Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Lich su Ca Mau TS Thái Văn Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.69 KB, 105 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH CÀ MAU
(Tư liệu tham khảo bổ sung bài giảng)


I- MỤC ĐÍCH YÊU CẦU DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:
Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “Lịch sử địa phương”. Theo PGS – TS
Nguyễn Cảnh Minh và Đỗ Hồng Thái thì: muốn hiểu đúng khái niệm “Lịch sử địa phương”
trước hết ta cần hiểu thuật ngữ “địa phương” trong Tiếng Việt. “Địa phương là những vùng,
khu vực trong quan hệ với những vùng và khu vực khác trong nước”. Như vậy địa phương là
những vùng đất nhất định nằm trong quốc gia có những sắc thái đặc thù riêng để phân biệt với
những vùng đất khác, là bộ phận cấu thành của đất nước. địa phương hiểu theo nghĩa cụ thể,
là những đơn vị chính của một quốc gia, đó là những tỉnh, thành phố, huyện, xã, thôn, bản,
làng, buôn, ấp .v.v... Với nghĩa khái quát, trừu tượng, địa phương được hiểu là những vùng
đất, khu vực nhất định được hình thành trong lịch sử, có ranh giới tự nhiên (khơng giống địa
giới hành chính) để phân biệt với các vùng đất khác. Ví dụ: Miền Bắc, Miền Nam, Miền
Trung, Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Bắc bộ, Đồng bằng Sơng Cửu Long
.v.v... Nhưng cũng có ý kiến quan niệm theo cách đơn giản là: tất cả những gì không phải của
“Trung ương” hay “Quốc gia” đều được coi là địa phương. Như vậy thủ đô của một quốc gia
hay từng khu vực của thủ đô được xem là địa phương. Từ nhận thức như vậy, ta có thể hiểu
được lịch sử địa phương cũng chính là lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh hay khu vực,
vùng, miền.


Lịch sử địa phương còn bao hàm ý nghĩa lịch sử của các đơn vị sản xuất chiến đấu, các
trường học, cơ quan, xí nghiệp .v.v... Xét về yếu tố địa lý, các đơn vị đó đều gắn với một địa
phương nhất định, song nội dung của nó mang tính kỹ thuật, chun mơn, do vậy có thể xếp
nó vào dạng lịch sử chuyên ngành.


Như vậy bản thân lịch sử địa phương rất đa dạng, phong phú cả về nội dung và thể loại.
Giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có mối quan hệ đặc biệt.


Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, nằm trong cặp phạm trù “Cái chung
và cái riêng”. Tri thức lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng của tri thức


lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phương là bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Nói vậy khơng có
nghĩa một cơng trình nghiên cứu lịch sử dân tộc là kết quả của phép tính cộng các cuốn lịch
sử địa phương.


Lịch sử dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử địa phương đã
được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về
lịch sử của chính miền q, xứ sở, nơi chơn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ của
lịch sử ở địa phương với lịch sử của dân tộc và rộng lớn là lịch sử thế giới.


-Dạy và học lịch sử địa phương Cà Mau có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục ở trường phổ thông trong tỉnh. Thông qua việc học lịch sử địa phương,
hoạt động của nhà trường có điều kiện để gắn liền với xã hội, lý luận đi đôi với thực hành.


Việc học lịch sử địa phương tỉnh nhà còn bồi dưỡng cho các em học sinh những kỹ
năng cần thiết trong việc vận dụng tri thức lý thuyết vào thực tiễn đang đòi hỏi ở địa phương.
Từ hoạt động thực tiễn đó, các em thấy được sự phát triển đa dạng sinh động, phức tạp và thú
vị của lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc, thấy được nét độc đáo, đặc thù của lịch sử địa
phương tỉnh nhà, song vẫn tuân theo qui luật phát triển chung của lịch sử dân tộc và lịch sử
nhân loại.


Hoạt động học tập nghiên cứu lịch sử địa phương tỉnh nhà sẽ như nhịp cầu nối tình cảm
của nhà trường với nhân dân địa phương trong tỉnh, cũng là biện pháp để khai thác sức sáng
tạo tiềm tàng của nhân dân địa phương. Nguồn tài liệu lịch sử địa phương, với những loại
hình đa dạng phong phú, sinh động là cơ sở cho việc tạo những biểu tượng lịch sử và hiểu sâu
sắc các khái niệm, các sự kiện, hiện tượng ở bài học lịch sử. Tri thức lịch sử địa phương tỉnh
Cà Mau chúng ta sẽ có ý nghĩa giáo dục sâu sắc lịng tự hào chân chính về những truyền
thống tốt đẹp của địa phương, tình yêu quê hương, xứ sở, ý thức bảo vệ giữ gìn di sản văn
hố, di tích lịch sử .v.v...



Lịch sử địa phương Cà Mau nếu được chúng ta tổ chức giảng dạy tốt ở các trường phổ
thông trong tỉnh là một trong những nguồn quan trọng làm phong phú tri thức của học sinh về
quê hương mình, giáo dục cho các em lịng u q hương, hình thành những khái niệm về
nghĩa vụ đối với quê hương, tạo cho học sinh nhận thức được mối liên hệ giữa lịch sử địa
phương và lịch sử dân tộc.


Giảng dạy lịch sử địa phương tỉnh Cà Mau sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc giáo dục tư
tưởng, chính trị, lao động, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh của tỉnh nhà. Nó có vị trí quan
trọng trong việc hình thành cho thế hệ trẻ tỉnh ta lịng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Học sinh tự
hào về đất nước, dân tộc Việc Nam, bắt đầu từ lịng tự hào về những chiến cơng của cha anh
mình đã làm nên ở ngay trong làng xóm thân yêu khi đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Học
sinh cũng tự hào với những thành tựu kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương Cà Mau chúng
ta từ trước đến nay, đặc biệt trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học sinh không những
tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất trong đấu tranh Cách mạng mà cũng tự hào về chủ
nghĩa anh hùng cách mạng trong xây dựng, sản xuất, tự hào về những nghề thủ công truyền
thống, về sự tài giỏi khéo léo của những nghệ nhân ở địa phương tỉnh ta đã tạo nên những sản
phẩm nổi tiếng. Giới thiệu cho học sinh những nghề truyền thống, gây cho các em có ý thức
bảo vệ và phát triển nghề truyền thống thủ công địa phương cũng là một trong những nội
dung hướng nghiệp của bộ môn lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ
thông là thể hiện mối quan hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc, “Cái riêng khơng
tồn tại ngồi mối liên hệ với cái chung”. Đúng như vậy, việc giảng dạy lịch sử địa phương Cà
Mau trong chương trình lịch sử dân tộc làm cho học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm lịch sử
chung và riêng, nhận thức những hình thái kinh tế – xã hội, các giai đoạn phát triển của lịch
sử. Tài liệu lịch sử địa phương Cà Mau này sẽ giúp học sinh hiểu và giải thích được những nét
riêng biệt, đặc thù trong các hiện tượng lịch sử. Điều này rất quan trọng để phát triển tư duy
lịch sử của học sinh.



Dạy học lịch sử địa phương Cà Mau là chúng ta phải làm sao làm cho học sinh thấy rõ
ý nghĩa lịch sử tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở khắp mọi nơi trên
đất nước ta, bước đầu đem lại những thành quả to lớn, cụ thể trong việc nâng cao đời sống
tinh thần và vật chất của nhân dân lao động ở địa phương mình.


Dạy học lịch sử địa phương Cà Mau nếu được tổ chức, chỉ đạo tốt sẽ góp phần giáo dục
lòng tự hào về quê hương tỉnh nhà của học sinh. Cho nên những thành tựu trong chiến đấu và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương Cà Mau chúng ta phải làm cho học sinh thấy rõ nó
cũng có ảnh hưởng đến sự thắng lợi của cách mạng cả nước. Sự hy sinh anh dũng của con em
địa phương chúng ta trong sự nghiệp giữ nước đã góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của
cha ông cho thế hệ trẻ tỉnh nhà hiện tại và mai sau.


