Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vai trò của cộng đồng trong ứng xử với nước ở châu thổ Bắc Bộ và Tây Nguyên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.31 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>



<b>VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG ỨNG XỬ VỚI NƯỚC </b>


<b>Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ VÀ TÂY NGUN VIỆT NAM</b>



<b>NGUYỄN CHÍ BỀN </b>
<b>Tóm tắt</b>


<i>Ở Việt Nam, vùng châu thổ Bắc Bộ là nơi sinh sống chủ yếu của người Việt và vùng đất đỏ Tây </i>
<i>Nguyên là nơi sinh sống của 11 dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay. Nước là tài nguyên vô cùng quý giá </i>
<i>để họ sinh tồn và phát triển, sáng tạo một văn hóa nước: họ vừa cần nước, yêu quý nước nhưng vừa sợ </i>
<i>hãi nước. Cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ và cư dân vùng đất đỏ Tây Nguyên đều thờ cúng thần nước và </i>
<i>coi đó là vị thần tối linh của họ. Sự phát triển tín ngưỡng thờ nước của cư dân cả hai vùng, đều có vai </i>
<i>trị to lớn của cộng đồng, nhưng vị thế địa - kinh tế, địa - lịch sử, địa - văn hóa của vùng châu thổ Bắc Bộ </i>
<i>và vùng đất đỏ Tây Nguyên có khác biệt, nên vai trị của cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước của cư dân </i>
<i>hai vùng cũng khác biệt. Bài viết phân tích vai trị của cộng đồng trong ứng xử với nước, thể hiện qua: </i>
<i>vai trò của các thầy cúng, vai trò của làng, chủ thể và khách thể của tín ngưỡng thờ nước; sự khác biệt </i>
<i>vai trị cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước ở hai vùng đặc thù của Việt Nam; trên cơ sở ấy, trình bày khái </i>
<i>qt về lịch sử văn hóa - tín ngưỡng thờ nước qua các khơng gian văn hóa của Việt Nam. </i>


<b>Từ khóa</b>: Châu thổ Bắc Bộ, Tây Nguyên, vai trò cộng đồng, thờ nước, lễ hội cổ truyền


<b>Abstract</b>


<i>In Vietnam, Northern delta region is the primary living space of the Viet people; whereas, the Central </i>
<i>Highlands region is currently the home of 11 ethnic minority groups. Water is a valuable natural </i>
<i>resource for their existence and development. To creat a cultural water, it’s neccessary for them to need </i>
<i>water, love water and fear water at the same time. Inhabitants of the Northern delta and those of the </i>
<i>Central Highlands both worship water gods and consider it their supreme deity. The development of </i>
<i>the cult of water in the two regions has had the role of communities. However, due to the difference in </i>
<i>geo-economical, geo-historical and geo-cultural positions between the Northern delta and the Central </i>


<i>Highlands, the role of community in the cult of water in these two regions are also different. This article </i>
<i>analyzes the role of community in dealing with water, manifested through: the role of priests, villages, </i>
<i>other subjects and objects of the worship of water; the difference between roles played by communities </i>
<i>in the cult of water practiced in two studied region. From that point, an overview of the cultural history </i>
<i>- the beliefs of water worship through Vietnamese cultural spaces is presented. </i>


<b>Keywords: </b>Northern delta, Central Highlands, community role, water worship, traditional festivals


V

iệt Nam, theo GS. Trần Quốc Vượng
(1934 - 2005) và các cộng sự trong
giáo trình <i>Cơ sở văn hóa Việt Nam </i>


(11), chia thành 6 vùng văn hóa. Vùng văn hóa
châu thổ Bắc Bộ và vùng văn hóa Trường Sơn
- Tây Nguyên là hai vùng văn hóa khác nhau.
Vị thế địa - văn hóa, địa - kinh tế của hai vùng
khác nhau, đem đến cho cư dân nơi đây hai


ứng xử khác nhau với nước, hiện tượng thiên
nhiên gần gũi với con người.


