kinh thành thăng long, khi đến địa phận đầu con sơng
nhuệ của huyện Thường Tín ngày nay, qn lính đã hết
lương thực bị dơi vào tình trạng kiệt sức - rất đói và
khát. Những người dân yêu mến vua quang trung thời
bấy giờ họ khơng biết cái gì tiếp tế cho một lượng quân
lính lớn như vậy, họ bèn lấy gạo ra xay và làm nên
những chiếc bánh rất thơm và ngon, do số lượng bánh
quá nhiều nên việc đem ra cho quân lính ăn cũng rất vất
vả, họ bèn lấy những chiếc quang gánh hằng ngày vẫn
sử dụng trong công việc đồng áng để gánh ra cho quân
đội của nhà vua. Từ câu chuyện cảm động ấy, chúng ta
thường gọi vùng đất này với địa danh là quán gánh và đi
kèm với một sản vật cứu đói cho quân đội của nhà vua
nên dân gian gọi kèm quán gánh – bánh giầy.
Tình yêu anh đã dãi bày
Như món bánh giầy mà nàng thích ăn
Nàng ăn nàng thích nàng cười ...
Ơi đơi mơi ấy làm người ngất ngây…


-

Ngày nay bánh giày ngon nhất vẫn là do vũng đất này
làm ra với truyền thống làm nghề lâu năm.

 Làng nghề thêu ren quất động


- Mảnh đất Hà Tây xưa mà nay thuộc về Hà Nội đã từng
đi vào ca dao, hò vè nổi tiếng là một xứ sở nghìn nghề
truyền thống lừng danh cả nước bởi những sản phẩm đa
dạng, bền, đẹp, đậm màu dân dã. Một trong đó là làng
Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, một làng
cổ nằm ven quốc lộ 1A, cách trung tâm thủ đô hơn 20
kilômét về hướng nam.
- Nơi đây từ thế kỷ 17 đã có nghề thêu, có những nghệ
nhân bằng đôi bàn tay khéo léo đã chắt lọc những gì
tinh túy nhất của hồn dân tộc để tạo nên những tác
phẩm rực rỡ, sinh động tô đẹp cho đời.
- Theo ghi chép thì ơng tổ nghề thêu Quất Động cũng như
nghề thêu chung của ba miền bắc trung nam là tiến sĩ
Lê Công Hành, tên thật là Bùi Công Hành, sống ở
cuối đời Trần, đầu đời Lê (khoảng thế kỷ 14), tại làng
Quất Động, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn
Sơn Nam nay thuộc Thường Tín, Hà Nội. Cuối đời
Trần, ông lên đường dự thi vừa lúc quân Minh sang xâm
lược nên khoa thi bị hủy. Ông ẩn náu trong rừng rồi theo
Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh. Cuộc bình Ngơ
thành cơng, ơng được Lê Thái Tổ trọng dụng.Đến đời


Lê Thái Tơng (1423-1442), Bùi Cơng Hành dẫn đầu
đồn sứ bộ đi sứ. Vua nhà Minh muốn thử tài sứ giả
nước Việt bèn cho dựng một lầu cao chót vót rồi mời
ông lên chơi. Rồi rút thang để ông không thể leo xuống
và lệnh trong một tháng nếu ông không tiếp đất an toàn
sẽ bị giam cầm mãi mãi ở Trung Quốc. Đây là một gian
thờ Phật, không để một thứ thức ăn gì ngoại trừ một vại

nước uống cầm chừng. Với niềm tin ở hiền gặp lành,
ngày ngày ông cũng ngồi thiền niệm Phật dưới ban thờ
và nghĩ cách leo xuống. Một hôm, ông thấy một đàn
ong bay lượn phía sau mấy tán lọng che tượng Phật. Lại
gần tìm hiểu thì thấy trên cánh tay của tượng có một vết
rạn, và một con ong đang chui vào đấy. Biết rằng ong
chỉ tập trung ở đâu khi nơi ấy có mật ngọt, ơng liền bẻ
một mảng mà nếm, thì thấy vị ngọt đậm. Thật ra bức
tượng làm bằng chè lam ông ăn dần nhờ thế sống sót.
Ngắm mấy cái lọng đẹp, hoa văn khác lạ, ông nảy ra ý
học lại cách thêu của người Trung Quốc, ông vừa tháo
vừa thêu lại những hoa văn đó. Ngày cuối cùng của
tháng giam hãm, ông kẹp hai cái lọng vào nách và nhảy
xuống đất khơng hề bị một vết thương tích. Vua tơi nhà
Minh quá kinh ngạc và thán phục.
- Khi về nước, ông đã đem cách thêu lọng Trung Quốc
dạy cho người dân quê hương. Nhờ công lao ấy, ông