Lịch sử địa phương giáo dục học sinh lịng u lao động, kính trọng nhân dân lao động
qua nhiều thế hệ, qua giảng dạy phải làm cho học sinh xác định nghĩa vụ bảo vệ, giữ gìn và
phát triển truyền thống tốt đẹp đó của địa phương mình.


Việc giảng dạy lịch sử địa phương Cà Mau phải làm sao cho học sinh nắm vững hơn
khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống “Tự nhiên – con người – xã hội”, thấy được vai trò
của con người tác động thiên nhiên phục vụ nhiều nhất cho con người.... Phải chỉ ra cho học
sinh hiểu rõ rằng, chỉ trong chế độ xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi nhân dân
thực sự “Làm chủ thiên nhiên – làm chủ con người – làm chủ xã hội”, thì việc cải tạo và chinh
phục thiên nhiên mới góp phần tích cực vào việc phát triển lịch sử, đem lại no ấm, hạnh phúc
cho con người.


Dạy học lịch sử địa phương của tỉnh nhà chính là việc cụ thể hoá một cách sinh động,
chi tiết những tri thức lịch sử dân tộc. Do đó những sự kiện, hiện tượng lịch sử khơng thể tách
rời vị trí khơng gian cụ thể, nhưng những vị trí khơng gian đó có sự “thay đổi” theo cơ cấu
đơn vị hành chính địa phương (chủ yếu do tỉnh ta thời gian qua đã có nhiều thay đổi do việc
nhập, tách tỉnh, huyện, xã.v.v...) Chính vì vậy khi trình bày những sự kiện, hiện tượng lịch sử,
cần chú ý xác định rõ vị trí khơng gian, địa danh lịch sử ở thời điểm sự kiện xảy ra và ở vị trí


khơng gian hiện tại để học sinh dễ theo dõi, hình dung, tái tạo lịch sử một cách chính xác.
Như vậy sẽ có những sự kiện, hiện tượng lịch sử gắn với các đơn vị hành chính, nhưng cũng
có sự kiện, hiện tượng khơng hẳn như vậy. Chẳng hạn, một cuộc khởi nghĩa, một trận đánh,
thường liên quan tới nhiều địa phương (xét theo khung giới hành chính) khác nhau. Để giúp
học sinh nắm vững vấn đề này không thể thiếu đồ dùng trực quan (có thể là bản đồ, sơ đồ, sa
bàn .v.v...).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

một cách máy móc, giáo điều quan điểm Mácxit – Lêninnít. Lịch sử địa phương của tỉnh nhà
chúng ta thường rất cụ thể và đòi hỏi khách quan, vì vậy khi nêu tên các nhân vật lịch sử ở địa
phương trong tỉnh khơng địi hỏi ở họ sự tiêu biểu tồn diện mà có thể là về một lĩnh vực hoạt
động nào đó. Có những nhân vật có tác dụng tích cực ở một thời kỳ lịch sử này, sau lại giảm
đi ở một thời kỳ khác và ngược lại (nhất là trong thời bình cũng khơng ít cán bộ do nhiều
ngun nhân đã bị thối hố biến chất...). Lại có những nhân vật có những đóng góp, cống
hiến to lớn trong một thời kỳ, nhưng sau đó lại mang tác dụng tiêu cực, thậm chí có quan
điểm sai lầm, phản động, hoặc không lành mạnh đối với địa phương.v.v... Đây là vấn đề hết
sức phức tạp, đòi hỏi người giáo viên phải thận trọng, tỉ mỉ, khi cần thiết cần trao đổi ý kiến
với các nhà khoa học, các cấp lãnh đạo địa phương để có nhận xét thỏa đáng. Vì thế, chúng ta
khơng thể dùng ý chí chủ quan để phủ nhận sạch trơn những cơng lao của các nhân vật lịch
sử, cần đánh giá đúng những cống hiến về từng mặt ở từng thời điểm lịch sử cụ thể. Việc nêu
tên những người đã khuất đã khó, song việc lựa chọn để nêu tên những người cịn sống ở địa
phương càng khó hơn. Cần phải lắng nghe ý kiến rộng rãi của các tổ chức quần chúng nhân
dân, mặt khác phải có quan điểm khoa học khi xem xét sự cống hiến, vai trò của họ đối với
địa phương, so với người đương thời, đặc biệt là những người đi trước.


Theo chương trình lịch sử bậc phổ thơng trung học thì nội dung ngồi phần lịch sử thế
giới, chủ yếu là phần lịch sử Việt nam. Riêng phần lịch sử Việt nam nội dung chủ yếu là lịch
sử dân tộc từ thời kỳ nguyên thuỷ tới nay; trong đó chương trình lịch sử cách mạng Việt Nam
bao gồm những vấn đề quan trọng như :


-Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm trước thành lập Đảng (1925-1930).


-Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930).


-Phong trào cách mạng (1930- 1931) và cuộc đấu tranh hồi phục lực lượng cách mạng.
-Cuộc vận động dân chủ (1936-1939).


-Cuộc vận động cách mạng Tháng Tám (1939-1945) và Cách mạng Tháng Tám thành
công (19.8.1945).


-Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945-1946).
-Những năm đầu kháng chiến toàn quốc (1946-1950).


-Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến và kháng chiến thắng lợi (1951-1954).
-Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 và nhiệm vụ cách mạng trong thời
kỳ mới (1954-1975).


-Cách mạng XHCN ở Miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền nam
(1954-1965).


-Nhân dân hai miền Nam-Bắc trực tiếp đương đầu với Đế quốc Mỹ xâm lược
(1965-1973).


-Cuộc đấu tranh giành toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đi đến thắng lợi hoàn
toàn (1973-1975).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong khi đó thì lịch sử cách mạng địa phương Cà Mau không thể tách rời với lịch sử
của dân tộc, ngược lại khi giảng dạy lịch sử dân tộc giai đoạn này thì giáo viên khơng thể bỏ
qua sự liên hệ với thực tiễn lịch sử của địa phương Cà Mau.


Chính vì vậy với chương trình lịch sử địa phương Cà Mau đòi hỏi phải dạy cho học
sinh những nội dung chuyên về sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau


trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế
quốc Mỹ, trong xây dựng CNXH; về lịng biết ơn đối với cơng lao to lớn của Đảng, của Bác
Hồ trong tổ chức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc; về sự tin tưởng vào con
đường đi lên CNXH mà Đảng và Bác Hồ đã chọn; bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước,
yêu đồng bào, yêu dân tộc Việt Nam anh hùng, trong đó có nhân dân Cà Mau thân yêu. Khi
giáo viên trình bày nội dung những sự kiện của lịch sử cách mạng dân tộc qua quá trình lịch
sử bậc trung học (cấp THCS, THPT), nhất thiết phải làm sống lại quá khứ hào hùng của lịch
sử cách mạng địa phương Cà Mau vào những thời kỳ này.


-Như vậy ngoài những bài lịch sử địa phương Cà Mau theo phân phối chương trình của
Bộ giáo dục và Đào tạo vừa mới ban hành được áp dụng thực hiện từ năm 2000-2001 như : ở
lớp 6 tiết 33 (Tham quan hoặc giới thiệu một di tích lịch sử gần nhất ở địa phương); ở lớp 7
tiết 33; ở lớp 8 tiết 65, 66; ở lớp 9 tiết 64, 65, 66; ở lớp 11 tiết 33. Chúng ta tái hiện lịch sử
cách mạng nói chung có thể minh hoạ bằng thực tiễn của địa phương Cà Mau. Thật vậy, trong
suốt quá trình lịch sử dân tộc bậc trung học với mỗi sự kiện, hiện tượng đều có liên quan mật
thiết với địa phương. Chính vì vậy và cũng thơng qua đó chúng ta tổ chức dạy và học lịch sử
đạt yêu cầu tạo hình ảnh một sự vật cụ thể, vừa tạo biểu tượng về khơng gian, thời gian, hồn
cảnh diễn ra sự kiện lịch sử và những nhân chứng lịch sử, vừa liên hệ thực tế với nội dung đó
bằng những vấn đề thuộc về lịch sử cách mạng địa phương Cà Mau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

-Các nhân chứng lịch sử, các nhân vật lịch sử đến kể lại cho học sinh các vấn đề có liên
quan đến các sự kiện lịch sử cách mạng địa phương.