<b>1. Cộng đồng cư dân Việt châu thổ Bắc Bộ </b>
<b>trong ứng xử với nước </b>


Châu thổ Bắc Bộ, hay nói cách khác là đồng
bằng sơng Hồng, trải rộng từ vĩ độ 210<sub>34’B </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



thành phố Hà Nội) đến 1070<sub>7’Đ (trên đảo Cát </sub>



Bà, thành phố Hải Phịng). Tồn vùng có diện
tích trên 14.860km2<sub>, chiếm khoảng 4,5% diện </sub>


tích cả nước Việt Nam. Là địa bàn của hai thành
phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng)
và 8 tỉnh (Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hưng
Yên, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc và Ninh
Bình), châu thổ Bắc Bộ tính đến năm 2016 có
khoảng 21 triệu người, chiếm khoảng 22%
dân số cả nước, bình quân 1.413 người trên
một cây số vuông. Cư dân đa số là người Kinh
(Việt), riêng ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
và huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình có người
Mường. Vì thế, nói làng xã ở châu thổ Bắc Bộ là
nói làng xã của người Việt (Kinh).


Thập niên ba mươi của thế kỷ trước, Pierre
Gourou đã viết: “Một ngôi làng không xuất
hiện trong cảnh quan như một tập hợp của nhà
cửa, mà là một khối cây xanh. Nó được bao bọc
bằng một rào tre với những ngọn cây dày đặc
tạo thành một lũy chắc chắn và những cành tre
rung rinh đem lại một khung cảnh xanh tươi
và trang trọng cho ngôi làng. Là yếu tố chủ yếu
của cảnh quan, làng cịn đóng vai trị hàng đầu
trong đời sống tâm linh và xã hội của người
nông dân. Nông dân không phải là những cá
thể cô độc, không phải là một công dân bất kỳ
của một xã chỉ tham gia từ xa vào đời sống của


xã, như cư dân của nông thôn Pháp; ngược lại,
đời sống tơn giáo, chính trị và xã hội của làng
xã Việt Nam rất sôi nổi và thường nhật, và mọi
người nông dân đều tham gia một cách chân
thành, nhiệt tình với tham vọng sẽ được giữ
vai trị ngày một lớn hơn” (8, tr.216). Mỗi làng
như vậy, bao gồm một số gia đình cùng sống
bằng nghề trồng lúa nước, cùng sống trong
một không gian xác định. Tồn bộ ruộng đất
cày cấy, sơng ngịi, hồ đầm đều thuộc quyền
sở hữu của làng. Ruộng của làng được phân
chia cho mọi gia đình trong làng sử dụng theo
quy định có tự bao đời, để cày cấy tự ni sống
mình, từ mùa vụ này qua mùa vụ khác. Loại cây
mà người nông dân vùng châu thổ Bắc Bộ lựa
chọn là cây lúa, loài cây hầu như được trồng


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>



phải cầu xin Trời, Phật, thần linh để có mưa, có
nước như câu ca dao:


<i>Lạy trời mưa xuống</i>
<i>Lấy nước tơi uống</i>
<i>Lấy ruộng tơi cày</i>


Có mấy hình thức để người dân cầu xin
thần nước: rước tượng thờ trong cung cấm ra
ngoài như các lễ hội thờ Tứ Pháp vùng Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Người dân rước bốn pho


tượng: Pháp Vân (nữ thần Mây), Pháp Vũ (nữ
thần Mưa), Pháp Lôi (nữ thần Sấm), Pháp Điện
(nữ thần Chớp) từ cung cấm ra ngoài với lời ca
cầu khấn: <i>Ba Bà trẩy hội chùa Un, mưa gió đùn </i>
<i>đùn thiên hạ dễ làm ăn</i>; đem tượng thờ trong
cung cấm ra phơi ngoài nắng như lễ hội chùa
Bối Khê (huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội).


Nhưng, nước cũng là đối tượng cần phải
chinh phục. Nhiều lễ hội cổ truyền còn những
trò diễn ca ngợi những anh hùng chống lụt.
Những lễ hội thờ Sơn Tinh, Thuỷ Tinh vùng
Ba Vì thuộc tỉnh Hà Tây cũ, thành phố Hà Nội
hiện nay, chính là những lễ hội thể hiện thái
độ chinh phục nước, chinh phục lũ lụt của
cư dân trồng lúa nước. Trong bóng dáng của
huyền thoại anh hùng Lê Lợi trả gươm ở hồ
Hồn Kiếm, có một khát vọng đất nước thái
bình, nhưng vẫn hiển hiện bóng dáng một anh
hùng văn hố trị thuỷ. Mặt khác, với người Việt
(Kinh) nơi châu thổ Bắc Bộ, nước là thực thể
thiên nhiên vừa hiền lành, vừa hung dữ, được
người Việt nơi đây thiêng hóa thành một vị
thần: thần nước.


