Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tiểu thuyết chúa đất của đỗ bích thúy từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.42 KB, 63 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====***=====

PHÙNG THỊ THU TRANG

TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY DƢỚI GĨC NHÌN
VĂN HĨA

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chun ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====***=====

PHÙNG THỊ THU TRANG

TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY DƢỚI GĨC NHÌN
VĂN HĨA
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chun ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS.GVC. Nguyễn Thị Tuyết Minh



HÀ NỘI, 2019


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất đến TS.
Nguyễn Thị Tuyết Minh – Giảng viên tổ Văn học Việt Nam đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo, động viên tôi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn các thầy/ cô trong khoa Ngữ văn – Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt nhất để tơi hồn thành khóa
luận này.
Khóa luận được hồn thành song khơng tránh khỏi thiếu sót. Tơi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy/ cơ để khóa luận của tơi được hồn
thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng 5 năm 2019

Sinh viên

Phùng Thị Thu Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Thị Tuyết Minh và không trùng
lặp với bất kì đề tài nghiên cứu nào khác.
Tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình!

Hà Nội, ngày

tháng 5 năm 2019

Sinh viên

Phùng Thị Thu Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................. 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 6
6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 7
7. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................... 7
NỘI DUNG ............................................................................................... 8
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ........................................................ 8
1.1. Mối quan hệ văn hóa - văn học và hƣớng nghiên cứu văn học từ góc
nhìn văn hóa ............................................................................................. 8
1.1.1. Mối quan hệ văn hóa – văn học ........................................................ 8
1.1.2. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ............................ 10
1.2. Văn hóa của dân tộc H’Mơng ở Hà Giang ....................................... 12
1.3. Tác giả Đỗ Bích Thúy với văn hóa dân tộc H’Mông ........................ 14
1.3.1. Đôi nét về tác giả Đỗ Bích Thúy ..................................................... 14
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ......................................................................... 15
1.3.3. Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy và sự phản ánh văn hóa dân
tộc H’Mơng ............................................................................................. 18

Tiểu kết

20

Chƣơng 2. BIỂU HIỆN VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY ........................................................................... 22
2.1. Đời sống sinh hoạt vật chất .............................................................. 22
2.2. Đời sống văn hóa tinh thần............................................................... 28


2.2.1. Những phong tục truyền thống....................................................... 28
2.2.2. Một số luật tục, hủ tục .................................................................... 30
2.3. Ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp ..
......................................................................................................... 33
Tiểu kết
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VĂN
HÓA TRONG TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT CỦA ĐỖ BÍCH THÚY..... 36
3.1. Hình tƣợng nghệ thuật ..................................................................... 36
3.1.1. Hình tượng con người .................................................................... 36
3.1.2. Hình tượng thiên nhiên .................................................................. 44
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu.................................................................... 46
3.2.1. Ngôn ngữ đặc trưng của vùng cao Hà Giang.................................. 47
3.2.2. Giọng điệu trữ tình......................................................................... 48
3.3. Thời gian và khơng gian nghệ thuật ................................................. 49
3.3.1. Thời gian nghệ thuật ...................................................................... 49
3.3.2. Không gian nghệ thuật ................................................................... 51
Tiểu kết
KẾT LUẬN ............................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 55



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học và văn hóa là hai phạm trù có mối quan hệ với nhau. Văn học
là gương mặt, là nơi kết tinh của văn hóa dân tộc, cịn văn hóa có khả năng
chi phối, tác động ở chiều sâu văn học. Gần đây “nhờ UNESCO phát động
những thập kỷ phát triển văn hóa, nhờ thức nhận văn hóa là động lực của
phát triển, nên quan hệ văn hóa và văn học được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt,
khi xuất hiện văn hóa học và nhân học văn hóa thì văn hóa bắt đầu được coi
là nhân tố chi phối văn học. Đã có một số tác giả đi theo hướng nghiên cứu
này như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thúy, Trần Nho Thìn...
Và, khi một số cơng trình của M.Bakhtin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam
thì hướng đi này càng được khẳng định” [27].
Văn học là nơi mà những giá trị văn hóa của dân tộc được thể hiện chân
thực và sâu sắc nhất. Do đó một tác phẩm văn chương ưu tú thường phản ánh
và kết tinh những giá trị văn hóa của thời đại ấy. Đó có thể là những giá trị
văn hóa tinh thần hay vật chất được biểu hiện qua các phương diện như phong
tục tập quán, hủ tục, cuộc sống sinh hoạt, con người… Ngược lại, văn hóa
cũng tác động đến văn học qua cách miêu tả, cảm nhận, xử lí đề tài của nhà
văn trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối đến hoạt động tiếp nhận,
thưởng thức, đánh giá của độc giả. Do đó, việc nghiên cứu văn học của một
dân tộc khơng thể tách rời với văn hóa của dân tộc ấy và cách tiếp cận văn
học từ góc độ văn hóa là một hướng đi tất yếu, một xu hướng nghiên cứu
khoa học; nó khơng chỉ khắc phục được những hạn chế nhất định của việc
nghiên cứu văn học bằng chính văn học mà có thể khai mở thêm những giá trị
mới, ý nghĩa mới cho văn học.
Đỗ Bích Thúy là nữ nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã nhận xét rằng, chị “là một trong những cây bút
nữ quan trọng nhất hiện nay ở mảng văn học về đề tài miền núi” [4]. So với