được phong chúc và được đổi sang họ vua. Hàng chục
làng trong vùng được Lê Công Hành truyền nghề trực
tiếp, theo địa danh thời Nguyễn là các xã Quất Động,
Tam Xá, Vũ Lăng, Hướng Dương và Hương Giai. Năm
xã này dựng chung một đền thờ ông ở thôn Hướng Xá,
gọi là đền Ngũ Xã. Giỗ ông vào ngày 12 thánh Sáu âm
lịch. Cảm ân đức tiến sĩ, nhiều vùng bao gồm cả Hà Nội
đều lấy ngày mất của ông làm ngày giỗ tổ nghề thêu.
- Quất Động cho đến nay đã có nhiều tên tuổi được cả
nước biết tới như cụ Bùi Lê Kính đã từng thêu hồng
phục cho vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương;

Phạm Viết Tương với chân dung Hồ Chủ Tịch và Thái
Văn Bôn với Chân dung vua Thái Lan…
- Học tập cha ông, tuổi trẻ Quất Động vẫn ngày đêm
chăm lo kế thừa và phát huy nghề thêu truyền thống. Ở
đâu cũng thấy các em nhỏ mang theo kim chỉ thêu dù là
ở nhà hay trường. Cịn các phụ nữ, thanh niên thì ln
hăng say miệt mài bên khung thêu. Từng nhóm ngồi
quây quần, chuyện trị rơm rả, trong khi tay và mắt vẫn
đưa đều thoăn thoắt. Với nhiều người, thêu là sinh kế
cũng là nét sinh hoạt văn hóa vui tươi hàng ngày.


A. KHÁI QUÁT HÀ NAM
Lịch sử hình thành
- Cách đây 225 triệu năm toàn bộ vùng đất của Hà Nam, nam định,
ninh bình, thái bình cịn nằm sâu dưới đáy biển. Sau khi có một loạt
các hoạt động địa chất thay đổi đã tạo nên vùng đá vôi của 3 tỉnh
Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình hiện nay.
- Năm 1832 (dưới thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng quyết định bỏ
đơn vị trấn thành lập đơn vị hành chính tỉnh ) từ đó có tỉnh hà nam
Qúa trình phát triển
- Năm 1965, Hà Nam được sáp nhập với tỉnh Nam Định thành tỉnh
Nam Hà.
- Năm 1975, Nam Hà sáp nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam
Ninh,
- Năm 1991 tỉnh Hà Nam được tách ra vì vậy ơng cha ta vẫn có câu
“ khi xưa ba tỉnh một nhà, tinh hoa gộp lại là hà nam ninh, về sau
từ giã ninh bình, chia tay nam định cịn mình hà nam “
- Diện tích: khoảng 8.200km2 – là tỉnh nhỏ thứ 2 cả nước và bằng
1/20 tỉnh lớn nhất cả nước là tỉnh nghệ an…

- Dân số: gần 1 triệu người – trong đó chủ yếu là người kinh cịn lại
là tộc người thiểu số như tày, mường, hoa…
- Tiếp giáp: Ninh bình, thái bình, hịa bình, nam định, hà nội
- Đồn chúng ta về Hà Nam hơm nay vẫn nghe đâu đó những câu
thơ chất chứa bao tình cảm mặn nồng của người dân nơi đây
AI QUA ĐẤT MẸ QUÊ TƠI
DỪNG CHÂN ĐỨNG LẠI MÀ NGHE CÂU HỊ
SƠNG CHÂU NƯỚC CHẢY LỮNG LỜ
CĨ ĐƠI TRAI GÁI TÌNH CỜ TRAO DUN


- Ngoài những câu thơ đầy mộc mạc và ý nghĩa như trên thì bên
cạnh đó người dân Hà Nam lại có những vần thơ rất dí dỏm hài
hước nói về nét văn hóa sinh hoạt của q hương mình.
ƯỚC MƠ LỚN CỦA NGƯỜI HÀ NAM TRỒNG NHIỀU TRE
ĐỂ XÂY CẦU TÕM SO SÁNH VỚI MỘT VÀI ƯỚC KHÁC Ở
CÁC VÙNG LÂN CẬN