Ứng xử với nước, người dân vùng châu thổ
sơng Hồng có nhiều cách khác nhau. <i>Trước hết</i>,
nước là môi trường diễn ra lễ hội cổ truyền.
Không gian của lễ hội cổ truyền người Việt
có khơng gian thế tục và khơng gian thiêng.


Nhiều lễ hội cổ truyền của người Việt có không
gian thiêng là sông nước hoặc biển cả. Chẳng
hạn, lễ hội thờ cá voi của cư dân ven biển từ Hà
Tĩnh trở vào đến Cà Mau diễn ra từ cửa sơng
đến ven biển và ngồi biển, với các lễ hội này,
mọi hành động hội, nhất là các trị diễn, đều
diễn ra trên sơng nước, hoặc biển cả. Tiêu biểu


đền Chèm (quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội),
lễ hội làng Khê Hồi (huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội), lễ hội đền Đồng Xâm (huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình), v.v. Đồng thời, nước là
môi trường tiếp nhận các lễ vật dâng cúng của
người dân trong lễ hội cổ truyền. Thể hiện tấm
lịng thành kính với nhân vật thờ phụng, người
dân mang các lễ vật sau khi cúng tế đưa xuống
nước, để dâng cúng cho nhân vật phụng thờ.
Ví dụ lễ hội làng Bình Đà (huyện Thanh Oai,
thành phố Hà Nội), người dân mang bánh Vía,
sau khi đã dâng cúng ra bờ sơng, bóp nát, thả
xuống sông. Nước là yếu tố chứa đựng khát
vọng đổi mới, là sự mở đầu cho sự thay đổi,
người dân dùng nước làm lễ mộc dục - một
thành tố bắt buộc, rất quan trọng trong diễn
trình lễ hội. Người dân cho rằng nước được
lấy giữa dịng sơng là nước tinh khiết để con
người làm sạch những pho tượng thờ. Từ ngày
lễ hội năm trước đến ngày lễ hội năm sau,
pho tượng thờ để nơi cung cấm cần được lau
chùi sạch sẽ. Nước để làm lễ mộc dục phải lấy


ở giữa sông, sau khi đã làm các nghi thức cần
thiết. Có thể thấy nhiều lễ hội như lễ hội đền
Bà Tấm (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), lễ
hội đền Hoá Dạ Trạch (huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên), lễ hội đền Cuông (tỉnh Nghệ An),
v.v. có hình thức nghi lễ này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



lồi vật sinh sống ngồi biển khơi. Với cư dân
làm nghề đánh bắt hải sản, biển khơi là nơi
cung cấp nguồn lợi cho họ, cho họ cuộc sống,
nhưng cũng là nơi gây ra bao tai ương, bất trắc
cho họ. Vì vậy cư dân ven biển tin tưởng rằng
cá voi là vị thần hộ mệnh của họ, cứu vớt họ khi
họ gặp bất trắc nơi biển khơi. Mặt khác, người
dân các thế hệ đã thiêng hoá các vật siêu nhiên
thành những nhân vật lịch sử - văn hóa có vai
trị rất quan trọng trong tâm thức người Việt.
Đáng chú ý, nhiều nhân vật lịch sử văn hóa vốn
có gốc gác là những vật gắn bó với nước được
huyền thoại hóa, lịch sử hóa. Khảo sát 94 bản
thần tích của lễ hội 94 làng quê châu thổ Bắc
Bộ, chúng tôi đã gặp 25 nhân vật thành hồng
làng có nguồn gốc sinh nở thần kỳ, sinh ra do
người mẹ kết hợp với giao long, rồng, rắn, v.v.
Ví dụ: Nhân vật Linh Lang trong lễ hội ở vùng
ven Kinh thành Thăng Long và lễ hội làng Lệ
Mật (huyện Gia Lâm, nay thuộc phường Việt
Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội),


