Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.3 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
BÀI VIẾT CỦA PAUL KRUGMAN
Nguồn: Foreign Affairs
Số báo: Tháng 3/Tháng 4 năm 1994 (tập 73, số 2)
Paul Krugman là Giáo sư môn Kinh tế học tại Viện Công nghệ Massachusetts. Cuốn
sách mới nhất của ông nhan đề là “Peddling Prosperity: Economic Sense and
Nonsense in the Age of Diminished Expectations” (w.w. Norton)
GIẢ THUYẾT SAI
Vào tháng 6 năm 1993, Jacques Delors thực hiện một buổi trình bày đặc biệt trước các
nhà lãnh đạo của các quốc gia trong Cộng đồng Châu Âu, đang họp ở Copenhagen, về
vấn đề thất nghiệp ở Châu Âu ngày càng tăng. Các nhà kinh tế học nghiên cứu về
tình hình Châu Âu đã hiếu kỳ muốn biết Jacques Delors, vị Chủ tịch của Ủy ban Cộng
đồng Châu Âu, sẽ nói gì. Hầu hết các nhà kinh tế học này ít nhiều có chung một cách
chẩn đốn giống nhau về vấn đề của Châu Âu: các sắc thuế và các qui định do các
nhà nước phúc lợi phức tạp của Châu Âu áp đặt làm cho những người chủ tuyển dụng
miễn cưỡng trong việc tạo ra việc làm mới. Trong khi đó, mức trợ cấp thất nghiệp
tương đối hào phóng đã làm cho cơng nhân không muốn chấp nhận các loại việc làm
lương thấp, mà chính các loại việc làm này giúp giữ được mức thất nghiệp tương đối
thấp ở Hoa Kỳ. Những khó khăn về tiền tệ gắn với việc duy trì Hệ thống Tiền tệ
Châu Âu bất chấp các chi phí của việc tái thống nhất nước Đức đã làm cho vấn đề khó
khăn về cơ cấu này trầm trọng thêm.
Đó là một sự chẩn đốn có tính thuyết phục, nhưng là chẩn đốn mang tính
bùng nổ về chính trị, và mọi người muốn biết Delors sẽ xử lý nó như thế nào. Ông có
Đó là một sự tránh né thật đáng thất vọng, nhưng điều đó khơng làm mọi
người ngạc nhiên. Rốt cuộc thì thuật hùng biện về khả ăng cạnh tranh – tức là quan
điểm cho rằng, theo lời của Tổng thống Mỹ Clinton, mỗi quốc gia “giống như một
công ty lớn cạnh tranh trên thị trường toàn cầu” – đã trở nên phổ biến trong số các
nhà lãnh đạo dư luận trên khắp thế giới. Những người tin rằng mình có hiểu biết sắc
bén về chủ đề này xem như đương nhiên rằng vấn đề kinh tế mà các quốc gia hiện đại
phải đối mặt thực chất là vấn đề cạnh tranh trên thị trường thế giới – nghĩa là Hoa Kỳ
và Nhật Bản là các đối thủ cạnh tranh theo nghĩa giống như Coca-Cola cạnh tranh với
Pepsi – và họ không biết rằng người nào cũng có thể đặt nghi vấn nghiêm túc về lời
khẳng định đó. Cứ vài tháng lại có một cuốn sách mới bán chạy nhất cảnh báo công
chúng Hoa Kỳ về những hậu quả nặng nề của việc thua cuộc trong cuộc “chạy đua”
vào thế kỷ 21. Toàn bộ một ngành nghiên cứu gồm các hội đồng về khả năng cạnh
tranh, “các nhà địa kinh tế học” và các nhà lý thuyết về ngoại thương có quản lý đã
xuất hiện ở Washington. Nhiều trong số những người này đã chẩn đoán các vấn đề
kinh tế của Hoa Kỳ bằng những lời lẽ rất giống với Delors đã chẩn đoán cho Châu
Âu. Hiện nay (năm 1994) họ đang giữ những vị trí cao nhất trong chính quyền
Clinton, hình thành chính sách kinh tế và thương mại cho Hoa Kỳ.