B. ĐẶC SẢN
1.
Cá kho tộ :
Nói đến làng Vũ Đại, mọi người đều nhớ tới mối tình Chí Phèo Thị Nở trong tác phẩm để đời của cố nhà văn Nam Cao. Nhưng mảnh đất
ven sơng này cịn nổi tiếng bởi những món ngon thấm đẫm hồn quê như
hồng Nhân Hậu, chuối ngự Đại Hoàng... và đặc biệt là món cá kho.
Nói đến món cá kho, ắt hẳn tất cả các vùng miền trên giải đất hình
chữ S đều biết. Nhưng với cá kho của làng Vũ Đại, hay cịn gọi là làng
Đại Hồng, xã Hịa Hậu, huyện Lý Nhân rất đặc biệt. Cá kho ở đây là
một nghề lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Để có một nồi cá kho
giá trị phải qua rất nhiều công đoạn tuyển chọn và đun nấu nghiêm ngặt
Cá kho ở Đại Hoàng chủ yếu là loại cá trắm. Cá được ướp bằng

riềng, kho trong niêu đất và ăn vào dịp Tết Nguyên đán. Thường thì vào
khoảng thời gian đầu tháng chạp hàng năm, các gia đình ở làng Đại


Hoàng lại được dịp tất bật chuẩn bị củi đun, niêu đất để vào mùa kho cá
Tết.
Ở làng Đại Hoàng, vào dịp tết ông Công, ông Táo, người dân trong
làng đều kho cá để cúng tổ tiên. Theo tập tục thì nhà nào trong làng Đại
Hồng cũng kho cá vào dịp Tết, nó đã trở thành nét văn hóa ẩm thực
truyền thống của bà con nơi vùng quê chiêm trũng này. Người ta cịn
quan niệm, nếu gia đình nào khơng có niêu cá kho riềng vào ngày Tết thì
Tết đó mất to.
Người dân làng Đại Hoàng kho cá bán quanh năm, nếu có đơn đặt
hàng. Nhưng cơ hội để làm ăn trong năm là vào dịp Tết Nguyên đán. Có
những gia đình kho cả tấn cá để bán ra các địa phương lân cận, thậm chí
cả khách du lịch nước ngồi.
Một số cơng đoạn của việc kho cá bắt đầu từ tháng 10 Âm lịch.
Đầu tiên, người dân đi đặt cá ngon ở những cơ sở uy tín để đến đầu
tháng chạp bắt cá về thả vào bể dự trữ trong nhà. Ngoài ra, chuẩn bị các
nguyên liệu, gia vị để kho cá.
Niêu được chọn kỹ từ Thanh Hóa về rồi đem luộc qua nước sôi để
đảm bảo độ rắn chắc và loại bỏ các tạp chất, tăng độ chịu nhiệt khi kho
cá. Củi đun phải cứng, rắn, khi đun có nhiều than, tuyệt đối khơng được
đun bằng củi xoan vì sẽ mất hết hương vị.
Cá dùng để kho là cá trắm đen. Khi mổ cá tuyệt đối không được
làm vỡ mật, mổ xong không rửa, bỏ phần đầu, phần đuôi, chỉ lấy phần
thân cắt khúc, rồi cho thêm các gia vị vào và cịn có thịt ba chỉ và đặc
biệt kiêng nước lã để kho cá mà dùng nước mắm và nước cốt chanh cùng



với nước đường thắng đen lại. Khi kho cá phải rải dưới niêu bằng một
lớp riềng, gừng để chống cháy, tiếp đó cứ một lớp cá lại một lớp riềng,
gừng. Mỗi nồi cá kho phải đun từ 12 - 14 giờ đồng hồ mới đảm bảo chất
lượng – từ cách chọn nguyên liệu cho đến khâu chế biến rất kì cơng nên
khi cá được kho xong thì rất tuyệt vời. Vì vậy du khách khi về đây vẫn
ln nói với nhau rằng “ ai về hà nam hôm nay – ăn miếng cá ấy cho say
lòng người “
2.