-Tổ chức cho học sinh đi học tập ở hiện trường, ở các bảo tàng lịch sử địa phương, ở
các nhà truyền thống cách mạng địa phương (xã, huyện, tỉnh).


-Tổ chức cho học sinh đi tham quan các di tích lịch sử địa phương.


-Tổ chức sưu tầm các sử liệu, tranh ảnh, hiện vật có liên quan đến lịch sử địa phương.
-Tổ chức cho học sinh đi viếng các nghĩa trang liệt sĩ, các nhà tưởng niệm, các bia ghi


công, các tượng đài, các anh hùng liệt sĩ ở địa phương (xã, huyện, tỉnh).


-Tổ chức học sinh đi viếng các nhân vật gắn liền với lịch sử địa phương, các anh hùng,
các Bà mẹ Việt Nam anh hùng cịn sống.


Vì vậy trong phạm vi đề tài này, chúng tôi đề xuất một vài hoạt động ngoại khoá trong
việc dạy và học lịch sử địa phương sẽ được trình bày ở nội dung tiếp theo.


2-Tổ chức thông qua hoạt động tham quan học tập:


Trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của giáo dục - đào
tạo nói riêng thì hình thức giáo dục ngoài nhà trường là một nhu cầu hoạt động xã hội, hoạt
động ngoại khoá, tham quan học tập, đặc biệt là hoạt động tham quan học tập lịch sử cách
mạng địa phương. Thực tế đã qua, các hoạt động trên đã và đang được khơi dậy mạnh mẽ
trong các nhà trường. Tuy nhiên yêu cầu về chất lượng, nội dung hiệu quả giáo dục, phương
pháp quản lý, tổ chức là những vấn đề được quan tâm và đặt ra ở các nhà trường phổ thông.
Vì vậy cần phải được quản lý, tổ chức, điều hành hoạt động này theo chương trình cụ thể, có
kế hoạch, phương pháp tổ chức và nội dung cụ thể bao gồm :


1-Tham quan các di tích lịch sử, lịch sử văn hố, di tích văn hóa, văn hố cổ, di tích lịch
sử cách mạng ở địa phương trong hai thời kỳ kháng chiến trên địa bàn trường (xã, huyện,
tỉnh).


2-Thăm và đặt hoa, dâng hương đài tưởng niệm lịch sử các nghĩa trang liệt sĩ hoặc các
anh hùng liệt sĩ mà trường mang tên, địa phương mang tên tại địa phương (xã, huyện, thị,
tỉnh).


3-Tham quan bảo tàng cách mạng Cà Mau, các nhà truyền thống cách mạng địa
phương.



4-Tham quan các khu căn cứ cách mạng trong hai thời kỳ kháng chiến trong tỉnh.
5-Thăm giao lưu với các đơn vị quân đội ở địa phương, đặc biệt là các đơn vị anh hùng
trong thời kỳ kháng chiến.


6-Thăm các cá nhân anh hùng, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân chứng lịch sử,
các gia đình anh hùng liệt sĩ ở địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

8-Tổ chức cho học sinh gặp gỡ giao lưu, trao đổi về truyền thống cách mạng địa
phương, nghe phát biểu giáo huấn về yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương
của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ngành qn sự, cơng an, văn hố thơng tin,
các tổ chức đoàn thể các cấp ở địa phương (xã, huyện, tỉnh).


9- Tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở sản xuất ngành nghề thủ công truyền
thống, tham gia các hoạt động, các cuộc vận động, các phong traò ở địa phương như : phong
trào đền ơn đáp nghĩa, cuộc vận động xây dựng nhà tình nghĩa, chăm sóc, thăm nom các gia
đình liệt sỹ, thương binh, những Bà mẹ Việt nam anh hùng.


10-Tổ chức cho học sinh gặp gỡ, giao lưu, trao đổi, nghe kể chuyện chiến đấu, chuyện
lịch sử, chuyện sản xuất với các anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
các nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, các nghệ
nhân và những người tiêu biểu khác trong phong trào xây dựng, sản xuất và bảo vệ tổ quốc ở
địa phương.


3-Tổ chức học tập thông qua các cuộc thảo luận, hái hoa học tập.


Trong quá trình tổ chức học tập lịch sử địa phương cho học sinh, căn cứ vào mục đích
và yêu cầu của từng nội dung mà chúng ta có những hình thức dạy học khác nhau. Trong cuộc
sống và hoạt động bản thân của học sinh cũng thường đặt ra những câu hỏi vì sao ? Tại sao ?
Nguyên nhân nào ? Do đâu ? Làm thế nào ? Quan hệ ra sao ? Như thế nào ? ở đâu ? Do ai ?...
Căn cứ vào những vốn hiểu biết đã được trang bị, các em sẽ tìm kiếm những câu trả lời


thích hợp. Chúng ta biết rằng q trình nhận thức của con người luôn đi từ chưa biết đến biết,
từ biết ít đến biết nhiều, từ cảm tính đến lý tính, từ kinh nghiệm đến lý luận. Đó chính là
những nấc thang giúp cho học sinh đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Mặt khác vì
học sinh ln ln phải đáp ứng những vấn đề của cuộc sống, của hiện thực khách quan mà
các học sinh này chưa sáng tỏ trên cơ sở của mối liên hệ với những vấn đề đã biết, đã nắm
vững. Đối với việc tổ chức học tập lịch sử địa phương cho học sinh thì với việc tổ chức hình
thức thảo luận, trao đổi đàm thoại, hái hoa học tập sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức một
cách thiết thực, gắn bó với cuộc sống hiện tại và tương lai của học sinh. Qua đó học sinh sẽ
hình thành và phát triển tư duy độc lập sáng tạo. Biết diễn đạt được tư tưởng, biết khái quát,
lập luận trên cơ sở những hiểu biết của mình về lịch sử cách mạng địa phương. Từ đó chúng
ta có thể đánh giá được kết quả lĩnh hội về lĩnh vực giáo dục này mà có những điều chỉnh và
bổ sung. Vì vậy hình thức tổ chức hoạt động thảo luận, trao đổi, đàm thọai, hái hoa học tập
trong học sinh là một trong những hình thức cần thiết và quan trọng trong việc dạy lịch sử địa
phương cho học sinh.


Để thực hiện tốt hoạt động nêu trên nhằm đạt hiệu quả cao trong giáo dục, khi tổ chức
chúng ta cần lưu ý:


a-Đối với các buổi thảo luận, dạ hội lịch sử:


-Vấn đề được đưa ra thảo luận cần liên hệ gắn bó với những ngày lễ kỷ niệm lớn của
địa phương, của cả nước, gắn với các chủ điểm giáo dục hàng tháng, liên hệ đến nội dung của
bài học lịch sử hoặc các bộ mơn khoa học xã hội khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Thí dụ: nhân ngày 13/12 hàng năm là ngày truyền thống của tỉnh Cà Mau thì nên chọn
ngay đề tài về cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai 13/12/1940 hoặc chọn đề tài nói về nhà giáo- nhà
báo- nhà văn- nhà thơ Phan Ngọc Hiển, người tổ chức thắng lợi khởi nghĩa Hịn Khoai.


Nhân kỷ niệm ngày thành lập Đảng 03/2 có thể chọn đề tài sự thành lập Chi bộ Đảng
đầu tiên ở Cà Mau hoặc đề tài về các chiến sĩ cộng sản kiên trung ở Cà Mau.



Nhân kỷ niệm ngày Miền Nam hồn tồn giải phóng (30/4/1975) nên chọn đề tài về
cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 tại Cà Mau.


Nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12 có thể chọn đề tài về
truyền thống đấu tranh vẻ vang của lực lượng vũ trang Cà Mau hoặc các chiến thắng vang dội
của lực lượng vũ trang Cà Mau trong thời kỳ chống Mỹ ( Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là).


b-Đối với các buổi thi theo hệ thống câu hỏi:


Người chủ trì cũng phải xác định mục đích, yêu cầu nhiệm vụ của cuộc thi phần thảo
luận nêu trên. Tuy nhiên về hình thức và tính chất thì có khác hơn so với buổi thảo luận, ở đây
giáo viên nêu sẵn một hệ thống câu hỏi có chủ đích và trình tự nêu ra để học sinh thi đua trả
lời theo các hình thức chia tổ, đội hoặc nhóm để thi với nhau, có thể trong đội hoặc đội bạn
bổ sung cho câu trả lời hoàn chỉnh hoặc các câu hỏi độc lập xung quanh một chủ đề giáo dục
cho trước để học sinh hái hoa hoặc bốc thăm ngẫu nhiên và trả lời theo yêu cầu câu hỏi đặt ra.
Cũng có thể có câu hỏi dưới dạng học sinh tự nêu vấn đề có liên quan với chủ đề để tự trình
bày hoặc cho đội bạn trả lời. Do đó, trong hình thức trên vấn đề thiết lập mối quan hệ giáo
dục và lĩnh hội không phải chủ yếu giữa giáo viên và học sinh mà còn có mối quan hệ giữa
học sinh với học sinh. Đương nhiên trong bất kỳ hình thức giáo dục nào thì giáo viên vẫn giữ
vai trị chủ đạo.


4-Tổ chức học tập thơng qua hình thức kể chuyện.


Kể chuyện lịch sử là hình thức giáo dục, trong đó người trình bày dùng lời nói để
truyền đạt các nội dung theo chủ đề nhất định. Qua đó học sinh tiếp thu một cách có ý thức.
Đây là phương pháp giáo dục cổ truyền được sử dụng phổ biến trong các nhà trường phổ
thông hiện nay. Riêng với việc học tập lịch sử địa phương thì phương pháp này giữ vai trị hết
sức quan trọng, bởi vì qua phương pháp này học sinh có thể lĩnh hội tri thức được giáo dục có
hệ thống theo yêu cầu của nội dung cơ bản cần giáo dục. Mặt khác còn được báo cáo viên mở


rộng có giới hạn những tri thức cần thiết khác. Rõ ràng là trong thời gian nhất định, chỉ dựa
vào chủ yếu là lời nói của giáo viên hoặc báo cáo viên, học sinh có thể lĩnh hội được một khối
lượng kiến thức theo yêu cầu. Đồng thời với hình thức và phương pháp này giáo viên hoặc
báo cáo viên sẽ chủ động về mặt thời gian, chủ động trình bày nội dung cần giáo dục một
cách có hệ thống theo một lơgic chặt chẽ hướng vào những yêu cầu thiết thực nhất trong giáo
dục truyền thống cách mạng địa phương cho học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Về hình thức có thể tổ chức cho học sinh nghe kể chuyện về lịch sử địa phương thông
qua các buổi sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt chủ điểm, sinh hoạt kỷ niệm các ngày lễ lớn,
sinh hoạt dưới cờ ... Tùy theo điều kiện và cơ sở vật chất của nhà trường hoặc nơi tổ chức kể
chuyện lịch sử cho học sinh mà có thể bố trí số lượng cho học sinh.


Thí dụ: Nhân ngày truyền thống tỉnh Cà Mau có thể chọn đề tài Nhà giáo Phan Ngọc
Hiển và khởi nghĩa Hịn khoai 13/12/1940. Địa điểm có thể là dưới sân cờ, ở trong hội trường,
ở trong lớp học hoặc ở thực địa nơi có liên quan đến sự kiện trên. Kiến thức cơ bản cần đạt là
nội dung và trong đề tài này khi thuyết trình báo cáo viên phải bám sát vào nội dung đó để
giúp học sinh hiểu và nắm vững. Trên cơ sở đó báo cáo viên sẽ giúp học sinh có thể xác định
được con đường thực hiện lý tưởng cách mạng của nhà giáo cộng sản Phan Ngọc Hiển và
những đồng đội của Ông đã chấp nhận hy sinh cho độc lập dân tộc, cho quê hương đất nước.
Đồng thời qua đó giúp học sinh hiểu đúng đắn con đường mà Đảng ta, cả dân tộc ta trong đó
có những con người ưu tú của quê hương đã chọn là đấu tranh cách mạng giải phóng đất
nước, thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ, làm kẻ mất nước ... Bằng vào ngần ấy sự
kiện làm cho các em tự hào với những người con của quê hương, với khởi nghĩa Hòn khoai,
với những cống hiến của địa phương cho cách mạng cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.


III-CHƯƠNG TRÌNH LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:
Gồm có 5 chương và 21 bài cụ thể như sau:


Chương I: Cà Mau vùng đất con người.
Bài 1: Quá trình hình thành tỉnh Cà Mau.


Bài 2: Cà Mau-thiên nhiên của con người.
Chương II: Cà Mau trong thời kỳ 1930-1945:
Bài 3: Sự hình thành chi bộ đầu tiên Cà Mau.


Bài 4: Đại hội thành lập Quận ủy Cà Mau tiến tới thành lập Tỉnh ủy Cà Mau.
Bài 5: Khởi nghĩa Hòn khoai 13/12/1940.


Bài 6: Cách mạng tháng 8 ở Cà Mau.


Chương III: Cà Mau trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Bài 7: Tình hình Cà Mau sau Cách mạng tháng tám.


Bài 8: Mặt trận Tân Hưng ở Cà Mau.


Bài 9: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Cà Mau.
Bài 10: Cà Mau khu tập kết 200 ngày đêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bài 11: Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Cà Mau sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
năm 1954.


Bài 12: Phong trào đồng khởi ở Cà Mau với sự kiện Làng rừng.
Bài 13: Nhân dân Cà Mau đấu tranh chống Mỹ- Ngụy (1960-1968).
Bài 14: Chiến Thắng Đầm Dơi- Cái Nước- Chà Là.


Bài 15: Nhân dân Cà Mau những ngày thương nhớ Bác.


Bài 16: Nhân dân Cà Mau kiên cường chống “Bình định”, bảo vệ quê hương.
Bài 17: Nhân dân Cà Mau đấu tranh chống Mỹ –Ngụy (1969-1973).


Bài 18: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy muà xuân năm 1975 ở Cà Mau.


Chương V: Cà Mau thời kỳ sau giải phóng đến nay.


Bài 19: Cà Mau những năm đầu giải phóng.


Bài 20: Những thành tựu của tỉnh Minh Hải (Cà Mau-BạcLiêu) sau 22 năm giải phóng
(1975-1996).


Bài 21: Tỉnh Cà Mau sau 4 năm tái lập (1997-2000).
CHƯƠNG I


CÀ MAU VÙNG ĐẤT CON NGƯỜI
_________


Bài 1


QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỈNH CÀ MAU
I- QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG ĐẤT CÀ MAU.


Cà Mau là một tỉnh được khai khẩn muộn màng nhất so với các tỉnh trong nước. Sách
Gia định thành thơng chí của Trịnh Hồi Đức có chép:


“Thời Gia Long, những giồng đất cao ráo ở ven sông Ông Đốc, sông Gành hào, sông
Bảy háp và một vài phụ lưu mới có người khai khẩn, lập thành xóm, ấp. Tuy vậy, đến thời Tự
Đức, Cà Mau vẫn là vùng rừng Đước, Vẹt, Tràm không mấy ai đến lập nghiệp vì thiếu nước
ngọt và ruộng quá nhiều phèn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Cuối thế kỷ XVII, Mạc Cửu dẫn một số người Trung Hoa chống lại Triều đình Mãn
Thanh, phục Minh đến Chân Lạp và vùng Hà Tiên lập nên 7 xã trong đó có 2 xã cực nam là
Rạch Giá và Cà Mau.



Trước nay có bị giặc xâm lược, ông đã cáo phong và dâng nạp phần đất hai xã để được
Nhà Nguyễn che chở vào năm 1714.


Mạc Thiên Tứ, con của Mạc Cửu đã vâng lệnh Triều đình Chúa Nguyễn lập ra Đạo
Long Xuyên (ở vùng đất Cà Mau ngày nay), tổ chức mang tính chất quân sự.


Đến năm Gia Long thứ 7 (1808), Đạo Long Xuyên được đổi ra Huyện Long Xuyên
thuộc Trấn Hà Tiên (lúc đó đất Nam bộ là 3 Dinh : Dinh Trấn Biên, Dinh Phiên Trấn, Dinh
Long Hồ và một Trấn Hà Tiên). Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), Nhà Nguyễn đã đặt một quan
Tri Huyện để cai trị.