Thật đáng tiếc là sự chẩn đoán của Jacques Delors là một hướng dẫn gây lầm
lẫn hết sức về những yếu tố làm suy yếu Châu Âu. Những sự chẩn đoán tương tự ở
Hoa Kỳ cũng gây lầm lẫn như thế. Ý tưởng cho rằng vận may về kinh tế của một
quốc gia phần lớn được quyết định bởi thành công của quốc gia này trên các thị trường
thế giới chỉ là một giả thuyết, chứ không phải là một sự thật tất yếu; trong thực
nghiệm và thực tiễn, giả thuyết này dứt khoát sai. Nghĩa là, đơn giản là không đúng
địa và đe dọa hệ thống kinh tế quốc tế. Dĩ nhiên nhìn trên quan điểm chính sách cơng
thì vấn đề cuối cùng này quan trọng nhất. Tư duy bị chi phối bởi khả năng cạnh tranh
sẽ trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến các chính sách kinh tế tồi về một loạt nhiều vấn đề,
trong nước và ngoài nước, dù là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe hay thương mại.
<b>Cạnh tranh không suy nghó </b>
Hầu hết những người sử dụng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” đều sử dụng mà không
hề suy đi nghĩ lại. Đối với họ, dường như hiển nhiên rằng sự tương đồng giữa một
quốc gia và một công ty là hợp lý, và đặt câu hỏi liệu Hoa Kỳ có sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới hay không trên nguyên tắc cũng khơng khác gì đặt câu hỏi liệu
công ty General Motors có sức cạnh tranh trên thị trường xe tải nhỏ ở Bắc Mỹ hay
không.
Tuy nhiên, trên thực tế việc cố gắng định nghĩa khả năng cạnh tranh của một
quốc gia rắc rối hơn nhiều so với việc định nghĩa khả năng cạnh tranh của một cơng
ty. Kết quả cuối cùng (dịng cuối cùng trong các bảng kết toán cho biết tổng số lợi
nhuận hay tổng số lỗ) của một cơng ty chính là kết quả cuối cùng của nó đúng theo
nghĩa đen: nếu một công ty không đủ tiền trả tiền công cho người lao động, trả cho
Hầu hết các tác giả có lo lắng một tí nào đó về vấn đề này vì thế đã cố gắng
định nghĩa khả năng cạnh tranh như một kết hợp của thành quả về thương mại và một
điều gì khác. Đặc biệt, định nghĩa thông dụng nhất về khả năng cạnh tranh ngày nay
đi theo hướng của định nghĩa được đưa ra trong <Ai đánh bại ai?> của Chủ tịch Hội
đồng Các Nhà Cố vấn Kinh tế, Laura D’Andrea Tyson: khả năng cạnh tranh là “khả
năng của chúng ta sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được kiểm định của cạnh
tranh quốc tế trong khi công dân của chúng ta hưởng được một mức sống vừa tăng lên
vừa có thể duy trì bền vững”. Định nghĩa này nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên nếu bạn
suy nghĩ về nó, và kiểm tra những ý nghĩ của bạn so với sự thực, thì bạn sẽ nhận thấy
rằng định nghĩa này cịn ít hợp lý hơn nhiều so với mình tưởng lúc ban đầu.
Hãy suy nghĩ một lát xem định nghĩa này sẽ có nghĩa gì đối với một nền kinh
tế tiến hành thương mại quốc tế rất ít, như Hoa Kỳ trong thập niên 1950. Đối với một
quốc gia như thế, khả năng cân bằng thương mại hầu như là vấn đề có được tỷ giá hối
đoái đúng. Nhưng do thương mại quốc tế chỉ là một yếu tố nhỏ bé như thế trong nền
kinh tế, nên mức tỷ giá hối đoái chỉ là một yếu tố ảnh hưởng thứ yếu đến mức sống.