vốn có gốc gác từ sơng nước; hay những vị
thần mang tên Trương Hống, Trương Hát, được
người dân thờ hai bên bờ sông Cầu (ranh giới
hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang), vốn có nguồn
gốc từ những con rắn, v.v. Với những cư dân
sống bằng nghề trồng lúa nước hoặc bằng
nghề đánh bắt thuỷ, hải sản trên sơng nước
hay ngồi biển khơi, nước là yếu tố rất quan
trọng đối với họ. Bởi vậy, người dân thờ cúng
các thuỷ thần, các nhân vật lịch sử văn hoá -
nhân vật trung tâm của lễ hội cổ truyền, thực
ra là thờ nước.


Chính vì sống tại một vùng châu thổ, ứng
xử với một dịng sơng hung dữ như sơng
Hồng, nên vai trị của cộng đồng trong quan
hệ của người dân với thần nước, với nước rất
quan trọng. Nói đến cộng đồng làng xã của
người Việt (Kinh) ở châu thổ Bắc Bộ là phải nói
tới vai trị của hương ước. “Làng nào có hương
ước nấy và hương ước của từng làng thường
bao gồm trong nội dung cụ thể của nó những
chi tiết mà hương ước làng khác khơng có.
Hơn thế nữa, mỗi hương ước lại có thể mang
một hợp thể riêng, nghĩa là có thể đề cập đến
một số vấn đề hay khía cạnh mà hương ước các
làng lân cận không đả động đến” (10, tr.99). Các


nhà nghiên cứu đã thống nhất: hương ước có
nhiều tên gọi khác nhau như hương lệ, hương


biên, khoán lệ, khoán ước, tục lệ, điều lệ, v.v.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>



tổ chức các hoạt động thể hiện niềm tin tưởng
của mình với thần nước, có một văn bản thỏa
thuận trong cộng đồng về bảo vệ nguồn nước.


<b>2. Cộng đồng cư dân các dân tộc thiểu số </b>
<b>Tây Nguyên trong ứng xử với nước </b>


Trong khi đó, cộng đồng cư dân các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên Việt Nam lại có ứng xử
khác. Nói đến Tây Nguyên cần thấy Tây Nguyên
không phải là một cao nguyên mà là các cao
nguyên liền kề từ Bắc vào Nam: cao nguyên
Kontum, KonPlông, Kon Hà Nừng, Pleiku,
M’Drăk, Buôn Ma Thuột, Mơ Nông, Lâm Viên,
Di Linh. Độ cao của các cao nguyên này cũng
không giống nhau, nếu cao nguyên Lâm Viên
cao khoảng 1.500m, cao nguyên Di Linh cao
khoảng 900 - 1.000m, cao nguyên Pleiku cao
800m, thì cao ngun Kontum, cao ngun
Bn Ma Thuột chỉ cao khoảng 500m. Nói đến
Tây Nguyên là nói đến một vùng đất đỏ bazan,
với diện tích hơn 54.000 km2<sub>, bao gồm địa giới </sub>


của 5 tỉnh: Kontum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông
và Lâm Đồng; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam,
phía Đơng giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình


Định, Phú n, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, phía Nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình
Phước, phía Tây giáp các tỉnh Attapeu (Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào), Ratanakiri,
Mon-dukiri (Vương quốc Campuchia). Là một vùng
đất không giáp biển và khá gần xích đạo nên
một năm khí hậu ở Tây Nguyên chia làm hai
mùa: mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 10,
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.