Chuối ngự Đại Hoàng

Chuyện kể: vào thời Trần,hàng năm Vua Trần cùng đoàn tuỳ tùng,
văn võ bá quan xuôi thuyền từ Thăng Long về Thiên Trường yết kiến
Thái Thượng Hoàng. Một lần đến ngã 3 Tuần Vường, đoàn thuyền dừng
lại. Dân các làng đổ ra mừng đón. Mọi người ai cũng mang của ngon, vật
lạ ra dâng tiến vua. Có một đơi vợ chồng nơng dân nghèo ở làng Đại
hồng vì khơng có vật gì dâng tiến nên rất lấy làm băn khoăn. May sao
trong vườn nhà còn một buồng chuối nhỏ xinh xắn đã chín, toả hương
thơm ngát, họ bèn chặt hạ, đưa tiến vua với niềm cung kính mong được
nhà Vua cảm thông. Trông thấy buồng chuối nhỏ nhưng rất đẹp, quả
căng trịn, vàng óng, cuống xanh, đầu ruồi có 3 chiếc tua cong đẹp mắt lạ
thường…vua cho gọi vào. Nhà Vua bèn nếm thử, thấy vị ngọt, hương
thơm, càng ăn càng thấy ngon. Vua ban thưởng và truyền cho dân làng
Đại Hoàng nhân rộng loại chuối này để cho thần dân của Ngài khắp nơi
được cùng thưởng thức. Từ đó loại chuối này ở Đại Hoàng được mang
tên Chuối Ngự, lưu truyền đến ngày nay và nổi tiếng khắp nơi. Tuy nhiên
giống chuối này nếu đưa trồng nơi khác Ngài làng Đại Hoàng quả cũng


có hình dáng tương tự nhưng khơng có vị ngon và hương thơm của chuối

Ngự. Chuối Ngự trở thành đặc sản duy nhất ở Đại Hồng mới có.
Những ai muốn thưởng thức chuối Ngự, xin mời về làng Đại
Hoàng nay là Xã Hòa Hậu - Huyện Lý Nhân - Tỉnh Hà Nam để vừa có
thể thưởng thức chuối ngự, vừa có thể thăm lăng mộ Nam cao và được
nghe nhiều câu chuyện hay về "làng Vũ Đại ngày ấy".. nếu như ở nới
khác có chuối tiêu ăn xong rồi tiêu ln thì ở hà nam có chuối ngự ăn
xong rồi ngự luôn.


c. NHÂN VẬT LỊCH SỬ
DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA
CHO TƯỜNG GỐC TÍCH NƯỚC NHÀ VIỆT NAM
Nhiều người cho rằng sử ta không bằng sử tàu, chúng ta không
biết lưu giữ lại để cho hậu thế tìm hiểu và yêu thêm truyền
thống văn hóa của đất nước. Quan điểm đó là hoàn toàn sai
lầm, các triều đại của chúng ta đã lưu giữ rất nhiều nhưng khi
quân nhà hán và qn minh sang với chính sách xâm lược thì
chúng đã đốt hết những kho thư tịch của ta và vì vậy chúng ta
cịn xót lại số ít những cuốn sách cổ.
1.

VUA LÊ HOÀN

Lê Đại Hành ( 941 – 1005) là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê.
Phá tống bình chiêm
Có 5 vợ, 11 con trai và 1 con ni.
trị vì từ 980 đến 1005. Trong lịch sử Việt Nam, Lê Hồn khơng chỉ
là một vị hồng đế có những đóng góp lớn trong chống quân
Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền
độc lập dân tộc mà cịn có nhiều cơng lao trong sự nghiệp ngoại giao,

xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo
tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Cơng Uẩn có đủ khả năng dời
đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển
lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội, thủ đơ hiện tại của Việt Nam.
Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn được một vị quan là Lê Đột nhận
về nuôi. Lớn lên ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được
nhiều chiến công, Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến


năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất
nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hồn có cơng lao trong cuộc đánh dẹp và
được giao chức vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy mười đạo quân),
tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy
đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ơng mới 27 tuổi.
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát
hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngơi vua. Lê Hồn trở
thành Nhiếp chính, tự do ra vào cung cấm. Các đại thần thân cận của
Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ cùng
tướng Phạm Hạp nổi dậy chống lại Lê Hồn nhưng bị Lê Hồn nhanh
chóng đánh dẹp, ba người đều bị giết. Phị mã Ngơ Nhật Khánh bỏ trốn
vào nam, cùng vua Chiêm Thành với hơn nghìn chiến thuyền định đến
đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý
định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết
thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng: "...Nếu quy
phục thì ta tha cho, bằng trái lệnh thì ta quyết đánh..." Trước tình hình
đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều
thần tơn Lê Hồn lên làm vua. Lê Hồn lên ngôi lấy tôn niên hiệu là
Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đơ tại Hoa Lư. Lê Đại
Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng quân.

Về các biến cố chính trị liên quan đến cái chết của Đinh Tiên
Hoàng và Đinh Liễn, có các nhà nghiên cứu, như Hồng Đạo Thúy, đặt
giả thiết khơng phải Đỗ Thích mà chính Lê Hồn, cấu kết với Dương


Vân Nga, đã ám sát Đinh Tiên Hoàng và con trưởng để chiếm ngôi . Việc
Lê Đại Hành lấy Dương thái hậu nhà Đinh, các sử gia phong kiến rất
nặng lời chê trách. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết:


"Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương
hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu,
là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông
dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hồng hậu, mất cả
lịng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình
bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở
đầu mối họa đó sao?"