Như thế, trong một nền kinh tế tiến hành thương mại quốc tế rất ít, thì việc nâng cao
mức sống – và như thế là nâng cao “khả năng cạnh tranh” theo định nghĩa của Tyson
– sẽ được quyết định hầu như hoàn toàn bởi các yếu tố trong nước, chủ yếu là tốc độ
tăng trưởng năng suất. Đó chính là tăng trưởng năng suất trong nước – không phải là
tăng trưởng năng suất so với các quốc gia khác. Nói cách khác, đối với một nền kinh
Nhưng chắc chắn điều nói trên sẽ thay đổi khi thương mại quốc tế trở nên quan
trọng hơn, như quả thật nó đã trở nên quan trọng hơn đối với hầu hết các nền kinh tế
lớn? Chắc chắn là có thể thay đổi. Giả sử một quốc gia nhận thấy rằng mặc dù năng
suất tăng lên đều đặn, nhưng quốc gia này chỉ có thể thành cơng trong xuất khẩu nếu
nó phá giá đồng tiền của nó nhiều lần, bán hàng xuất khẩu luôn luôn rẻ hơn trên các
thị trường thế giới. Như thế, mức sống ở quốc gia này, vốn phụ thuộc vào sức mua
của nó đối với hàng nhập khẩu cũng như hàng sản xuất nội địa, có thể thực sự giảm
sút. Nói theo thuật ngữ chuyên môn của các nhà kinh tế học, tăng trưởng nội địa có
thể bị áp đảo bởi tỷ giá ngoại thương (tỷ giá trao đổi mậu dịch) xấu đi. Vì thế, “khả
năng cạnh tranh” hóa ra có thể chung cuộc thực sự là về cạnh tranh quốc tế.
Để trả lời câu hỏi này, người ta chỉ cần xem số liệu về hạch toán thu nhập
quốc dân mà Bộ Thương mại (Hoa Kỳ) công bố định kỳ trong Điều tra Hoạt động
Kinh doanh Hiện hành. Thước đo thông thường về tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ tất
nhiên là GNP thực – một thước đo đem chia giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
ra ở Hoa Kỳ cho các chỉ số giá thích hợp để cho ra một giá trị ước lượng sản lượng
quốc gia thực. Tuy nhiên, Bộ Thương mại cũng công bố một số liệu được gọi là “GNP
chỉ huy” (“Command GNP”). Nó tương tự như GNP thực ngoại trừ việc nó chia xuất
khẩu không phải cho chỉ số giá xuất khẩu mà cho chỉ số giá của nhập khẩu của Hoa
Kỳ. Nghĩa là, xuất khẩu được định giá bởi những gì mà người Mỹ có thể mua với số
tiền mà xuất khẩu mang lại. Vì thế cho nên GNP chỉ huy đo lường khối lượng hàng
hóa và dịch vụ mà nền kinh tế Hoa Kỳ có thể “chỉ huy” – tức là sức mua của quốc gia
– chứ không phải khối lượng mà nền kinh tế này sản xuất ra. Và như chúng ta vừa
thấy, “khả năng cạnh tranh” có nghĩa là một thứ gì đó khác với “năng suất” chỉ và chỉ
khi sức mua tăng trưởng chậm hơn một cách đáng kể so với sản lượng.
Sau đây là những con số. Trong giai đoạn 1959-1973, giai đoạn tăng trưởng
Những phép tính toán tương tự đối với Cộng đồng Châu Âu và Nhật Bản cho
chúng ta các kết quả tương tự. Trong mỗi trường hợp, tỷ lệ tăng trưởng mức sống về
cơ bản bằng với tỷ lệ tăng trưởng năng suất nội địa – không phải năng suất so với các
đối thủ cạnh tranh, mà chỉ là năng suất nội địa. Mặc dù thương mại thế giới lớn đến
mức chưa từng thấy trước đây, nhưng mức sống của quốc gia được quyết định một
cách áp đảo bởi các yếu tố nội địa chứ không phải bởi sự cạnh tranh giành các thị
trường thế giới.
đó – hầu như là tất cả doanh số bán của nó, mà doanh số bán này lớn hơn 2,5 lần giá
trị gia tăng của công ty.