1


các tác giả đương đại, Đỗ Bích Thúy đã tìm cho mình một lối đi riêng, mang
đến cho văn học một “hơi thở” mới. Nếu như nhà văn Cao Duy Sơn chủ yếu
viết về lũng Cô Sầu (Trùng Khánh - Cao Bằng), Phạm Duy Nghĩa viết về
đường biên khắp núi rừng Tây Bắc thì Đỗ Bích Thúy lại gắn liền với Hà
Giang – mảnh đất tuổi thơ của chị. Chị viết về thiên nhiên, lịch sử, văn hoá,
con người Hà Giang trong tâm thế của một người trong cuộc. Cùng viết về
Việt Bắc và Tây Bắc – những miền đất vàng của văn chương miền núi, nơi
ngưng tụ nguồn mạch chính của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nếu
Tơ Hồi, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp là người miền xi đi thực tế,
kiếm tìm tư liệu để viết; Cao Duy Sơn, Vi Hồng là nhà văn dân tộc Tày viết
cuộc sống của dân tộc mình thì Đỗ Bích Thúy lại là người dân tộc Kinh (quê
gốc ở Nam Định) nhưng được sinh ra và lớn lên ở Hà Giang lại chọn chính
Hà Giang làm “mảnh đất màu mỡ” để chị “canh tác” trên “cánh đồng văn
chương”. Và trong buổi giao lưu với độc giả diễn ra tại Hà Nội ngày
13/1/2016, Đỗ Bích Thúy chia sẻ rằng: “Với tất cả những gì tơi viết thì mới
chỉ được một phần rất nhỏ so với những gì Hà Giang có và tôi nhận được từ
Hà Giang, đặc biệt là văn hóa Mơng. Người Mơng đã ở Hà Giang rất nhiều
năm rồi. Dân tộc Mông chủ yếu sống ở vùng đặc biệt nhất của Hà Giang là
vùng cao núi đá, chủ yếu ở 4 huyện với thiên nhiên khắc nghiệt, sẽ quy định
lối sống, tập quán canh tác và tạo cho người Mơng một nền văn hóa đặc sắc,
dày dặn. Và tôi nghĩ nếu tôi viết đến già cũng không hết được vùng văn hóa
đó” [23].
Chúa đất là tác phẩm văn học thứ 13 của Đỗ Bích Thúy viết về đề tài
miền núi sau một số tác phẩm đã gây được tiếng vang trước đó như: Tiếng
đàn mơi sau bờ rào đá, Sau những mùa trăng, Ngải đắng ở trên núi, Lặng yên
dưới vực sâu... Hơn18 năm sinh sống và làm việc ở Hà Nội, nữ nhà văn từng
có bước chuyển vùng sáng tác về đơ thị, nhưng sau đó chị lại tiếp tục quay về

với đề tài miền núi máu thịt, nơi luôn khiến văn chương của chị thăng hoa.

2


Tiểu thuyết Chúa đất do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành và xuất bản vào năm
2016. Trong tác phẩm này, Đỗ Bích Thúy đã thể hiện chân thực và sinh động
những giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc H’Mơng ở Hà Giang.
Vì những lí do trên chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu đề tài:
Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy từ góc nhìn văn hóa để tiếp tục luận
giải sâu hơn về tiểu thuyết của Đỗ Bích Thúy.
2. Lịch sử vấn đề
Trong phạm vi đề tài khóa luận, chúng tơi đi từ mối quan hệ hai chiều
giữa văn học và văn hóa để đi sâu khám phá tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ
Bích Thúy, tìm hiểu và đánh giá giá trị nội dung và các yếu tố nghệ thuật tác
phẩm dưới góc nhìn văn hóa. Đồng thời cũng cho thấy những đóng góp của
Đỗ Bích Thúy đối với văn học Việt Nam đương đại. Sau đây chúng tơi xin
liệt kê những cơng trình, bài báo nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài:
Báo Văn nghệ trẻ (số ra ngày 11/3/2001), Điệp Anh với bài báo Gặp
hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ đã nhận xét: “Thế mạnh của Đỗ Bích Thúy
là đời sống của người dân Tây Bắc, với những không gian vừa quen vừa lạ,
những phong tục tập quán đặc thù khiến người đọc ln cảm thấy tị mị và bị
cuốn hút (...) Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, khơng gian Tây Bắc hiện
lên đậm nét, để lại dư vị khó qn trong lịng độc giả.” [1, 3]
Cũng trên báo Văn nghệ trẻ (số 3/2005), Lê Thành Nghị trong bài báo
Từ truyện ngắn của một người viết trẻ cảm nhận: “Chúng ta sẽ bước vào
một không gian lạ, không gian có núi cao, trời rộng của vùng núi phía Bắc,
nơi từ đó nhìn xuống, dịng sơng Nho Quế chỉ cịn bé như sợi chỉ dưới chân
núi Mã Pí Lèng. Một khơng gian đầy hoa lá rừng, có tiếng gà gáy tách te
trong bụi rậm, có những dịng suối trong suốt với những viên cuội đỏ, có

những chàng trai thổi sáo theo sau các cơ gái khốc quẩy tấu xuống chợ;
những nồi thắng cố nghi ngút khói trong phiên chợ vùng cao đầy màu sắc;
những đêm trăng sóng sánh huyền ảo, những cụm mần tang mọc trong thung

3


lũng; tiếng đàn môi réo rắt sau bờ rào đá; lễ hội gầu tào với điệu hát gầu
Plềnh mê đắm của các cô gái, chàng trai người Mông trên đỉnh núi...” [17].
Nhà văn Trung Trung Đỉnh cảm nhận văn phong Đỗ Bích Thúy trong
bài viết Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy in trên báo Văn nghệ (sô 5 ra ngày
3/2/2007): “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền
thống của con người miền cao một cách tài tình. Khơng truyện nào là khơng kể
về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội, phong
tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù các tác giả không
hề cố ý đưa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị chinh
phục bởi những chi tiết rất đặc sắc chỉ người miền cao mới có” [9, 58].
Trên báo điện tử VTV (số ra ngày 14/1/2016), trong bài viết Chúa đất
của Đỗ Bích Thúy – Bi kịch tình yêu bạo chúa, nhà báo Đinh Thúy có trích
dẫn lời nhận xét của nhà văn Bùi Việt Thắng: “bằng sự tưởng tượng phong
phú, chị đã dịch chuyển được truyền thuyết và thực tại, kéo thời gian từ xa
đến gần, biến cái vơ hình thành hữu hình. Chúa đất là câu chuyện về cái chết,
nhưng là cái chết có ý nghĩa gieo mầm sự sống. Xét từ góc độ văn hóa thì đó
là vấn đề hủy diệt và sinh thành của sự sống, cụ thể hơn là các giá trị sống
được trả giá và bảo tồn như thế nào trong sự biến thiên của lịch sử” [23].
Trên tựa đề cuốn tiểu thuyết Chúa đất, nhà văn Hồng Đăng Khoa có
trích dẫn “Chúa đất là một diễn ngơn văn chương ám gợi về vấn đề nữ quyền
nói riêng, nhân quyền nói chung, là khúc bi ca về cái đẹp bị dập vùi, tình yêu
bị ngáng trở, tự do bị cướp đoạt nhưng đồng thời cũng là khúc hoan ca về sự
nổi loạn của cái đẹp, của tình yêu, của tự do” [24, 8].