Là vùng đất mới được hình thành vài trăm năm nhưng cũng để lại một số địa danh lịch
sử gắn liền với Triều đại Nhà Nguyễn như: nền Công chúa, Ao Kho, Lán tượng, Rạch Long
ẩn, Xóm Long ẩn, Cạnh đền...


Cùng với bước đi của lịch sử, Nam bộ được chia thành 6 tỉnh (Lục tỉnh Nam kỳ: Gia
Định, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).


Tỉnh Hà Tiên có 3 Phủ, 7 Huyện. Cà Mau thuộc Huyện Long Xuyên, Phủ An Biên (Hà
Tiên), Tỉnh Hà Tiên.


Cùng với người Khơ me, người Hoa, người Việt (Kinh) đã khai khẩn vùng cực nam
của Tổ quốc. Họ đã đổ biết bao mồ hơi, cơng sức và có khi cả máu của mình để tồn tại trước
một vùng đất giàu tiềm năng, song cũng không mấy thuận lợi “Dưới sông Sấu lội, trên rừng
Cọp um” hay một vùng nước đen “ Tuk – Kh mâu”.


II- SỰ THÀNH LẬP TỈNH CÀ MAU QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ:
1-Trước năm 1976:


Để ổn định về hình thức trong việc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, Pháp chia Nam kỳ


ra 20 tỉnh. Ngày 18/02/1882, một phần đất Bạc Liêu thuộc tỉnh Sóc Trăng, một phần đất Cà
Mau thuộc Rạch Giá được hợp lại thành tỉnh Bạc Liêu.


Ngày 09/03/1956, theo sắc lệnh 143/VN, Chính quyền Sài Gịn lấy quận Cà Mau, quận
Quảng Xuyên và 4 xã của quận Giá Rai: Định Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong Thạnh
Tây lập thành tỉnh Cà Mau.


Ngày 22/10/1956, Chính quyền Sài Gịn ra sắc lệnh 143/VN ?? đổi tên tỉnh Cà Mau
thành tỉnh An Xun.


Về phía chính quyền cách mạng thì lập thành 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu dựa theo sự
phân định địa giới hành chính của địch để thuận tiện cho lãnh đạo phong trào cách mạng ở
mỗi nơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Sau ngày Miền Nam hoàn tồn giải phóng, tháng 02/1976, Chính phủ lâm thời Cộng
hoà Miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất một số tỉnh ở Miền Nam. Hai tỉnh Cà Mau
(An Xuyên) và Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải. Tỉnh Minh Hải có 2 thị xã: thị xã Cà Mau và
thị xã Minh Hải và có 7 huyện: Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai, Châu Thành, Thới Bình, Trần
Văn Thời, Ngọc Hiển.


Minh Hải là tỉnh rộng nhất đồng bằng Sơng Cửu Long và rộng thứ nhì ở Nam Bộ.
Ngày 11/7/1977, Hội đồng chính phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra
quyết định số 181-CP giải thể huyện Châu Thành. Các xã của huyện này được nhập vào các
huyện Giá Rai, Trần Văn Thời và Thới Bình.


Ngày 29/12/1978, Hội đồng chính phủ ra quyết định số 326-CP lập thêm 6 huyện mới:
Phước Long, Cà Mau, U Minh, Phú Tân, Cái Nước, Năm Căn. Số huyện trong tỉnh tăng lên
12 huyện.


Ngày 30/8/1983, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 94/HĐBT giải thể huyện Cà


Mau, các xã của huyện này được sáp nhập vào thị xã Cà Mau và các huyện Giá Rai, Thới
Bình, Cái Nước. Tỉnh cịn lại 2 thị xã và 11 huyện.


Ngày 17/5/1984, Hội động Bộ trưởng ra nghị định số 75-HĐBT đã đổi tên thị xã Minh
Hải là thị xã Bạc Liêu. Hợp nhất huyện Hồng Dân và huyện Phước Long lấy tên là huyện
Hồng Dân. Hợp nhất huyện Cái Nước và huyện Phú Tân thành huyện Cái Nước.


Ngày 17-18/12/1984 với hai quyết định của Hội đồng Bộ trưởng đổi tên huyện Năm
Căn (cũ) thành huyện Ngọc Hiển (mới). Đổi tên huyện Ngọc Hiển (cũ) thành huyện Đầm Dơi
(mới). Chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải từ thị xã Bạc Liêu về thị xã Cà Mau.


Như vậy tỉnh Minh Hải có 2 thị xã Cà Mau và Bạc Liêu và 9 huyện: Vĩnh Lợi, Hồng
Dân, Giá Rai, Thới Bình, U Minh, Cái Nước, Trần Văn Thời, Đầm Dơi, Ngọc Hiển.


3-Thời kỳ từ cuối năm 1996 đến nay:


Ngày 06/11/1996, Quốc hội khóa IX, trong kỳ họp thứ X đã phê chuẩn việc tách tỉnh
Minh Hải ra làm 2 tỉnh là Cà Mau và Bạc Liêu và thực hiện từ ngày 01/01/1997.


Tỉnh Bạc Liêu hiện nay có diện tích 2.484,96 km2 với dân số 772.078 người, gồm 1 thị
xã (Bạc Liêu) và 3 huyện (Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân).


Tỉnh Cà Mau hiện nay có diện tích 5.211 km2 với dân số 1.133.747 người, gồm 1
Thành Phố (Cà Mau) và 6 huyện (Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước, Đầm Dơi,
Ngọc Hiển).


Cà Mau là vùng đất mới cả về địa chất và lịch sử, nhưng là vùng đất đầy tiềm năng, con
người Cà Mau được hội nhập khi xưa đi mở đất và nói như Ơng Võ Văn Kiệt (Cố vấn BCH
Trung ương Đảng) phát biểu tại Đại hội lần thứ III, tỉnh Đảng bộ Minh Hải tháng 07/1983:
“Là một tỉnh có rất nhiều bè bạn. Mảnh đất hào hiệp và phóng khống này đã tiếp hàng vạn


người phiêu bạt đi tìm cuộc sống trước đây. Trong 2 cuộc kháng chiến hàng vạn người khắp
nước đã về đây chiến đấu và ngã xuống tại đây, để lại đây biết bao là kỷ niệm”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

trị trên thế giới về hệ sinh thái đứng sau rừng Amazon. Biển Cà Mau cũng đầy hứa hẹn của
hải sản và đầu khí trong tương lai.


Câu hỏi:


1-Vùng đất Cà Mau được khai khẩn như thế nào?
2-Tỉnh Cà Mau được thành lập như thế nào?
3-Khái quát giai đoạn lớn của tỉnh Cà Mau?


4-Thực hành cho học sinh sưu tầm các tư liệu, mẩu chuyện ở địa phương liên quan đến
quá trình khai khẩn đất Cà Mau.


5-Thực hành cho học sinh tìm hiểu nguồn gốc một địa danh gắn với quá trình phát triển
tỉnh Cà Mau.


Bài 2:


CÀ MAU – THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI


I-VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA TỈNH CÀ MAU:


Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, là phần mũi của bán đảo Cà Mau. Có ranh giới
chung với 2 tỉnh Kiên Giang và Bạc Liêu; giáp biển Đông và vịnh Thái Lan.


+Bắc giáp tỉnh Kiên Giang.
+Nam giáp biển Đông.



+Đông giáp tỉnh Bạc Liêu và biển Đông.
+Tây giáp với vịnh Thái Lan.


Về hành chính tỉnh có một Thành Phố (Cà Mau) và 6 huyện: Thới Bình, U Minh, Cái
Nước, Trần Văn Thời, Ngọc Hiển, Đầm Dơi. Gồm 82 xã, phường, thị trấn. (tính đến thời
điểm cuối năm 2000).


Cà Mau có khí hậu cận xích đạo, nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm cao, nhiệt độ ít thay
đổi. Nhiệt độ trung bình là 26oc, biển từ ba phía nên khí hậu ơn hồ, ít khi xảy ra bão lụt. Cà
Mau có hai mùa: mùa khơ kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.
Có số giờ nắng cao: Năm 1968 là 2.498 giờ. Năm 1970 là 2.116 giờ. Lượng mưa năm cao
nhất là 2.945 mm, năm 1979 và năm thấp nhất là 1.446 mm năm 1942.