Hồng Xn Hãn viết trong Hồng Xuân Hãn tuyển tập: "...việc

này trái với khuôn phép nhà nho. Các sử gia nho xưa đã trịnh trọng chỉ
trích như Ngơ Sĩ Liên, Ngơ Thì Sĩ...
Khi đưa ra nhận định trên, có thể các sử gia khơng chú ý vào thế kỷ
10 đời Đinh, Tiền Lê đạo Nho chưa có ảnh hưởng gì sâu vào dân Việt.
Sau này, đến nửa đời Trần vẫn còn như vậy. Dân chúng đã lập đền thờ
các vua Đinh Lê trên nền tảng cung điện Hoa Lư mà khơng qn bà
Dương hậu, xưa cịn tự hợp hai vua tô tượng hai vua ngồi chung một toà
với Dương hậu ở giữa. Nhưng đến đầu đời Lê Thái Tổ cho là trái đạo mà
bỏ đi! Tuy vậy các nho gia phê bình cũng khơng ai trách bà mà chỉ trách
Lê Hoàn bởi cho rằng bậc quân tử "danh chính thì ngơn mới thuận". Cịn

như Dương hậu âu cũng chỉ là đàn bà, có trách cũng bất kể.


2. NGUYỄN HỮU TIẾN
Ông sinh năm 1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Năm 1927, ông tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng
chí Hội. Năm 1931 ông bị bắt và bị đưa ra nhà tù Côn Đảo. Năm 1935,
ông cùng một số tù chính trị vượt ngục, trở về đất liền, hoạt động cách
mạng tại Nam Bộ, sau đó được phân cơng phụ trách cơng tác tun
truyền, in ấn tài liệu cách mạng.
Chính trong thời gian này, ông được Xứ ủy Nam Kỳ trao nhiệm vụ
vẽ cờ hiệu để sử dụng trong các cuộc đấu tranh. Ơng đã vẽ lá cờ có nền
đỏ và ngôi sao vàng năm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng
trưng cho dân tộc và sự đồn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ,
nơng, cơng, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mẫu
cờ đã được Xứ ủy Nam Kỳ nhất trí và đã xuất hiện lần đầu tiên
trong khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23 tháng 11 năm 1940.
Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ được khắc họa rõ nét
trong bài thơ của ông:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nịi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ-nơng-cơng-thương-binh
Đồn kết lại như sao vàng năm cánh.
Tuy nhiên, ông không kịp nhìn thấy lá cờ của mình tung bay.
Tháng 8 năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam. Khởi nghĩa Nam Kỳ



thất bại và bị khủng bố tàn bạo. Thực dân Pháp đưa ông và nhiều yếu
nhân của Đảng Cộng sản Đông Dương như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ
Văn Tần,Hà Huy Tập, ... xử bắn ngày 28 tháng 8 năm 1941.
Lá cờ của Nguyễn Hữu Tiến đã lan rộng ra và trở thành cờ hiệu của
phong trào Việt Minh. Tại Hội nghị Tân Trào chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa,Quốc dân đại hội đã nhất trí chọn lá cờ của Nguyễn Hữu Tiến làm
Quốc kỳ của đất nước Việt Nam độc lập.
D. LỄ HỘI
1. LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN
Lễ hội Tịch Điền Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, Hà Nam là một lễ hội
mang ý nghĩa khuyến nơng và là nét đẹp văn hóa trở về nguồn cội. Lần
đầu tiên nghi thức lễ hội này được diễn ra vào thế kỷ X ở Hà Nam, trên
quê hương vua Lê Đại Hành và được khôi phục sau nhiều năm thất
truyền từ năm 2009 vào mùng 7 tháng Giêng
Lịch sử ghi lại: mùa xuân năm 987, lần đầu tiên vua Lê Đại
Hành cùng văn võ bá quan cày ruộng ở Đọi Sơn và bắt được chum vàng,
năm 988 cày ở Bàn Hải bắt được chum bạc, vì thế những thửa ruộng này
còn được gọi là Kim Ngân Điền . Từ đó, hàng năm vào đầu xuân, nhà
vua ra đồng cày ruộng, làm Lễ tịch điền (đích thân vua xuống đi cày
ruộng), cầu được mùa và các triều đại sau đó, đều duy trì nghi lễ cày tịch
điền với các hình thức khác nhau . Đến triều Nguyễn, lễ tịch điền có
nhiều "niêm luật" cụ thể, được tổ chức quy mơ, do bộ lễ chủ trì nhưng lễ
này cũng chấm dứt dưới thời vua Khải Định .