Trên báo điện tử Nhân dân (số ra ngày 29/1/2016), trong bài viết Chúa
đất của Đỗ Bích Thúy đủ giàu hình ảnh để lên phim , Nhà thơ Hữu Việt nói
rằng: “cuốn sách có nhiều chi tiết miêu tả nếu dựng thành phim thì có nhiều
lợi thế bởi chất Mông, cảnh sắc thiên nhiên, con người dân tộc đậm chất”
[16]. Đạo diễn trẻ Đỗ Thanh Sơn khẳng định: “Chúa đất đủ chất liệu để trở

4


thành một tác phẩm điện ảnh...” [16]. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý cũng nhận
xét rằng:“Từ một truyền thuyết về chúa đất Sùng Chúa Đà, Đỗ Bích Thúy đã
dựng lên một tiểu thuyết vô cùng sống động với những phong tục, tập quán,
tính cách, diện mạo khá rõ nét về từng nhân vật” [16]. Nhà văn Sương
Nguyệt Minh cho rằng: “Đỗ Bích Thúy đã làm được một việc lớn mà khơng
nhiều nhà văn làm được, đó là hai năm về trước viết văn như thế nào, thì cho
đến nay vẫn giữ ngun như vậy khơng thay đổi. Có những nhà văn thay đổi
cách viết liên tục. 15 năm trước, văn của Đỗ Bích Thúy là văn của một sự lấp
lánh, lung linh, Bây giờ đã bớt đi phần nào độ lung linh, thêm vào đó hiện
thực và sự sâu sắc hơn” [16]. Nhà văn Sương Nguyệt Minh còn nhận xét
rằng: “một tiểu thuyết có thể coi là thành cơng khi có ba nhân vật thành công,
đằng này Chúa đất giải quyết được hết tất cả các tuyến nhân vật” [16]. “Nếu
độc giả khơng có thời gian, chỉ cần đọc 50 trang đầu là giải quyết hết được
mọi mâu thuẫn trong cuốn sách. Tuy nhiên, trong thực tế thì khó một độc giả
nào có thể bỏ cuốn sách xuống khi chưa lật đến trang cuối cùng” [16].
Nhìn chung, những cơng trình, bài viết ở trên có tiếp cận và nghiên cứu
tác phẩm của Đỗ Bích Thúy nhưng mới chỉ dừng lại ở những nhận xét khái
quát. Nhìn nhận và nghiên cứu chuyên biệt tiểu thuyết Chúa đất ở góc nhìn
văn hóa thì đến nay chưa có một cơng trình nào thực hiện. Đây là khoảng
trống thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài khóa luận Tiểu thuyết Chúa đất của
Đỗ Bích Thúy dưới góc nhìn văn hóa. Chúng tơi xem những ý kiến ở trên sẽ

là những gợi mở để triển khai đề tài này, với mong muốn góp thêm một tiếng
nói khẳng định đóng góp của Đỗ Bích Thúy ở đề tài vùng cao.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy dưới góc
nhìn văn hóa nhằm hướng tới các mục đích sau:
- Có cái nhìn khái qt về tác giả Đỗ Bích Thúy, sự nghiệp sáng tác của
chị đặc biệt là các sáng tác viết về đề tài miền núi.

5


- Tìm hiểu bản sắc văn hóa miền núi nói chung và bản sắc văn hóa dân
tộc H’Mơng ở Hà Giang nói riêng trong tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích
Thúy. Trên cơ sở đó, đem đến cho người đọc những trải nghiệm, khám phá về
văn hóa vùng cao ở cực Bắc của Tổ quốc.
- Những đóng góp của Đỗ Bích Thúy với sự phát triển mảng văn xi
miền núi, dân tộc của văn học Việt Nam hiện đại cũng như đối với sự nghiệp
xây dựng và phát triển đời sống văn hóa vùng cao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ
Bích Thúy do NXB Phụ nữ xuất bản năm 2016. Cụ thể là những biểu hiện
văn hóa người Mơng ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Trong khn khổ phạm vi một khóa luận, chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu những biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp xã hội học: Sử dụng phương pháp này, trước hết chúng
tơi tìm hiểu những tác động của các yếu tố văn hóa, xã hội của vùng đất có
ảnh hưởng như thế nào đến các yếu tố nội dung và nghệ thuật của văn xi
Đỗ Bích Thúy. Đồng thời, cũng lý giải những tín hiệu văn hóa có trong tác

phẩm của chị.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phân tích hình thức nghệ
thuật tác phẩm để làm rõ biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ
Bích Thúy.
- Phương pháp hệ thống: Đặt tác phẩm Chúa đất trong mối quan
hệ biện chứng với một số tác phẩm khác của Đỗ Bích Thúy và trong một số
tác phẩm của các nhà văn khác cùng đề tài.
- Phương pháp liên ngành: tiếp cận đối tượng bằng nhiều cách thức,
dựa trên những dữ liệu của nhiều chuyên ngành như: văn hóa, lịch sử…

6


- Kết hợp các thao tác thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp: Đây là
những thao tác cơ bản trong nghiên cứu các vấn đề văn học, giúp người viết
đi sâu vào khám phá những khía cạnh cụ thể của tác phẩm, từ đó làm rõ biểu
hiện văn hóa trong Chúa đất của Đỗ Bích Thúy.
6. Đóng góp của khóa luận
Đóng góp về mặt lý luận: Thơng qua việc tiếp cận tiểu thuyết Chúa đất
của Đỗ Bích Thúy từ góc nhìn văn hóa, khóa luận góp phần làm rõ hơn những
vấn đề lý thuyết liên quan đến tiếp cận tác giả và tác phẩm văn học bằng
phương pháp văn hóa học.
Đóng góp về mặt thực tiễn: Khóa luận góp phần đi sâu tìm hiểu những
đặc điểm văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất Đỗ Bích Thúy, tiếp cận tác phẩm
của chị từ góc nhìn văn hóa. Cơng trình sẽ góp phần trong việc nghiên cứu
văn học bằng phương pháp tiếp cận văn hóa học
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Phần Nội dung
được triển khai thành 3 chương
Chương 1: Giới thuyết chung