Cà Mau được hình thành của q trình bồi tụ phù sa sơng Cửu Long tạo nên. Hai dịng
hải lưu và biển Đơng và vịnh Thái Lan đón nhận phù sa của sơng Cửu Long bồi đắp dần theo
năm tháng tạo nên vùng đất cực kỳ màu mỡ. Đồng thời cũng tạo một bãi bồi là nơi quan trọng
để tôm cá và các sinh vật biển sinh sản và phát triển, tạo ra ngư trường lý tưởng ở biển Cà
Mau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

những năm qua. Cà Mau không phải chỉ độc canh của cây lúa mà các loại cây hoa màu, cây
lương thực cũng rất phát triển, rau, đậu bí, dừa, đay (bố). Trong thời gian qua đã xuất hiện
một số trái cây đặc sản của Cà Mau như dâu Cái Tàu, dưa hấu Cái Keo.


Ngành chăn nuôi thuộc vào hệ rừng ngập nước gồm có rừng đước (rừng mọc ở bãi bồi
nước mặn và nước lợ) ở các huyện Cái Nước, Ngọc Hiển, Đầm Dơi là chủ yếu. Rừng tràm
(rừng mọc ở nước ngọt và nước lợ) chủ yếu là các huyện U Minh, Thới Bình, Trần Văn Thời.
Rừng đước và rừng tràm nối tiếp nhau bao quanh lấy mũi Cà Mau từ Đông sang Tây. Ngồi
ra cịn những “lõm” rừng tràm mọc rãi rác. Rừng sát của mũi Cà Mau đứng thứ nhì trên thế
giới về tầm quan trọng và diện tích, chỉ đứng sau rừng sát bên bờ sông Amazon của châu Mỹ
La Tinh.



Năm 1930, diện tích rừng ở Cà Mau – Bạc Liêu (mà chủ yếu ở Cà Mau) chiếm khoảng
300.000 ha. Qua chiến tranh tàn phá bởi chất độc hoá học, bom đạn của kẻ thù, nạn cháy
rừng và sự tác động của con người, ngày nay chúng ta còn lại gần 200.000 ha trong đó có một
số diện tích là trồng mới.


Cà Mau có mật độ kênh rạch, sơng ngịi như mạng nhện, mật độ cao nhất trong cả nước.
Có những con sơng lớn, sâu dẫn phù sa đến mọi nơi, sông chảy ra vịnh Thái Lan như sông
“Trèm Trẹm” Trẹm, rạch Cái Tàu, sơng Ơng Đốc, sơng Bảy Háp... Sơng chảy ra biển Đông
như sông Bờ Kè, sông Gành Hào... Hệ thống kênh đào như kênh Cà Bạc Liêu, Cà
Mau-Phụng Hiệp, kênh đào Mương Điều, kênh 16.


Thuận lợi về giao thơng đường thủy, lại là sự khó khăn về giao thơng đường bộ. Vì đất
thấp, sơng ngịi nhiều. Hiện nay tỉnh Đảng bộ cùng Chính quyền và nhân dân đã hồn thành
xóa cầu khỉ và đang bê tơng hố đường nơng thơn, đưa điện về đến được các xã và tận mũi
đất.


Cà Mau được thiên nhiên ưu đãi về tôm cá và thủy hải sản, là tỉnh có diện tích ni
trồng thủy hải sản lớn nhất cả nước.


Thiên nhiên ưu đãi, nơi đất lành chim đậu, Cà Mau có nhiều sân chim, vườn chim.
Ngay tại trung tâm Thành Phố Cà Mau cũng có vườn chim tại Lâm Viên 19/5.


Khai thác, bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên đang được Chính quyền và Đảng
bộ các cấp cũng như mỗi người dân Cà Mau rất quan tâm.


Ngồi tiềm năng đã nêu cịn một tiềm năng to lớn là nguồn dầu khí ngồi biển khơi của
Cà Mau mà tương lai gần nay mai sẽ là khu cơng nghiệp lớn, khu cơng nghiệp Khí, Điện,
Đạm Khánh An được xây dựng sẽ góp phần làm giàu thêm cho Cà Mau và Tổ Quốc.



II- DÂN CƯ VÀ CON NGƯỜI CÀ MAU:


-Đất Cà Mau là nơi hội tụ của dòng người mở đất. Họ đến đây từ nhiều miền quê khác
nhau, nhiều hoàn cảnh khác nhau, kể cả hoàn cảnh của đất nước như người Hoa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Người Hoa cũng rời bỏ quê hương Tổ quốc vì họ khơng chấp nhận chế độ phong kiến
nhà Mãn Thanh.


Người Khơme do cuộc chiến tranh, ngoại xâm và nội chiến đã đẩy một bộ phận người
Khơme xuống đất Cà Mau.


III-TIỀM NĂNG CHÍNH CỦA CÀ MAU :


Cà Mau có 3 tiềm năng chính là Nơng – Lâm – Ngư, đây là một tỉnh có được thiên
nhiên ưu đãi. Ngồi ra cịn phải kể đến thế mạnh của ngành du lịch sinh thái, ngành dầu khí
trong tương lai.


1-Về nông nghiệp :


-Là tỉnh đất đai màu mỡ, được hình thành từ phù sa châu thổ, rất thích nghi với điều
kiện trồng các loại cây: lúa, hoa màu, cây cơng nghiệp, mưa thuận gió hịa, rất ít gió bão.


Về cây lúa phần lớn trồng một vụ, nay đã có nhiều vùng thuộc thành phố Cà Mau, Thới
Bình, Trần Văn Thời trồng lúa hai vụ, tổng sản lượng lúa đạt gần triệu tấn/ năm.


Sau cây lúa là cây lương thực màu như ngơ, khoai, đậu, bí...


Cây dừa có mặt khắp tỉnh Cà Mau, song tập trung nhiều ở Cái Nước, Trần Văn Thời.
Cà Mau cũng có những vườn cây ăn trái nổi tiếng từ xưa tới nay như dưa hấu Cái Keo,
dâu Cái Tàu.



Cùng với trồng trọt là chăn nuôi, người nông dân Cà Mau đã kết hợp thả vịt với trồng
lúa, đặc biệt phát triển mạnh ở huyện Cái Nước và Trần Văn Thời. Sau đàn vịt là đàn heo
cũng được nhân dân phát triển mạnh.


2- Về ngư nghiệp :


Là tỉnh có diện tích ni trồng thủy sản lớn nhất cả nước. Thủy sản đa dạng về chủng
loại. Bờ biển dài 253 km từ Đông sang vịnh Thái Lan. Thềm lục địa bằng phẳng, có nhiều cửa
sơng lớn là ngư trường lý tưởng của ngành hải sản. Hiện nay ta đang xây dựng cảng Hòn
Khoai tạo điều kiện cho đánh bắt xa bờ phát triển.


Trong quá trình chuyển đổi kinh tế hiện nay sẽ tạo điều kiện cho ngành thủy sản phát
triển.


Đến năm 2000, hải sản đạt 190.000 tấn, bình qn tăng 9,5% hàng năm.


Ngày 06/07/2000, Chính phủ đã chấp thuận chuyển đổi qui hoạch sản xuất nông
nghiệp, lâm-ngư nghiệp theo hướng phát triển mạnh thủy sản, với quan điểm phải đảm bảo
hiệu quả kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển Nông – Lâm – Ngư bền vững.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Diện tích rừng của Cà Mau có khoảng 130.000 ha, chia thành hai loại: Rừng ngập mặn
dọc theo ven biển bãi bồi giáp từ Bạc Liêu bao quanh mũi đất giáp với Kiên Giang chủ yếu là
đước, vẹt, già. Rừng tràm nằm sâu trong đất liền chủ yếu nối từ U Minh thượng của tỉnh Kiên
Giang đến huyện U Minh – Thới Bình và Trần Văn Thời của tỉnh Cà Mau.