Lễ tịch điền không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự
quan tâm của các vị vua đối với người nơng dân mà cịn tun truyền,
giáo dục các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, lịng biết ơn tiền
nhân, tích cực phát triển sản xuất nơng nghiệp. Bởi thế, mỗi người
dân Hà Nam nói riêng, Việt Nam nói chung cần phát huy truyền thống

thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế trên chính mảnh đất q
hương mình.
Lễ hội liên hồn các nghi lễ và diễn xướng, kết hợp với văn hóa,
nghệ thuật, thể thao, diễn ra trong không gian rộng từ mồng 5-7 tết âm
lịch với nhiều hoạt động như: rước chân nhang vua Lê Đại Hành từ đền
Lăng, xã Liêm Cần, Thanh Liêm về xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, lễ rước
nước, lễ sái tịnh…
Nghi lễ chính trong tồn bộ lễ hội là lễ tịch điền Đọi Sơn, tái hiện
huyền tích từ thời Thập đạo tướng qn Lê Hồn khi ơng nhận thấy núi
Đọi có vị trí chiến lược quan trọng đối với kinh đô Hoa Lư đến khi lên
ngôi vua, Lê Đại Hành về chân núi Đọi cày ruộng để khuyến khích mở
mang nơng trang. Lễ tịch điền được tiến hành theo thứ tự: vua Lê Đại
Hành cày 3 sá, lãnh đạo tỉnh Hà Nam cày 5 sá, lãnh đạo huyện Duy
Tiên cày 7 sá, lãnh đạo xã Đọi Sơn và các bơ lão cày 9 sá(vấn đề này cần
đính chính).
Ngày nay
Sau một thời gian dài gián đoạn, từ năm 2009, phong tục tốt đẹp
này được phục hồi lại. Năm 2010, lần đầu tiên chủ tịch nước Việt Nam


(ông Nguyễn Minh Triết) mặc áo nông dân cầm cày thực hiện nghi lễ
tịch điền Đọi Sơn .
Hội thi trang trí trâu cũng là một hoạt động khá sơi nổi trong lễ hội
này. Thay vì trang trí bằng vải đỏ thời xưa, nay những chú trâu tham gia
lễ tịch điền được trang trí bằng những nét vẽ tứ linh, tứ quý… . Năm
2009 là năm đầu tiên mà tỉnh Hà Nam tổ chức giải đấu vật tại Đọi Sơn .
Lễ hội góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời quảng
bá tiềm năng du lịch của huyện Duy Tiên, nơi có nhiều danh thắng đẹp,
có chùa Long Đọi Sơn.
2.


LỄ HỘI ĐỀN THƯƠNG

Khu vực đền Trần Thương trước kia là vùng sông nước, đồng chiêm trũng, được
Trần Hưng Đạo chọn đặt kho lương vì có thế đất linh thiêng, lại thuận tiện trong
việc di chuyển lương thảo, khí giới từ Thăng Long tới các khu quân sự trong cuộc
ứng phó với qn Ngun - Mơng lần thứ hai (1285).
Sau chiến thắng quân Nguyên – Mông nhân dân đã dựng đền thờ ngài trên mảnh
đất Trần Thương để tưởng nhớ công ơn vị tướng tài ba, được người đời tôn vinh lên
bậc thánh.
Lễ hội Trần Thương, hằng năm, cứ vào tiết “Tháng Tám giỗ Cha”, các cụ đều có lệ
rước nước và nhập lương từ sông Hồng. Tục này nhằm tái hiện lại dữ kiện lịch sử
về việc phát lương khao quân của quân đội nhà Trần khi đánh thắng giặc Nguyên Mông lần thứ ba (năm 1288) trở về. Dựa trên những yếu tố lịch sử và tâm linh, từ
năm Canh Dần (2010), tỉnh Hà Nam đã tổ chức Lễ phát lương cầu lộc, cầu phúc,
cầu một năm sung túc, no đủ cho nhân dân và khách thập phương về lễ bái tại đền.
Lễ hội phát lương Đức Thánh Trần năm 2015 là năm thứ năm được tổ chức trên
quy mô lớn. Đồng thời, đây cũng là năm tưởng niệm 715 năm ngày mất của Hưng
Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, nhà quân sự, nhà chính trị lỗi lạc, nhà văn hóa
tiêu biểu.