Chương 2: Biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện văn hóa trong tiểu
thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy

7


NỘI DUNG
Chƣơng 1
GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Mối quan hệ văn hóa - văn học và hƣớng nghiên cứu văn học từ góc
nhìn văn hóa
1.1.1. Mối quan hệ văn hóa – văn học
Để hiểu rõ tầm quan trọng của văn hóa và mối quan hệ biện chứng giữa
văn học và văn hóa trước hết chúng ta phải tìm hiểu khái niệm “văn hóa”.
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy trong q trình lao động thực tiễn, trong sự tương
tác với con người, tự nhiên xã hội” [13, 10]. Văn hóa là hồn cốt, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tồn bộ lịch sử dân tộc. UNESCO đã cơng nhận văn hóa là cội
nguồn trực tiếp để phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều
tiết xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa, Đảng ta cũng xác
định rằng: “Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của
con người và xã hội loài người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
định hướng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các
lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy
nghĩ và hành vi của con người.” [5]
“Trong suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành
thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, Đảng ta ln nhận

thức đúng đắn về vị trí, vai trị của văn hóa và thường xun quan tâm lãnh
đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước”
[5]. Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII)
tháng 7 năm 1998, Đảng đã đặt mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” [5].

8


Văn hóa mang bản sắc và phương thức tồn tại của dân tộc. Để giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, cần phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống,
gạn lọc những mặt tiêu cực. Đặc biệt phải ln ln xác định mục tiêu: hịa
nhập chứ khơng hịa tan. Văn học nghệ thuật là một lĩnh vực không nằm
ngồi quy luật đó. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dân tộcViệt Nam đã
thể hiện sức sống kiên cường, mãnh liệt. Và chính sức sống ấy là tiền đề khơi
nguồn để hình thành nên một nền văn học dân tộc tuyệt vời như ngày hôm
nay. Văn học là vừa là “máu”, vừa là “linh hồn” của Tổ quốc. Dòng “máu”
văn học ấy chảy trong lòng dân tộc suốt những chặng đường dài của lịch sử,
đi qua bao thác ghềnh, phong ba và in dấu vào tâm hồn dân tộc chúng ta hôm
nay với một sức sống rạo rực, mãnh liệt.
Standal từng nói rằng:“Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã
hội”. Văn học lại là một trong những bộ phận hợp thành của văn hóa. Do đó
khi nhắc đến văn hóa của một dân tộc thì cũng đồng thời nói đến bản sắc văn
hóa trong văn học, các nhà lí luận văn học khẳng định:“Tính dân tộc của văn
nghệ là tổng hòa mọi đặc điểm độc đáo chung cho các sáng tác của một dân
tộc và phân biệt với các sáng tác dân tộc khác” [11, 102]. Một tác phẩm văn
chương mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thì nó phải kết tinh được những gì
độc đáo nhất, tiêu biểu nhất của dân tộc ấy. Và điều đó được biểu hiện trên cả
hai phương diện nội dung và hình thức.
Ở phương diện nội dung, văn hóa dân tộc được thể hiện qua phong tục

tập quán, ngôn ngữ, con người... Nó phải thể hiện được những nét tinh túy
nhất, tiêu biểu nhất của dân tộc ấy để khi đọc một tác phẩm văn chương, ta
như thấy sống lại những giá trị văn hóa một thuở. Đó có thể là những hàng
bạch dương, mùa thu vàng, thảo nguyên, cánh đồng tuyết trắng, cỗ xe tam
mã... trong văn học Nga; là trà đạo, hoa đạo trong văn học Nhật Bản; là những
làng q thanh bình với cánh cị, cánh đồng chiêm, câu hát ru à ơi... của văn
học Việt Nam. Để khắc họa được những bức tranh mang bản sắc văn hóa ấy

9


khơng thể khơng nhắc tới vai trị của những người nghệ sĩ tài năng đánh thức
những giá trị văn hóa ngàn năm của dân tộc. Những sáng tác của Hồ Xn
Hương so với những tác giả cùng thời thì nó khơng chỉ chứa đựng được tinh
thần dân tộc, tấm lịng nhân đạo cao cả mà đặc biệt hơn những tác phẩm ấy
còn mang những tư tưởng tiến bộ, nhân sinh quan mới mẻ về người phụ nữ.
Đó là tiếng lịng của một người phụ nữ lên tiếng để bảo vệ, giành lấy tình u,
tự do cho chính phái giới của mình được thể hiện qua những bài thơ bà viết về
những sự vật, sự việc hết sức bình thường quanh cuộc sống nhưng mang tính
phồn thực cao.
Về phương diện hình thức, văn hóa dân tộc được thể hiện ở hình tượng
trong tác phẩm, ngôn ngữ, thể loại... Trở lại với những tác phẩm của Bà chúa
thơ Nôm Hồ Xuân Hương, những yếu tố đó được thể hiện qua hình tượng gần
gũi đời thường nhưng lại mang tính ẩn dụ cao đậm màu sắc phái tính và phồn
thực. Hồ Xuân Hương đã vận dụng tài tình lối chơi chữ, nói lái của dân gian
vì thế mà ngơn ngữ thơ bà vừa thanh, vừa tục, vừa gai góc lại châm biếm sâu
cay. Kết hợp những thể thơ truyền thống của dân tộc, bà đã làm nên một
phong cách, dấu ấn Hồ Xuân Hương rất riêng: quen mà lạ trong thi tàng văn
học Việt Nam và lòng người.
1.1.2. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa

Văn học và văn hố có mối quan hệ mật thiết với nhau nên việc nghiên
cứu văn học từ góc độ văn hố là một hướng đi tất yếu và có triển vọng.
Trước khi xuất hiện cách tiếp cận tác phẩm văn học bằng văn hóa đã có
những cách tiếp cận khác có từ trước đó như: xã hội học, mỹ học, thi pháp
học... Đó đều là cách tiếp cận thành công, gây được nhiều tiếng vang qua các
cơng trình nghiên cứu của các giáo sư đầu ngành ở cả Phương Đông và
phương Tây. Hướng tiếp cận văn học bằng văn hoá học tuy ra đời muộn hơn,
chỉ mới xuất hiện từ những thập kỉ gần đây. Nhưng hướng tiếp cận này giúp
chúng ta lý giải tác phẩm thấu đáo và trọn vẹn hơn với những giá trị văn hoá

10


được thể hiện trong tác phẩm văn học. Không những vậy, tiếp cận tác phẩm
văn học từ góc độ văn hóa khơng dừng lại ở góc độ tiếp cận, cách đánh giá,
nhìn nhận tác phẩm văn học mà thực sự còn là một phương pháp nghiên cứu
văn học hiệu quả.
M.Bakhtin cùng từng khẳng định rằng: “Cần phải nghiên cứu văn học
và tác phẩm văn học như những hệ thống chỉnh thể ở hai cấp liên đới. Hệ
thống chỉnh thể của tác phẩm gia nhập hệ thống chỉnh thể của văn học; hệ
thống chỉnh thể của văn học, đến lượt nó, lại gia nhập hệ thống chỉnh thể của
văn hóa; và chỉ có hệ thống văn hóa mới quan hệ trực tiếp với những lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Không thể tách rời văn học ra khỏi hệ thống văn
hóa và “vượt mặt” văn hóa liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị, kinh tế,
xã hội. Những nhân tố ấy tác động trực tiếp đến văn hóa trong chỉnh thể của
nó và chỉ thơng qua nó mà ảnh hưởng đến văn học” [7, 182].
Tóm lại, về mặt lý luận, bản chất của mối quan hệ văn hóa và văn học
có thể giúp cho nghiên cứu văn học Việt Nam xử lý được một số trường hợp
vướng mắc, mâu thuẫn do cách tiếp cận cũ để lại. Nghiên cứu văn học bằng
phương pháp tiếp cận văn hóa học là đi từ cái tổng thể, toàn diện đến cái

thành phần, chi tiết bằng phương pháp loại suy khoa học, hoặc đặt tác phẩm,
tác giả trong mối quan hệ với tồn bộ hệ thống văn hóa, với các thành tố khác:
ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống, cách nghĩ của con người... Sử dụng
phương pháp tiếp cận văn hóa học trong q trình thực hiện đề tài khóa luận
này chúng tơi đặt tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy trong mối quan hệ
chi phối, quy định bởi các đặc điểm, các thành tố, các đặc trưng văn hóa của
vùng cao Hà Giang và cũng đánh giá được phần nào, sự đóng góp của nhà
văn với những giá trị văn hóa vùng cao Hà Giang.

11


1.2. Văn hóa của dân tộc H’Mơng ở Hà Giang
Hà Giang là tỉnh thuộc điểm cực Bắc của Tổ quốc. Với diện tích rộng
lớn, địa hình đồi núi là chủ yếu nên đây là địa bàn cư trú của nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số. Đặc biệt, ở đây người H’Mông chiếm tỉ lệ cao nhất: trên 31%
dân số các dân tộc trong tỉnh. Khơng chỉ là dân tộc có tỉ lệ dân số đơng nhất ở
Hà Giang, H’Mơng cịn là dân tộc có nền văn hóa truyền thống đặc sắc với
những biểu hiện phong phú với nhiều phong tục tập qn, lễ nghi, tín ngưỡng.
Trước khi tìm hiểu những nét văn hóa đặc sắc, chúng ta phải biết được
nguồn gốc và lịch sử của người H’Mông ở Việt Nam. Theo các nhà nghiên
cứu lịch sử, dân tộc H’Mơng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Khoảng 300 năm
trước đây, do các cuộc chiến tranh phong kiến tranh giành quyền lợi ở Trung
Quốc mà họ phải di cư về phía Nam sinh sống. Địa bàn đầu tiên mà người
H’Mông cư trú khi đến Việt Nam là ở huyện Mèo Vạc và Đồng Văn thuộc
tỉnh Hà Giang nên họ coi đây như tổ tiên, quê hương nguồn cội của mình.
Trang phục truyền thống của phụ nữ H’Mông vô cùng sặc sỡ và đa
dạng bao gồm: áo yếm lửng xẻ ngực, váy, xà cạp để quấn hai bụng chân, thắt
lưng, tấm xiêm che trước bụng, khăn quấn đầu,... Váy thường có hình nón cụt,
xếp nếp xoè rộng. Hoa văn trang trí trên váy rất phong phú với các họa tiết

được thêu bằng tay hình bướm, rắn, hoa, răng bừa, mắt chim... có màu sắc sặc
sỡ. Vào những ngày lễ tết, họ thường đeo thêm trang sức bằng bạc (khuyên
tai, vòng cổ, vòng chân, nhẫn,…) để tôn lên vẻ đẹp duyên dáng và thu hút ánh
nhìn của mọi người xung quanh.
Người H’Mơng sống ở độ cao 800 đến 1700m so với mặt nước biển
trên các cao nguyên đá. Ở đó nước rất hiếm nên họ chủ yếu sống bằng nghề
làm nương rẫy và lương thực chính của họ là ngơ. Do ở trên các cao nguyên
đá đất ít, chủ yếu là canh tác trong các hốc đá nên người H’Mơng có kỹ thuật
thâm canh, xen canh khá cao: trên cùng nương ngơ họ có thể trồng xen cả bí