Nói đến cộng đồng các dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên Việt Nam là nói đến cộng đồng cư
dân ngữ hệ Nam Đảo (Malayo Polynedi) gồm
các dân tộc: Giarai, Ê đê, Chu ru và cộng đồng
cư dân Nam Á (Môn - Khơ me) gồm các dân
tộc: Bana, Cơ ho, Xơ đăng, Mơ nông, Mạ, Giẻ
Triêng, Rơ măm, Brâu. Cả hai cộng đồng dân
cư này đều cư trú thành làng, tên gọi tùy theo
cộng đồng từng dân tộc. Nếu người Gia rai,
người Chu ru gọi <i>plei</i>, người Ba na gọi <i>plơi</i>, thì
người Cơ ho gọi <i>bon</i>, người Ê đê gọi <i>buôn</i>, v.v.
Các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, “dù
thuộc dân tộc nào, đều định cư trong từng


thân… Để trồng trọt, con người phải định
cư lại thành từng làng, đơn vị tập hợp người
hoàn chỉnh nhưng nhỏ nhất, mỗi làng chiếm
lĩnh một địa bàn có ranh giới rõ ràng, mà làng
khác không được xâm phạm đến, không thế
thì xảy ra chiến tranh” (2, tr.521). Hoạt động


kinh tế của các tộc người này cũng có những
khác biệt trong ứng xử với nguồn nước. Nếu
người Ba na, người Brâu, người Rơ măm, người
Giẻ Triêng sinh sống với phương thức canh tác
trồng lúa rẫy (lúa khơ) thì người Chu ru, người
Cơ ho lại là những tộc người sinh sống với
phương thức canh tác trồng lúa nước. Hoặc,
cả tộc sinh sống bằng trồng lúa rẫy, nhưng có
nhóm sinh sống bằng trồng lúa nước, như dân
tộc Êđê sinh sống bằng trồng lúa rẫy, nhưng
nhóm Êđê Bih lại sinh sống bằng trồng lúa
nước, hoặc người Xơ đăng làm rẫy là chính
nhưng nhóm Mơ nâm lại sinh sống bằng
ruộng nước, v.v. Dù sinh sống với phương thức
trồng lúa rẫy hay canh tác lúa nước thì tất cả
các dân tộc thiểu số tại chỗ ấy đều gắn bó số
phận của mình trên những cao nguyên đất đỏ,
cho nên nước là yếu tố vô cùng quan trọng với
họ. Trong tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số
tại chỗ Tây Nguyên đều thiêng hóa hiện tượng
tự nhiên này là thần nước. Lễ cúng bến nước
luôn là một lễ cúng thiêng liêng đối với họ.
Chẳng hạn, với người Gia rai, thần nước (<i>Yang </i>
<i>Ia</i>) là vị thần vừa linh thiêng, vừa thân thiết, vị
thần cung cấp nguồn nước mát lành cho họ.
Lễ cúng nước giọt (cúng bến nước) rất quan
trọng với họ, được thực hiện hàng năm, sau
khi đã thu hoạch mùa màng. Lời khấn của vị
già làng chủ lễ ln có nội dung xin thần suối
hãy đến với dân làng, cho dân làng dòng nước

trong trẻo, tràn trề. Và ông là người đầu tiên lấy
quả bầu khô hứng nước châm vào ghè rượu,
rồi uống ngụm rượu đầu tiên qua cần ở ghè
rượu. Kết thúc buổi lễ, bao giờ phụ nữ trong
plei cũng lấy bầu khơ hứng nước, mang về nhà
dùng. Nói đến ứng xử với nước của người Gia
rai, không thể khơng nói đến các Pơtao Puih,
Pơtao Ia, các thủ lĩnh tín ngưỡng Lửa và Nước.
Một thời, trong sử sách của người Việt như


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



<i>Lịch triều hiến chương loại chí</i> của Phan Huy
Chú (1782 - 1840), <i>Đại Nam thực lục tiền biên </i>
<i>và chính biên </i>của Quốc sử quán triều Nguyễn
(1802 - 1945), v.v. từng nhắc đến, coi như một
vương quốc: nước Thủy Xá, nước Hỏa Xá (6; 7).


Với Pơ tao Puih, lễ cầu mưa là nghi lễ quan
trọng nhất mà các Pơ tao Puih thực hiện. Người
Gia rai trong khu vực ảnh hưởng của Pơ tao Puih
tin rằng với chiếc gươm thần mà người dân gọi
là ơi Tha làm vật trung gian, Powtao Puih là
người duy nhất có thể liên hệ với thần linh để
gọi mưa về tưới mát cho ruộng rẫy. Lễ cầu mưa
bắt đầu khoảng tháng 4 dương lịch, được thực
hiện bên cửa hơng phía mặt trời mọc, trong nhà
của Pơtao Puih, nghi thức cuối cùng là lấy nước
vẩy ra xung quanh, kết thúc buổi lễ.