Hơn nữa, các quốc gia không cạnh tranh với nhau theo cách mà các công ty
cạnh tranh. Coke và Pepsi hầu như là các đối thủ cạnh tranh thuần túy: chỉ một phần
không đáng kể doanh thu của Coca-Cola đến tay các công nhân của Pepsi, chỉ một
phần không đáng kể hàng hóa mà các cơng nhân của Coca-Cola mua là sản phẩm của
Pepsi. Vì thế, nếu Pepsi thành cơng, thì thành cơng này có khuynh hướng là xảy ra
với tổn thất do Coke gánh chịu. Nhưng các quốc gia công nghiệp lớn, mặc dù họ bán
sản phẩm cạnh tranh với nhau, nhưng họ cũng là các thị trường xuất khẩu chính của
nhau và cũng là các nhà cung cấp chính của nhau đối với hàng nhập khẩu hữu ích.
Nếu nền kinh tế Châu Âu hoạt động tốt thì khơng nhất thiết là với phí tổn do Hoa Kỳ
gánh chịu; quả thật, nếu có điều gì đó quan trọng thì đó chính là một nền kinh tế Châu
Âu thành cơng rất có thể sẽ giúp nền kinh tế Hoa Kỳ bằng cách cung cấp cho nó các
Như thế, thương mại quốc tế không phải là một trò chơi có tổng bằng zero.
Khi năng suất gia tăng ở Nhật Bản, thì kết quả chính là gia tăng mức tiền cơng thực
của người Nhật; các mức tiền công ở Hoa Kỳ và Châu Âu trên ngun tắc ít nhất cũng
có khả năng tăng lên ngang bằng khả năng giảm xuống, và trong thực tiễn có vẻ gần
như khơng bị ảnh hưởng.
Người ta có thể cơng kích luận điểm nói trên, nhưng bài học thật rõ ràng: mặc
dù các vấn đề cạnh tranh có thể nảy sinh trên nguyên tắc, nhưng như một vấn đề thực
nghiệm trong thực tiễn thì các quốc gia lớn trên thế giới khơng cạnh tranh với nhau ở
mức độ đáng kể nào. Dĩ nhiên, ln ln có sự cạnh tranh để giành địa vị và quyền
lực – các quốc gia tăng trưởng nhanh hơn sẽ thấy thứ hạng về chính trị của mình tăng
lên. Vì thế việc so sánh các quốc gia luôn luôn là điều thú vị. Nhưng khẳng định rằng
tăng trưởng của Nhật Bản làm yếu đi địa vị của Hoa Kỳ khác xa việc nói rằng nó làm
giảm mức sống của Mỹ – và chính thuật hùng biện về khả năng cạnh tranh khẳng
định điều thứ hai.
<b>Phép tính số học bất cẩn </b>
Một trong những đặc điểm gây sửng sốt, đáng chú ý của nhiều tài liệu về khả năng
cạnh tranh là xu hướng lặp đi lặp lại của các tác giả rất thơng minh dính dự vào việc
có thể được mô tả một cách tế nhị nhất là “phép tính số học bất cẩn”. Những lời
khẳng định được đưa ra nghe như những lời tuyên bố về các tầm mức (magnitudies) có
thể tính được, nhưng các tác giả khơng thực sự trình bày bất kỳ số liệu nào về các tầm
mức này và như thế không chú ý rằng các số liệu thực tế mâu thuẩn với những lời
khẳng định của họ. Hoặc số liệu trình bày được cho là ủng hộ lời khẳng định của tác
giả, nhưng tác giả lại không chú ý rằng các con số của chính mình đưa ra cho thấy
rằng điều mình đang nói khơng thể đúng sự thực. Rất nhiều lần người ta tìm thấy các
cuốn sách và các bài viết về khả năng cạnh tranh mà dường như đối với người đọc
Trong một bài viết gần đây được công bố ở Nhật Bản, Lester Thurow giải thích
cho cử tọa của ông về tầm quan trọng của việc cắt giảm thặng dư thương mại của
Nhật với Hoa Kỳ. Ông đã chỉ ra rằng mức tiền công thực ở Hoa Kỳ đã giảm sáu phần
trăm trong suốt những năm dưới thời Reagan và Bush, và lý do là các khoản thâm hụt
thương mại về hàng công nghiệp chế tạo đã đẩy công nhân ra khỏi các việc làm trong
công nghiệp chế tạo với tiền công cao sang các việc làm về dịch vụ với tiền công
thấp.