12


và dưa. Một số món ăn truyền thống và đặc trưng của người H’Mông như
mèn mén, rượu ngô, thắng cố, bánh tam giác mạch…
Vật nuôi không thể thiếu của người H’Mông là ngựa. Ngựa dùng để
cưỡi và thồ hàng. Khi bán và đổi ngựa người H’Mông giữ lại bộ yên cương vì
họ cho rằng, có giữ lại bộ n cương thì mua con ngựa sau mới tốt. Ngồi ra
họ cịn nuôi dê, lợn, gà, ngan, ngỗng... để trao đổi mua bán, làm thức ăn phục
vụ các dịp lễ tết, cưới xin,…
So với các dân tộc khác, nhà ở của người H’Mông khá khang trang và
kiên cố: Nhà gỗ lợp tranh, lá, phên vách hoặc nhà trình tường lợp ngói âm
dương. Nhà được chia làm ba gian và phía trên áp mái thường có gác xép để
cất lương thực, dụng cụ trong nhà. Nhà người H’Mông làm thống nhất theo
một khuôn mẫu nhất định dù là nhà tranh, phên vách hay trình tường đều phải
theo dáng chữ đinh.
Hơn nhân của dân tộc H’Mông theo tập quán tự do, tự kén chọn bạn
đời. Họ khơng có hơn nhân cận huyết. Trước đây, việc lựa chọn bạn đời
thường qua tục cướp vợ. Tuy nhiên việc bắt vợ phải diễn ra khéo léo và tuân
thủ các nguyên tắc của tập tục này. Nếu bắt vợ chỉ vì tình yêu đơn phương

của chàng trai mà khơng được cơ gái đồng ý thì coi như hơn ước bị hủy bỏ và
nhà trai sẽ phải đền danh dự cho nhà gái, dân làng đến bắt vạ ăn uống trong
vịng 7 ngày.
Tết Ngun Đán có thể coi là ngày hội lớn của người H’Mông và được
chuẩn bị rất chu đáo, cẩn thận. Người H’Mông chuẩn bị giấy xanh, đỏ, giấy
bản, gà trống, trứng gà, ngô, rượu, nước, những gia đình khá giả có thể mổ
lợn, dê, bị... làm lễ cúng tết. Tết không chỉ là dịp nghỉ ngơi, ăn uống thoải
mãi mà cịn là dịp để gia đình sum họp, con cháu làm lễ cúng viếng tổ tiên,
chào mừng ngày âm dương giao hoà và cầu chúc cho năm mới mùa màng bội
thu, vạn sự bình an, tốt đẹp.

13


Ngồi ra người H’Mơng cịn có rất nhiều lễ hội khác như: Lễ hội Gầu
Tào, lễ cúng mưa, cúng cơm mới,…Trong đó đặc biệt phải kể đến chợ tình
Khâu Vai ở huyện Mèo Vạc, được tổ chức vào ngày 27/3 âm hàng năm. Chợ
tình là một hình thức sinh hoạt đặc biệt, có tính nhân văn sâu sắc. Người ta
đến chợ khơng chỉ để sinh hoạt văn hố: múa khèn, đua ngựa, thổi kèn lá...
mà cịn để gặp gỡ, tìm bạn đời, hàn hun gắn bó tình cảm với nhau. Ngày
nay, chợ tình Khâu Vai của người H’Mơng Hà Giang được biết đến nhiều
hơn, phiên chợ khơng chỉ có người Mơng ở Hà Giang mà cịn thu hút hàng
ngàn lượt khách thập phương đến trải ngiệm và khám phá.
Trong 54 dân tộc của Việt Nam, H’Mơng là dân tộc có bản sắc văn hóa
truyền thống ít bị mai một nhất. Trong thời kì hội nhập, mở cửa văn hóa như
ngày nay, để phát triển mà khơng bị hịa tan, đánh mất bản sắc dân tộc cần
phải có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng. Có như vậy những giá trị văn
hóa truyền thống mới được bảo tồn và phát huy qua thời gian.
1.3. Tác giả Đỗ Bích Thúy với văn hóa dân tộc H’Mơng
1.3.1. Đơi nét về tác giả Đỗ Bích Thúy

Đỗ Bích Thúy sinh ngày 13/04/1975, dân tộc Kinh, là cây bút trẻ của
văn học Việt Nam đương đại. Chị quê gốc ở Nam Định, nhưng sinh ra và lớn
lên ở Hà Giang - mảnh đất thuộc địa đầu cực Bắc của Tổ quốc, nơi có cao
nguyên đá Đồng Văn bên bờ sông Nho Quế huyền thoại. Hà Giang còn được
mệnh danh là xứ sở “đá nở hoa” bởi khắp nơi trên đó đều là bạt ngàn hoa:
màu vàng của hoa cải, sắc trắng của hoa mận, cái đỏ thắm của hoa đào, chút
hồng phớt và cả tím của tam giác mạch… Tuổi thơ Đỗ Bích Thúy có nhiều
khó khăn, thiếu thốn. Chị lớn lên bằng dịng sữa của những bà mẹ H’Mơng,
nói được cả tiếng địa phương, ăn được mèn mén và am hiểu sâu sắc cuộc
sống đồng bào vùng cao nơi đây. Chính mảnh đất cao nguyên đá ấy đã nuôi
dưỡng tâm hồn “đứa con của núi rừng” suốt ngần ấy năm. Đỗ Bích Thúy bén
duyên với văn chương từ rất sớm, năm 17 tuổi truyện ngắn Chuỗi hạt cườm

14


màu xám được đăng trên báo Tiền phong và đạt giải A cuộc thi Tác phẩm
tuổi xanh năm 1995. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Tài chính – Kế tốn, chị
được mời về làm việc tại Hội Văn nghệ Hà Giang khi có một vị khách đọc
được truyện ngắn, mời chị về làm việc. Nhưng sau đó Đỗ Bích Thúy lại đến
với nghề báo, trở thành cơ phóng viên trẻ của Báo Hà Giang. Bốn năm trời
lặn lộn với nghề báo, bàn chân chị đã in hằn lại dấu vết ở khắp các làng bản,
các đồn biên phịng vùng Đơng Bắc, Tây Bắc của Tổ quốc. Những bài báo chị
viết ra có cả mùi mồ hơi, và mùi hiểm nguy mà người cầm bút phải đối mặt.
Dự định gắn bó lâu dài với nghề, Đỗ Bích Thúy đi học tiếp lại Phân viện Báo
chí Tuyên truyền. Sau khi tốt nghiệp Phân viện (năm 27 tuổi), cánh cửa “nhà
số 4” Lý Nam Đế (cách gọi thân mật Tạp chí Văn nghệ Quân đội) đã mở cửa
chào đón chị về làm việc. Đỗ Bích Thúy trở thành nhà văn nữ thứ hai, sau
Nguyễn Thị Như Trang, công tác tại đây. Năm 35 tuổi, chị lên quân hàm
Thượng úy và trở thành nữ Phó tổng biên tập đầu tiên trong lịch sử hơn 50