Hàng năm, sau mùa thu hoạch, người Ê đê
tổ chức lễ cúng bến nước để bày tỏ niềm biết
ơn của mình với thần nước. Lễ cúng thường
do chủ bến nước - người tìm ra bến nước - tổ
chức, dưới sự chủ trì của già làng. Mọi thành
viên trong bn tham gia rất nhiệt tình, tự
giác, với niềm biết ơn và tin tưởng thần bến
nước, cảm ơn vị thần ban cho họ nguồn nước
trong lành, không vơi cạn.


Đáng quan tâm nhất là người Chu ru, dân
tộc sống bằng ruộng nước, phương thức
canh tác là trồng lúa nước. Mỗi plei thường có
một người phụ trách cơng việc thủy lợi và hai
người giúp việc. Trưởng thủy cũng do tập thể
các thành viên trong làng bầu ra. Ông là người
có khả năng về thủy lợi và có đức tính cơng
bằng. Trưởng thủy có nhiệm vụ phân phối đều
lượng nước từ các mương, máng công cộng
đến từng thửa ruộng của các gia đình. Khi
cần thiết, ơng có thể đề nghị với chủ làng huy
động nhân lực để tu bổ các cơng trình thủy lợi
chung trước mùa cày cấy.


Như thế, cộng đồng các dân tộc thiểu số
tại chỗ ở Tây Nguyên luôn biết ơn thần nước,
kính trọng thần nước. Vai trị của cộng đồng
với thần nước rất quan trọng, cả cộng đồng
đều coi thần nước là thiêng liêng. Đáng lưu ý là
vai trò của các vị thầy cúng và của các già làng


khi cộng đồng tiến hành các nghi lễ đối với
thần nước. Trong lịch sử, chỉ có ở cộng đồng
người Gia rai, người Ê đê, các vị thầy cúng đã


vươn tới vai trò của thủ lĩnh tín ngưỡng thần
lửa, thần nước mà xa mờ là bóng dáng của một
vương quốc Thủy Xá, Hỏa Xá như ghi chép của
sử gia người Việt. Nhận xét của F. Ăng-ghen:
“Ngay từ đầu trong mỗi công xã đó, có một
số lợi ích chung nào đó mà việc gìn giữ phải
trao cho mỗi cá nhân, tuy có sự kiểm sốt của
tồn thể: như là xét xử những vụ tranh chấp;
trừng phạt những kẻ lạm quyền; như là trông
nom các nguồn nước…” (3, tr.304) gợi mở cho
chúng ta tiếp tục suy nghĩ về vai trị của các
vị thầy cúng trong tín ngưỡng thờ nước của
cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây
Nguyên Việt Nam.


<b>3. Văn hóa nước ở Việt Nam qua hai cộng </b>
<b>đồng cư dân hai vùng văn hóa</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>V</b>

<b>A</b>



coi nước là môi trường của nghi lễ trong lễ hội
làng, phải lấy nước ngồi sơng lớn, giữa dịng
sơng làm lễ mộc dục. Tượng thờ trong di tích
phải được lau chùi bằng nước lấy giữa sông
sau khi làm nghi lễ với thần sông, thần nước
mang về hậu cung. Cộng đồng cư dân trong