Việc tổ chức lễ hội phát lương Đức Thánh Trần, nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hóa
tâm linh của nhân dân và du khách thập phương nhân dịp đầu xuân năm mới. Đồng
thời cũng là dịp để giáo dục truyền thống và khơi dậy đạo lý uống nước nhớ nguồn,
tri ân các bậc tiền nhân đã có cơng với dân, với nước. Qua đó, tơn vinh giá trị văn
hóa lúa nước, giá trị lương thực trong đời sống con người, góp phần to lớn vào
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và dựng nước. Đặc biệt, lễ hội được tổ
chức vào dịp đầu xuân năm mới có ý nghĩa thiết thực trong việc động viên nhân
dân hăng hái thi đua lao động, sản xuất góp phần xây dựng quê hương ngày càng
giàu mạnh.


E.

CÁC ĐIỂM THAM QUAN
1. Chùa Bà Đanh

- Dân gian truyền miệng nhau rằng : vắng như chùa bà đanh
- Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm
Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông (1676-1680), khu rừng mới được mở
mang quang đãng để xây chùa lại cho khang trang. Khu vực này
cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm,
vắng vẻ. Ngơi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ
ở quanh chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ
để tìm thợ giỏi về tạc tượng thờ trong chùa.
Bỗng nhiên có một khách thập phương tìm đến chùa nói rằng mình làm
nghề tạc tượng và được báo mộng đến đây. Người khách tả hình dáng và
dung nhan người con gái đã báo mộng thì thấy giống hệt vị thần đã báo
mộng cho cụ già trong làng. Năm ấy gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng
cao, tạc tượng gần xong thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ, nửa nổi,
nửa chìm, khơng trơi theo dịng nước, đẩy ra mấy lần lại thấy trôi trở lại.
Thấy chuyện lạ, dân làng vớt lên xem thì hố ra đó là một cái ngai bằng
gỗ bèn rước ngay vào chùa.


Thật lạ lùng, pho tượng tạc xong thì đặt vừa khít vào ngai. Từ đó trong
vùng mưa thuận gió hồ, mùa màng bội thu, tiếng đồn Thánh Bà Bảo
Sơn linh ứng lan truyền khắp nơi, khách thập phương về lễ rất đông.
Những người làm nghề sông nước xuôi ngược qua đoạn sông này gặp
mùa lũ đều lên chùa thắp hương cầu mong yên ổn.
- Chùa Bà Đanh cũng như nhiều chùa khác ở miền Bắc Việt Nam

trên điện thờ rất phong phú gồm nhiều tượng Phật và tượng Bồ Tát.
Đây là nét tiêu biểu chung cho các chùa thờ Phật theo phái Đại
Thừa. Trong chùa khơng chỉ có tượng Phật mà cịn có tượng của
Đạo giáo như: Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu và các
tượng Tam Phủ, Tứ Phủ của tín ngưỡng dân gian nhưng quan trọng
nhất là thờ bà man nương chính là tượng bà chúa đanh – trong
chùa thờ một người phụ nữ sống ở làng đanh xá xã ngọc sơn huyện
kim bảng tỉnh hà nam nên người ta gọi ngôi chùa này là chùa bà
đanh ( hoàn cảnh ra đời của man nương )

2. Kẽm Trống
Kẽm Trống là một di tích thắng cảnh quốc gia được công nhận năm
1962. Đây cũng là một địa danh nổi tiếng đã được nhắc đến trong thơ Hồ
Xuân Hương. Kẽm Trống nằm cách Hà Nội 80km về phía Nam, gần
quốc lộ 1A và ở giữa địa phận 2 tỉnh Hà Nam và Ninh Bình.
Mơ tả
Kẽm Trống là khoảng trống được tạo ra bởi "hai bên là núi giữa là sông"
như lời của nữ sĩ Xuân Hương đã vịnh cảnh:
“ Hai bên thì núi, giữa thì sơng
Có phải đây là kẽm Trống khơng
Gió đập cành cây khua lắc cắc




Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang đá hơi còn hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng

Sông ở trong bài Kẽm Trống là con sông Đáy.
Truyền thuyết: Vụ án "bị béo bị gầy"
Kẽm Trống chính là địa danh đã diễn ra một vụ án nổi tiếng dưới thời
vua Lê Hy Tơng. Vụ án đó có tên gọi là "bò béo, bò gầy". Đây là một vụ
án cướp của giết người đặc biệt nghiêm trọng, kéo dài trên 20 năm, số
người bị giết khơng thể tính hết, xảy ra tại hang Địch Lộng thuộc huyện
Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, được phá án vào triều vua Lê Hy Tơng .
Làng Đa Giá Thượng nằm ở phía nam bến đò Khuốt, trên đường thiên lý
Bắc - Nam, ngay dưới chân dãy núi đá vơi trùng điệp, hiểm trở. Có một
bọn trộm cướp hung đồ, khống chế được tất cả các chức sắc trong làng
cùng theo, dần dần hình thành cả một làng ăn cướp, có quy định khốn
ước với nhau rất chặt chẽ. Vì vậy, hoạt động phạm pháp của cả làng này
kéo dài trên 20 năm mà không hề lọt ra ngoài. Chúng lập ra một nhà
trạm trên đường thiên lý với "vỏ bọc" là một nghề kinh doanh ăn uống và
nghỉ trọ. Chủ quán lúc nào cũng cung cấp đầy đủ rượu ngon có pha
thuốc mê, chuốc cho khách no say. Khi khách đang ăn thì có người đi
qua hỏi chủ qn:
- Nhà hàng mai có bị khơng, cho chúng tơi mượn với nhé!
- Có.
- Bị béo hay bò gầy?


- Bị béo!
Khách nghe thế khơng ngờ rằng đó là ám hiệu của bọn cướp với
nhau. Bò béo tức là khách giàu có. Bị gầy là khách nghèo. Bọn
cướp căn cứ vào ám hiệu của chủ quán mà quyết định hành động
hay không. Đêm đến, khách đang say giấc nồng thì chúng xơng
vào, trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng, lơi lên núi đá. Trên
núi có một cái hang rất sâu gọi là Kẽm Trống, chúng xô khách
xuống hang rồi về chia nhau tiền bạc.

Dưới thời vua Lê Hy Tông quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh Căn.
Hôm ấy xa giá của chúa đi qua cửa Đại Hưng thì gặp một người phụ nữ,
đầu đội một lá đơn, sụp lạy trước kiệu, bị quân lính xua đuổi nhưng nhất
quyết không chịu lùi. Chúa cho dừng kiệu rồi sai người dẫn người này
tới hỏi chuyện thì mới biết chồng nàng đã bị bọn cướp giết, còn nàng bị
bắt về làm vợ một tên tướng cướp rồi sau hai năm mới trốn ra được. Khi
nghe xong câu chuyện và xem đơn của nàng, chúa lập tức sai Thạc quận
cơng Lê Thì Hải đem 2.000 quân tiến thẳng về Gia Viễn, bí mật áp sát
làng Đa Giá Thượng.
Chiều hơm ấy, có một thầy lang đi qua đò Khuốt rồi vào làng Đa Giá
Thượng. Ăn xong, khách nằm lăn ra ngủ. Nửa đêm hơm đó, bọn cướp
xơng vào. Khách bị trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng rồi bị dẫn
lên hang núi. Nhưng, bọn cướp chưa kịp ra tay thì những tiếng hô vang
trong đêm tối làm trấn động cả núi rừng. Tiếng reo hò của 2.000 quân sĩ
đồng loạt nổi lên, vây bọc toàn bộ làng Đa Giá Thượng. Gần 300 tên tội
phạm đã bị bắt. Người ta xác định được 52 tên đầu sỏ, khép vào tội tử
hình. Số cịn lại là tòng phạm, bị bắt đày đi châu xa. Làng Đa Giá
Thượng bị xoá sổ. Người ta đẵn tre làm thang, nối dây thòng xuống hang
Kẽm Trống, xúc được vô số hài cốt, đem lên hỏa táng..
PHỤ LỤC
HÀ NAM

GIỚI THIỆU
1. Quán Gánh – Bánh Giầy
2. Làng thêu Ren Quất Động


KHÁI QUÁT HÀ NAM
1. Lịch sử hình thành
2. Quá trình phát triển

- Họa động địa chất
- Diện tích
- Tên gọi
- Dân số
- Tiếp giáp
ĐẶC SẢN
2. Chuối ngự đại hoàng

1. Cá kho tộ
1. Lê Hoàn

NHÂN VẬT LỊCH SỬ
2. Nguyễn Hữu Tiến

1. Lễ hội Tịch Điền

LỄ HỘI
2. Lễ hội Đền Thương

CÁC ĐIỂM THAM QUAN
1. Chùa Bà Đanh
2. Kẽm Trống
TÌM HIỂU THÊM VỀ 1 SỐ ĐỊA DANH VÀ NHÂN VẬT
LỊCH SỬ



×