năm của Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Hiện tại, với quân hàm Trung tá, nhà văn Đỗ Bích Thúy đã xuất bản 19
cuốn sách gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn, trong đó có một số tác phẩm
được chuyển thể thành kịch bản phim truyền hình.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Đỗ Bích Thúy đến với văn chương khá sớm, năm 17 tuổi với truyện
ngắn đầu tay Chuỗi hạt cườm màu xám được in trên báo Tiền phong, nữ nhà
văn đã bắt đầu được dư luận chú ý. Sau đó, Đỗ Bích Thúy nhanh chóng khẳng
định vị trí trên văn đàn với 3 truyện ngắn đạt giải Nhất (Sau những mùa trăng,
Ngải đắng trên núi, Đêm cá nổi) từ cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Văn
nghệ quân đội 1998 –1999. Tên tuổi của nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy từ đó
được độc giả biết đến nhiều hơn. Tiểu thuyết Bóng của cây sồi sau này cũng
đem lại cho chị giải thưởng trong cuộc thi sáng tác văn học cho tuổi trẻ lần 2
– NXB Thanh niên 2005.

15


So với những nhà văn lão thành, chặng đường viết văn của Đỗ Bích
Thúy chưa dài, nhưng chị đã thật sự tâm huyết và nghiêm túc cho nghề. Công
tác ở Tạp chí Văn nghệ qn đội cũng có đặc thù riêng đòi hỏi mỗi người làm
việc tại đây phải đảm nhận song song hai vai trò: vừa là nhà báo với việc biên
tập giỏi vừa là tác giả tài năng. Vì thế mỗi tháng chị phụ trách 2 số báo của
Tạp chí và gần như năm nào Đỗ Bích Thúy cũng xuất bản một cuốn sách.
Tính đến thời điểm hiện tại, sau hơn 20 năm công tác, nữ nhà văn đã cho xuất
bản 19 đầu sách từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, trong đó chủ yếu mang âm
hưởng vùng cao và được sự quan tâm đánh giá cao của giới chun mơn và
độc giả.
Tác phẩm chính của Đỗ Bích Thúy bao gồm:
- Tiểu thuyết

+Bóng của cây sồi (NXB Thanh niên, 2005)
+ Cánh chim kiêu hãnh (NXB Quân đội, 2013)
+ Cửa hiệu giặt là (NXB Phụ nữ, 2014)
+ Chúa đất (NXB Phụ nữ, 2016)
+ Lặng yên dưới vực sâu (NXB Hội nhà văn,2017)
- Truyện ngắn:
+ Sau những mùa trăng (NXB Văn nghệ Quân đội, 2001)
+ Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (NXB Công an Nhân dân, 2005)
+ Người đàn bà miền núi (NXB Phụ nữ, 2008)
+ Những buổi chiều ngang qua cuộc đời (NXB Thanh niên, 2003)
+ Kí ức đơi guốc đỏ (NXB Kim Đồng, 2004)
+ Mèo đen (NXB Thời đại, 2011)
+ Đàn bà đẹp (NXB Văn học, 2013)
- Tản văn:
+ Đến độ hoa vàng (NXB Phụ nữ)
+ Trên căn gác áp mái (NXB Phụ nữ)

16


+ Tôi đã trở về trên núi cao (NXB Hội nhà văn, 2018)
- Truyện thiếu nhi
+ Em béo và hội cầu vồng (NXB Kim Đồng, 2012)
Đặc biệt Đỗ Bích Thúy cịn bén dun mơn “nghệ thuật thứ bảy”- điện
ảnh. Đây là bước đệm quan trọng trên thành trình sáng tạo nghệ thuật và
khẳng định được bản lĩnh của chị. Nhiều ý kiến cho rằng: từ văn chương
chuyển sang kịch bản thì văn chương sẽ bị “hỏng”, nhưng điều đó khơng làm
khó được nữ nhà văn bởi viết kịch bản cũng là để trau dồi thêm tư duy logic
và bút lực của mình. Đỗ Bích Thúy cũng từng chia sẻ như vậy vào năm 2005
khi chị vừa được giải A trong cuộc thi sáng tác điện ảnh với kịch bản Người

yêu ơi. Trả lời phỏng vấn báo VOV, Đỗ Bích Thúy tâm sự:“Viết kịch bản đã
giúp trang bị cho tôi một thứ kĩ năng mà xưa nay tôi kém, đấy là tư duy logic.
Nhân vật phải cực kì sắc nét, nhân vật nào ra nhân vật ấy, tuyệt đối không lẫn
lộn, từ cách nói năng, suy nghĩ, hành xử… Nếu khơng viết kịch bản, thì tơi
chưa luyện được kĩ năng ấy. Khi viết tiểu thuyết, cảm xúc mãnh liệt có thể
khiến người viết quá đà ở điểm này và sơ sài ở điểm kia, kịch bản không cho
phép như vậy. Người viết luôn phải cân bằng giữa cảm xúc và tư duy. Đây là
điều lớn nhất mà tôi thu được từ sau khi hồn thành 30 tập kịch bản phim
truyền hình “Chuyện tình bên đồng hoa tam giác mạch” [22].
Truyện ngắn Tiếng đàn mơi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy được đạo
diễn Ngô Quang Hải chuyển thể thành phim Chuyện của Pao. Bộ phim đã
đoạt giải phim truyện nhựa hay nhất trong lễ trao giải Cánh diều vàng năm
2006 của Hội Điện ảnh Việt Nam. Với thành công này, cái tên Đỗ Bích Thúy
đã thực sự tỏa sáng trong làng văn Việt Nam và được rất nhiều người hâm
mộ, được sự quan tâm từ bạn đọc và báo giới. Cũng trong năm 2015, nữ nhà
văn cũng viết xong kịch bản 32 tập phim truyền hình chuyển thể từ tiểu thuyết
Lặng yên dưới vực sâu. Bộ phim lấy bối cảnh chính là Cao nguyên đá Hà
Giang, xoay quanh câu chuyện tình của Vừ, Phống, Súa, Xí, Chía... những