Đây không phải là một quan điểm mới mẻ, nó đã được nhiều người đưa ra.
Nhưng Thurow trình bày cụ thể hơn hầu hết những người khác, ông đưa ra các con số
thực tế về công việc và mất mát tiền cơng. Ơng khẳng định một triệu việc làm trong
công nghiệp chế tạo đã mất đi bởi vì thâm hụt nói trên và việc làm trong công nghiệp
chế tạo trả công nhiều hơn các công việc dịch vụ 30 phần trăm.
Cả hai con số này đều đáng hoài nghi. Con số một triệu việc làm là quá cao,
và chênh lệch tiền công 30 phần trăm giữa công nghiệp chế tạo và dịch vụ chủ yếu là
do chênh lệch trong độ dài của tuần làm việc, chứ không phải chênh lệch trong mức
tiền công hàng giờ. Nhưng chúng ta hãy xem như các con số của Thurow là đúng.
Chúng có nói lên câu chuyện ơng đề xuất hay khơng?
nhân này ít hơn 1% lực lượng lao động Hoa Kỳ nên điều này sẽ làm giảm mức tiền
cơng trung bình ở Hoa Kỳ ít hơn 1/100 của 30% - nghĩa là ít hơn 0,3%.
Con số này quá nhỏ nên không thể giải thích được mức sụt giảm tiền cơng thực
Một điều gì đó thật khó hiểu đang diễn ra ở đây. Làm sao một người thông
minh như Thurow, khi viết một bài được coi như là để cung cấp bằng chứng có tính
định lượng vững chắc về tầm quan trọng của cạnh tranh quốc tế đối với nền kinh tế
Hoa Kỳ, lại không nhận ra rằng bằng chứng ông đưa ra cho thấy một cách rõ ràng
kênh gây tổn thất mà ông xác định không phải là thủ phạm?
<b>Các khu vực kinh tế có giá trị gia tăng cao </b>
Ira Magaziner và Robert Reich, cả hai hiện là những nhân vật có ảnh hưởng trong
chính quyền Clinton, lần đầu tiên đến với khán giả rộng rãi với cuốn sách xuất bản
năm 1982 của họ nhan đề “Lưu tâm đến Hoạt động Kinh doanh của Mỹ”. Cuốn sách
này ủng hộ chính sách cơng nghiệp của Hoa Kỳ, và trong phần dẫn nhập, các tác giả
này đã đưa ra một cơ sở định lượng dường như cụ thể cho một chính sách như thế:
“Mức sống của chúng ta chỉ có thể tăng lên nếu (i) vốn và lao động chảy ngày càng
nhiều hơn vào các ngành có giá trị gia tăng cao trên mỗi cơng nhân và (ii) chúng ta
duy trì được một vị thế cao hơn trong các ngành đó so với các đối thủ cạnh tranh của
chúng ta.”
Các nhà kinh tế học hoài nghi về ý tưởng này trên nguyên tắc. Nếu việc nhắm
mục tiêu vào các ngành phù hợp chỉ đơn giản là vấn đề chuyển sang các khu vực kinh
tế có giá trị gia tăng cao, thì tại sao các thị trường tư nhân khơng làm việc đó rồi?
Nhưng người ta có thể bác bỏ luận điểm vừa nêu, vì lý do nó đơn thuần là niềm tin vơ
hạn của các nhà kinh tế học vào thị trường. Tuy thế, phải chăng Magaziner và Reich
đã hỗ trợ cho lý lẽ của mình bằng nhiều bằng chứng trong thế giới thực?
Hoa Kỳ đều có bản sao Trích yếu Thống kê của Hoa Kỳ, mà mỗi năm có một bảng
trình bày giá trị gia tăng và số việc làm theo ngành trong công nghiệp chế tạo của
Hoa Kỳ. Thế thì tất cả những gì người ta cần làm là bỏ ra ít phút trong thư viện cùng
với chiếc máy tính để tính toán ra một bảng xếp hạng các ngành ở Hoa Kỳ theo giá trị
gia tăng trên mỗi công nhân.