Rừng ngập nước ở Cà Mau được xếp thứ hai sau rừng ngập nước ở Braxin trên thế giới.
Điều đó cho thấy rừng Cà Mau giá trị như thế nào về mặt khoa học. Mặt khác rừng ngập nước
Cà Mau còn là lá phổi cho khu vực bán đảo Cà Mau. Đồng thời rừng ngập nước ở Cà Mau
cịn được ví như một hồ nước mênh mơng để phát triển thủy sản.



4-Về công nghiệp – xây dựng và dịch vụ du lịch :


Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta dự kiến đến 2005, công nghiệp – xây
dựng – dịch vụ chiếm tỷ trọng là 55%. Trong đó cơng nghiệp và xây dựng chiếm 36%, dịch
vụ 19%.


Trong công nghiệp, tỉnh Cà Mau đã được Chính phủ phê duyệt xây dựng cụm cơng
nghiệp Khí, Điện, Đạm – Khánh An. Đây là một khả năng mở ra rất lớn cho kinh tế tỉnh nhà.
Từ cụm cơng nghiệp đó sẽ mở ra cho các ngành công nghiệp mới.


Trong công nghiệp chế biến cũng mở ra một khả năng chế biến thủy hải sản, phục vụ
cho xuất khẩu. Sau khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải xây thêm các nhà máy
chế biến mới, nâng cấp nhà máy cũ để có thể chế biến được 250.000 tấn thủy sản trong tương
lai. Cũng là xứng với danh là tỉnh xuất khẩu thủy hải sản đứng đầu cả nước.


Ta tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các cơ sở hạ tầng cơ sở như : đường giao thông, các
cảng và sân bay. Trong đó có hai đường quốc lộ : 1A và 63. Đặc biệt là tu sửa, nâng cấp thành
phố Cà Mau để xứng đáng là trung tâm của tỉnh lỵ


Trong dịch vụ ta chú trọng đến dịch vụ khai thác như thông tin, thương mại đặc biệt
chú ý đến nông thôn. Đồng thời cũng xây dựng khu du lịch sinh thái rừng tràm, rừng ngập
mặn. Trong đó đầu tư khu du lịch Đất Mũi – Khai Long – Hịn Khoai.


Cà Mau là một tỉnh Nơng – Lâm – Ngư đang chuyển dịch sang Ngư - Nông – Lâm và
đặc biệt phát triển công nghiệp với sự trợ giúp của Trung ương, đồng thời cũng mở ra rất lớn
về du lịch - dịch vụ.


Câu hỏi:



1-Em hãy nêu những nét chính về tự nhiên của Cà Mau?
2-Cộng đồng cư dân Cà Mau đã hình thành như thế nào?
3-Tiềm năng của tỉnh Cà Mau như thế nào? Nêu khái quát?


4-Thực hành, ngoại khóa : Giáo viên tổ chức cho học sinh đi tham quan, học tập ngồi
trời, sưu tầm các tư liệu có liên quan đến thiên nhiên và con người ở Cà Mau hoặc ở địa
phương nơi học sinh cư trú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Bài đọc thêm


ĐỖ THỪA LUÔNG, ĐỖ THỪA TỰ VỚI CUỘC KHỞI NGHĨA MÙA XUÂN NĂM
1871


Trong thời thuộc Pháp, trước khi phong trào Cần Vương ra đời, nơi xứ U Minh xa xơi
hẻo lánh, đã có người đứng lên chống Pháp. Đó là anh em Đỗ Thừa Lng, Đỗ Thừa Tự, hai
nông dân ở Rạch Cái Tàu (nay thuộc huyện U Minh tỉnh Cà Mau). Theo Huỳnh Minh, tác giả
của “Bạc Liêu xưa và nay” thì hai Ông là con của cử nhân Đỗ Văn Nhân, gốc ở Lai Vung –
Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp), xuống định cư ở Rạch Cái Tàu từ nhiều năm. Hai ông là
người giỏi võ, không chịu nổi trước cảnh áp bức dân lành của thực dân Pháp và tay sai, nên
đêm 30 tết năm Tân mùi (1871) đã tụ họp bạn bè, người thân và những nông dân quanh vùng
Cái Tàu, cắt máu ăn thề đồng tâm khởi nghĩa.


Buổi lễ đầu tiên chỉ có khỏang 30 người, được tổ chức tại nhà ông Đỗ Thừa Luông.
Buổi lễ tuy đơn sơ nhưng rất trang nghiêm. Sau khi tuyên bố lý do lập Nghĩa Đoàn và đọc lời
khai hội, tất cả mọi người đều phủ phục trước bàn thờ Tổ quốc hô vang câu “Bình tây sát tả,
Việt Nam mn năm”. Kế đó, mọi người tuần tự cắt máu nguyện thề “Tận trung báo quốc, tận
nghĩa vì dân”. Sau cùng, mọi người đều thống nhất gọi tổ chức của họ là Nghĩa Đoàn và Đỗ
Thừa Lng được bầu làm Trưởng Đồn, Đỗ Thừa Tự làm phó trưởng Đồn, nhiều người
khác phụ trách các chi nhánh ở các nơi.



Trong Nghĩa Đồn có nhiều người Minh Hương tham gia và đông đảo nhân dân vùng
Cái Tàu ủng hộ, nhất là tầng lớp thanh niên. Vì vậy, chưa đầy một tháng, đội quân đã lên đến
khoảng 200 người. Lúc đầu nghĩa quân được vũ trang bằng dao, mác, mã tấu, song hồng... hết
sức thơ sơ. Để có thêm vũ khí trang bị cho nghĩa quân, ngay trong mùa xuân năm đó (1871),
Đỗ Thừa Luông và Đỗ Thừa Tự đã tổ chức dùng hỏa cơng diệt gọn hai tốn qn tuần tiễu
của Pháp, thu được nhiều súng ống.


Hai ông đã sử dụng chiến thuật du kích khéo léo và lợi dụng địa thế hiểm trở của rừng
U Minh nên đã tạo được nhiều kết quả to lớn, có lần chiếm cả đại bác và tiêu diệt được nhiều
tàu địch.


Đến năm Nhâm Thân (1872) Nghĩa Đoàn đã chiếm cứ một vùng đất khá rộng lớn, từ
rạch Cái Tàu đến An Biên ( Rạch Giá), gần như cả vùng U Minh ở đâu cũng có bóng dáng
của Nghĩa Quân. Cũng trong năm này người Minh Hương đã đề nghị với Đỗ Thừa Luông nên
tạo mối quan hệ với Thiên Địa Hội để làm vây cánh. Đỗ Thừa Luông cho đây là kế sách hay,
nên cho người về Bạc Liêu liên hệ với Thiên Địa Hội, từ đó trong Nghĩa Đồn, người Minh
Hương ngày càng đơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

lên được, lúc đó đội quân tiếp viện của Pháp đang kéo đến, Đỗ Thừa Luông cử Tự đem quân
chặn đường tiếp viện của địch, cịn ơng đích thân lội xuống nước trổ thần lực kéo khẩu đại
bác ra khỏi nơi sình lầy 200m và đem về căn cứ an tồn.


Tiếc rằng, lịng u nước và võ cơng hai ơng có thừa nhưng mưu lược lại hạn chế. Biết
được yếu điểm này, quân Pháp đã tổ chức cho tình báo trà trộn vào Nghĩa Đồn và nắm được
tình hình của nghĩa quân. Ngày 08/ 7 năm Nhâm Thân (1872), quân Pháp mở cuộc hành quân
lớn và đã bao vây được Bộ chỉ huy của Đỗ Thừa Luông, nghĩa quân chống trả mãnh liệt
nhưng chỉ mới được hơn hai ngày đã khơng cịn đạn dược. Quân địch càng lúc càng áp sát,
loa phóng thanh của địch liên tục vang lên những lời khuyến dụ.


Đỗ Thừa Lng nhận thấy tình hình nguy cấp, muốn lui qn để bảo tồn lực lượng


nhưng khơng có lối thốt. Đến tối hơm đó, hai ơng tập trung số nghĩa qn cịn sống sót,
mang theo dao găm và mã tấu lặng lẽ thốt vịng vây của địch. Một tiếng súng nổ xé tan bầu
khơng khí im lìm, mở màn một cuộc chiến không cân sức, Đỗ Thừa Lng thét lớn một tiếng
thảm khốc, tên lính Pháp đang đứng gác ngã xuống vì chiếc dao găm được phóng ra từ tay Đỗ
Thừa Lng.