mỗi làng có quy định bằng hương ước để giữ
gìn, bảo vệ nước cho sự tồn tại của mình, cho
cây lúa ngồi đồng, có phân cơng người chịu
trách nhiệm quản lý nguồn nước. Trong 11 dân
tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, chỉ có người
Chu ru đồng dạng với người Kinh (Việt) ở châu
thổ Bắc Bộ trong ứng xử với nước. Họ đã làm
mương phai, đê đập dẫn nước, nói cách khác
là làm thủy lợi cho cây lúa. Văn hóa nước của
người Chu ru ở Tây Nguyên đồng dạng với văn
hóa nước của người Kinh (Việt) ở châu thổ Bắc
Bộ, mặc dù hai dân tộc sinh sống ở hai không
gian địa lý - văn hóa khác nhau. Các dân tộc
thiểu số tại chỗ còn lại ở Tây Nguyên ứng xử
với nước khác với người Kinh (Việt) nơi châu
thổ Bắc Bộ. “Ở đây làng không gắn với nước
như trong trường hợp xã hội Việt, để thành
“làng nước”, mà làng là nước... tại nhiều vùng
đã có tù trưởng lớn… ít nhất cũng có một chế
độ thủ lĩnh tôn giáo, với các vua Lửa, vua Nước”
(2, tr.527). Cúng thần bến nước, thần nước sau
mùa thu hoạch hằng năm là một sinh hoạt tín
ngưỡng văn hóa thường xuyên của cư dân
các dân tộc thiểu số tại chỗ ở nơi đây, dù họ là
người Gia rai hay Ê đê, Mơ nông, v.v. Chưa thấy
thái độ chinh phục nước của họ.


<b>Kết luận</b>


Người Kinh (Việt) nơi châu thổ Bắc Bộ và


cộng đồng 11 dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên
Việt Nam là hai chủ thể văn hóa ở hai khơng
gian văn hóa khác nhau của Việt Nam. Trong
tâm thức người Kinh (Việt) nơi châu thổ Bắc Bộ
và tâm thức cộng đồng các dân tộc thiểu số tại
chỗ Tây Nguyên chứa đựng sự tơn kính, biết ơn
nước, sợ nước nhưng cũng vươn lên để chinh
phục nước. Ứng xử với nước của các dân tộc tại
hai không gian văn hóa khác nhau ở Việt Nam
làm nên văn hóa nước Việt Nam vừa thống


cần được nghiên cứu của các nhà nhân học,
văn hóa học trong và ngoài Việt Nam.


N.C.B


<i>(GS.TS, Nguyên Viện trưởng </i>
<i>Viện VHNTQG Việt Nam)</i>


<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. Nguyễn Chí Bền (2018), <i>Văn hóa Việt Nam </i>
<i>nghiên cứu và tiếp cận</i>, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, tập 1, quyển 1.


2. Nguyễn Từ Chi (1996), <i>Góp phần nghiên cứu </i>
<i>văn hóa và tộc người</i>, Nxb. Văn hóa - Thơng tin,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.


3. F.Ăng ghen (1971), <i>Chống Đuyring</i>, Nxb. Sự


thật, Hà Nội.


4. Georges Condominas (2003), <i>Chúng tôi ăn </i>
<i>rừng</i>, Trần Thị Lan Anh, Phan Ngọc Hà, Trịnh Thu
Hồng, Nguyễn Thu Phương dịch, Nguyên Ngọc
hiệu đính, Nxb. Thế giới, Bảo tàng dân tộc học
Việt Nam, Hà Nội.


5. Lưu Hùng (1994), <i>Buôn làng cổ truyền xứ </i>
<i>Thượng</i>, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.


6. Jacques Dournes (2013), P<i>otao, một lý </i>
<i>thuyết về quyền lực của người Jorai ở Đông Dương</i>,
Nguyên Ngọc dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.


7. Nhiều tác giả (2004), <i>Pơ tao Apuih, tư liệu và </i>
<i>nhận định</i>, Sở văn hóa - Thơng tin Gia Lai, Plei ku.


8. Piere Gourou (2003), <i>Người nông dân châu </i>
<i>thổ Bắc Kỳ</i>, Nguyễn Khắc Đạm, Đào Hùng, Nguyễn
Hồng Oanh dịch, Đào Thế Tuấn hiệu đính, Hội
Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Viễn Đông bác cổ
Pháp, Nxb. Trẻ, Hà Nội.


9. Nguyễn Thanh (biên soạn) (2000), H<i>ương </i>
<i>ước Thái Bình</i>, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.


10. Trần Từ (1984), <i>Cơ cấu tổ chức của làng Việt </i>
<i>cổ truyền ở Bắc Bộ</i>, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.



11. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2018), <i>Cơ sở </i>
<i>văn hóa Việt Nam</i>, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tái bản
lần thứ 20.


Ngày nhận bài: 20 - 10 - 2018


</div>

<!--links-->

×