Bảng trên trang này cho thấy các mục chọn lựa từ các trang 740-744 của Trích
yếu Thống kê 1991 của Hoa Kỳ. Hóa ra là các ngành cơng nghiệp ở Hoa Kỳ có giá
trị gia tăng thật sự cao trên mỗi công nhân là trong các khu vực có tỉ số vốn trên lao
động rất cao, như thuốc lá và lọc dầu. (Điều này có thể tiên đốn được: bởi vì các
ngành cơng nghiệp thâm dụng vốn phải thu được suất sinh lợi bình thường trên các
đầu tư lớn, nên họ phải tính giá có mức bù giá (mark up) lớn hơn trên chi phí lao động
so với các ngành thâm dụng lao động, điều này có nghĩa là họ có giá trị gia tăng trên
mỗi công nhân cao). Trong số các ngành công nghiệp lớn, giá trị gia tăng trên mỗi
cơng nhân có khuynh hướng cao ở các khu vực chế tạo công nghiệp nặng truyền thống
như thép và xe hơi. Các ngành công nghệ cao như phi thuyền không gian hay điện tử
trên thực tế chỉ có giá trị gia tăng trung bình.
Kết quả này không làm cho các nhà kinh tế học truyền thống ngạc nhiên. Giá
trị gia tăng cao trên mỗi công nhân xảy ra trong các khu vực rất thâm dụng vốn, nghĩa
là các khu vực trong đó một đô la vốn tăng thêm hầu như chẳng đem lại giá trị gia
tăng phụ trội nào. Nói cách khác, chẳng có mối lợi nào khơng phải trả giá cả.
Nhưng chúng ta hãy để qua một bên những gì bảng này thể hiện về cách thức
nền kinh tế hoạt động, và chỉ lưu ý đến sự lầm lẫn lạ lùng của Magaziner và Reich.
Chắc chắn là họ khơng kêu gọi ủng hộ một chính sách công nghiệp sẽ ưu tiên chuyển
vốn và lao động vào trong các ngành thép hay xe hơi so với ngành cơng nghệ cao.
Thế thì làm sao họ lại có thể viết cả một cuốn sách dành để biện hộ cho lời khẳng
định rằng chúng ta cần phải nhắm mục tiêu vào các ngành có giá trị gia tăng cao mà
<b>Chi phí lao động </b>
Trong phần trình bày riêng của ơng tại hội nghị thượng đỉnh Copenhagen, Thủ tướng
Anh John Major trình bày một biểu đồ chỉ ra rằng chi phí lao động đơn vị ở Châu Âu
đã tăng nhanh hơn chi phí này ở Hoa Kỳ và ở Nhật. Theo đó, ơng cho rằng cơng nhân
Châu Âu đã làm cho mình mất sức cạnh tranh trên các thị trường thế giới vì đã định
giá cho mình quá cao.
trọng đối với một doanh nghiệp Hoa Kỳ là các chi phí của các đối thủ cạnh tranh ở
nước ngoài của doanh nghiệp này được tính bằng đô la, chứ không phải đồng Mác
Đức hay đồng yen của Nhật. Vì thế các so sánh quốc tế về chi phí lao động, giống
như các bảng mà Ngân hàng Trung ương Anh công bố định kỳ, luôn luôn chuyển đổi
chúng sang một đồng tiền chung. Tuy nhiên, các số liệu do Major trình bày đã khơng
có sự điều chỉnh thông thường này. Và việc không điều chỉnh như thế cũng là điều tốt
cho bài trình bày của ơng. Như Brittan đã chỉ ra, các chi phí lao động ở Châu Âu
không tăng lên xét theo giá trị tương đối khi có điều chỉnh đối với tỷ giá hối đối.
Có thể nói rằng sự lầm lẫn này còn kỳ cục hơn sự lầm lẫn của Thurow hay
Magaziner và Reich. Với những nguồn lực về thống kê của Bộ Tài chính Anh Quốc
đứng đằng sau, làm sao Thủ tướng John Major lại có thể trình bày một phân tích mà
khơng thực hiện những điều chỉnh thông thường nhất.