17


thanh niên người Mông ở vùng núi U Khố Sủ. Đầu năm 2016, Đỗ Bích Thúy
cho ra mắt tiểu thuyết Chúa đất, sau đó lại bắt tay vào viết kịch bản phim
Chúa đất. Người đọc và người xem truyền hình sẽ được tiếp tục quan sát, so
sánh về những số phận của Đỗ Bích Thúy từ trang sách đến màn ảnh. Và sẽ
có những diễn biến, kết thúc số phận nhân vật bất ngờ khác với nguyên tác
trên trang sách nhưng điều đó sẽ làm tăng thêm sự thú vị và lơi cuốn hơn cho
người thưởng thức, trong đó có chính tác giả.
Phong cách viết văn của Đỗ Bích Thúy mộc mạc, giản dị như mây trời

núi rừng, đậm đà bản sắc văn hóa vùng cao. Nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận
xét rằng chị “là một trong những cây bút nữ quan trọng nhất hiện nay ở mảng
văn học về đề tài miền núi” [4]. Chính cái phong cách riêng ấy là ngọn hải
đăng soi đường để tác giả có thể xác định phương hướng và khơi sâu những
mạch ngầm cảm xúc. Thứ cảm xúc mà tâm hồn người viết như hòa quyện,
đồng hành cùng nhân vật trên từng bước đi, từng hơi thở. Đặc biệt hơn, hầu
hết các tác phẩm của chị đều viết về đề tài miền núi, về mảnh đất Hà Giang
nhưng khơng hề có sự trùng lặp, nhàm chán . Và đề tài miền núi cho đến giờ
với chị: “Vẫn là một vùng đất mà tôi vừa thuộc về vừa cảm thấy chưa bao giờ
tôi hiểu nó đến tận cùng. Thế nên, cứ viết vậy thơi”[4]. Mỗi tác phẩm sẽ là
những cảnh đời khác nhau, có những suy tư, trăn trở, những lời tâm tình,
những tiếng thở dài nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng réo rắt.
1.3.3. Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy và sự phản ánh văn hóa dân
tộc H’Mơng
Nói về tiểu thuyết Chúa đất, Đỗ Bích Thúy cho biết: “Tiểu thuyết này
được lấy cảm hứng từ một truyền thuyết cách đây khoảng 2 thế kỷ ở vùng
Đường Thượng (Yên Minh - Hà Giang). Đó là truyền thuyết vô cùng bi tráng
về chúa đất Sùng Chúa Đà và cây cột đá chỉ dùng để treo người. Cột đá cao
1,9m, hai bên có hai cái lỗ để nhét tay người bị hành quyết vào. Tất cả những
ai trêu ghẹo vợ chúa, và vi phạm luật lệ do ông đặt ra đều bị chúa đất bắt

18


phải chết bằng cơng cụ man rợ đó. Hiện cột đá này đang được lưu giữ tại
Bảo tàng tỉnh Hà Giang” [20]. Hơn 20 năm trước, khi Đỗ Bích Thúy là
phóng viên báo Hà Giang, chị đã có nhiều dịp công tác ở Đường Thượng.
Những chuyến đi thực tế vào vùng cao ấy để lại trong chị rất nhiều ấn tượng
khó phai, nữ nhà văn từng chia sẻ rằng: “Đường Thượng thực sự là một vùng
đất gợi cảm. Thung lũng tuyệt đẹp chạy dài với hai bên núi cao dựng đứng, là

thung lũng đẹp nhất trên cao nguyên cực Bắc… Vùng đất lại nhiều huyền
tích, thực thực hư hư chưa biết đâu mà kết luận. Và chỉ với một Sùng Chúa
Đà tơi đốn rằng trên thế giới cũng khó tìm đâu một chúa đất tàn bạo, nghĩ
ra cách hành quyết ghê rợn như chúa Đà” [20]. Chính điều đó đã thơi thúc
Đỗ Bích Thúy chấp bút viết tác phẩm này.
Chúa đất là tác phẩm văn học thứ 13 viết về đề tài dân tộc miền núi của
nhà văn Đỗ Bích Thúy. Sau 18 năm gắn bó với Hà Nội, chị đã có bước
chuyển vùng sáng tác về đề tài đơ thị, nhưng sau đó Đỗ Bích Thúy lại quay
trở về với đề tài miền núi máu thịt, nơi luôn khiến ngòi bút của chị thăng hoa
và tiểu thuyết Chúa đất là minh chứng cho điều đó. Có thể nói đây là cuốn
sách “kỷ lục” của Đỗ Bích Thúy: kỷ lục với thời gian viết và xuất bản. Tác
phẩm chỉ được viết vẻn vẹn trong 17 ngày và in trong một tháng. Sau khi
hồn thành cuốn sách này, Đỗ Bích Thúy cho biết, chị thấy “như mình bị hút
cạn kiệt sinh lực” [16].
Tiểu thuyết Chúa đất gồm có 19 chương, mỗi chương được mở đầu
bằng một câu dân ca của người H’Mông. Sùng Chúa Đà là một bạo chúa ở
vùng cao Đường Thượng nhưng lại có bi kịch khơng thể làm đàn ông. Cuộc
đời Sùng Chúa Đà gắn liền với sự tích cây cột đá hành quyết. Đoạn đầu của
tiểu thuyết kể về việc Chúa đất xây cột đá để phạt chết, trừng trị những người
gây tội với y. Chúa đất có đầy đủ quyền uy và tiền bạc, nhưng khơng thể có
tình u, mặc dù tất cả những cơ gái đẹp nhất vùng Đường Thượng đều rơi
vào tay hắn ngay từ khi họ mới là đóa hoa hàm tiếu hé nở. Bà Cả có một tình

19


×