Súng nổ vang trời, tiếng thét la dậy đất hòa với tiếng kêu thê thảm của những người bị
thương. Nghĩa quân hăng say chiến đấu, hai thanh mã tấu của Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự
như hai con dao long đang vũ lộng giữa quân thù, dao đến đâu đầu rơi đến đó. Hai ơng bị
thương khắp mình, máu tn xối xả nhưng vẫn cố gắng vung dao cố chọc thủng vịng vây để
đưa nghĩa qn ra ngồi. Nhưng sức người có hạn, mã tấu, dao găm khơng thể chống lại súng
thép đạn đồng, nên cuối cùng hai ông đã vĩnh viễn ra đi mang theo hoài bão lớn lao của mình.
Mờ sáng hơm sau, khắp bãi chiến trường, mùi máu tanh nồng nặc, xác chết ngổn ngang,
thây chẳng toàn thây, xác quân thù xen lẫn xác nghĩa quân. Đỗ Thừa Luông đứng sừng sững
lưng tựa vào thân cây tràm tay nắm chặt lấy nhánh tràm như chưa muốn rời xa quê hương,
mắt vẫn mở to trông về phía trước như đang trực diện với quân thù. Đỗ Thừa Tự khắp mình
nhuộm máu đang ngồi tựa lưng vào chân anh, tay phải cầm chặt chuôi dao đang cắm ngập
xuống đất, mắt nhìn về phía tả như đang lo cho tốn nghĩa qn. Những tên lính Pháp và lũ
tay sai còn sống đang lặng lẽ kéo lê từng cái xác của đồng bọn, thỉnh thoảng lén nhìn thi thể
của hai ơng Lng, Tự như khơng thể tin rằng đó là hai người chết.


Hồi bão đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi tuy không thành cơng, nhưng tinh thần và
khí tiết của hai ông Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự đã làm chấn động đến người Pháp. Trong
“Niên giám tổng quát về Đơng Dương” của Pháp có đoạn viết: “... Làng Tân Thạnh nằm trên
hai bờ sơng Cái Tàu, có 600 cư dân, tất cả làm nghề đốn củi và đánh cá. Tinh thần dân chúng
ở làng này rất sôi động và có ý chí chống đối chính quyền từ lâu. Năm 1872, chính làng này là
nơi anh em Đỗ Thừa ẩn náu, họ là những người làm điên đảo tồn xứ sở này:


“Xóm Cái Tàu có nhiều nhà quốc sự



Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự với chú Lào Bang”
(Theo Trần Phước Thuận, báo Cà Mau, Xuân 1999).


CHƯƠNG II


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Bài 3:


SỰ THÀNH LẬP CHI BỘ ĐẦU TIÊN Ở CÀ MAU


1-Phong trào đấu tranh của nhân dân Cà Mau trước khi có Đảng:


Cùng với tiếng súng chống Pháp của nhân dân cả nước, nhân dân Cà Mau ngay từ năm
1861 đã nhận chìm xuồng tại các cửa sơng Bồ Đề – Rạch Tàu ngăn quân xâm lược.


Năm 1873 nhân dân vùng mũi đất đã cùng anh em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự chống
Pháp ở vùng sông Cái Tàu. Đồng thời nhân dân cũng ủng hộ và tham gia nghĩa quân Nguyễn
Trung trực, Nguyễn Hữu Huân để đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước.


Cũng trong thời gian này nhân dân Cà Mau đã nổi dậy giết chết tên thực dân Pháp
EsCaMye và tri huyện Phan Tử Long. Đây là những tên cướp nước và bán nước đầu tiên bị
trừng trị nơi mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc.


Năm 1924, nhân dân Cà Mau dưới sự lãnh đạo của Trần Văn Nghĩa và Trần Văn Thời
đã chống lại sự cướp đất của PaTisti, tên PaTisti bị thương, tên Hương quản phải quỳ gối xin
lỗi bà con, người nông dân đã bảo vệ được ruộng vườn của mình.


Tháng 05/1927 cuộc đấu tranh của nhân dân Ninh Thạnh Lợi dưới sự lãnh đạo của Trần
Kim Trúc (Hương chủ Chọt) chống lại bọn thực dân và bọn cường hào để bảo vệ đất đai.


Tiêu biểu hơn cả là anh em Mười Chức đấu tranh chống lại bọn địa chủ cướp đất của


gia đình mình vào tháng 02/1928. Cuộc đấu tranh của nông dân Đồng Nọc Nạng có tiếng
vang lớn trong cả nước. Ngày 17/08/1928, Tồ đại hình Cần Thơ phải xử và kết tội bọn địa
chủ sang đoạt đất đai của nông dân.


Những cuộc đấu tranh của nhân dân Cà Mau ngay từ ngày đầu Pháp xâm lược và những
tiếp đó trong cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nó thể hiện tính tất yếu lịng u nước nói
chung của nhân dân Việt Nam, đồng thời nó mang tính chất riêng của quê hương Cà Mau.
Đồng thời cũng góp phần vào trang sử chống giặc ngoại xâm và phong kiến của dân tộc.


2-Sự ra đời của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Cà Mau:


Phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao cũng chính là mảnh đất tốt cho phong trào
cách mạng phát triển về sau.


Sau khi được thành lập, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội được thành lập
và phát triển trong cả nước.


Cuối năm 1927, ông Đào Hưng Long được kỳ bộ Nam kỳ Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội cử về hoạt động, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin cho những thanh
niên có ý thức cách mạng lúc bấy giờ, qua đó tuyển chọn những người ưu tú kết nạp vào Hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Chi đội mở một cửa hiệu bán sách báo lấy tên là Hồng Anh Thư Quán, một quán bán
cơm và cà phê “Đồng Tâm” vừa làm cơ sở để giáo dục, vận động nhân dân yêu nước và là nơi
trao đổi hội họp của Chi hội .


Hoạt động của Chi hội ngày càng gây được ảnh hưởng rộng rãi trong dân nghèo ở thị
trấn và nhân dân vùng lân cận các xã xunh quanh.


Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân chống cướp đất, đòi giảm thuế thân, đòi được vào
rừng đốn cây để sửa chữa nhà cửa. . .đã liên tiếp nổ ra và được đông đảo nhân dân hưởng ứng.


Bọn thực dân Pháp đã thấy sự hoạt động của cách mạng nên chúng tăng cường giám sát và đe
dọa đóng cửa hiệu sách “Hồng Anh Thư Quán” và quán cơm “Đồng Tâm”.


Tháng 09/1929, sau vụ ám sát trên đường BaChie tại Sài Gòn, thực dân Phát điên cuồng
truy lùng các chiến sĩ cách mạng.


Bị truy lùng ráo riết, các thành viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở
Chi hội Cà Mau phải tạm lánh khỏi địa phương, cũng từ đó Chi hội ngưng hoạt động, kết thúc
vai trị lịch sử của mình một cách vẻ vang. Hầu hết các hội viên của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội sau này trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.


3-Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Cà Mau:


-Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, cuối năm 1929 và đầu năm 1930 đã
lần lượt ra đời các tổ chức Cộng sản : Đông dương Cộng sản Đảng (17/06/1929), An Nam
Cộng sản Đảng (10/1929), Đông dương Cộng sản Liên Đoàn (01/1930).


Sự ra đời của các tổ chức cách mạng ở Việt Nam như làn gió mới thổi bùng lên phong
trào công nhân và nhân dân yêu nước.


Ngày 03/02/1930, Hội nghị hợp nhất của Đảng đã họp tại (Hương Cảng), Cửu Long,
Trung Quốc, dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc đánh dấu sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam , là sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử của nước ta.


Tháng 01/1930, đặc ủy Hậu Giang do ông Ung Văn Khiêm Bí thư đã trực tiếp xuống
Cà Mau kết nạp 04 Đội viên ưu tú của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội: Lâm
Thành Mậu, Nguyễn Văn Chánh, Tân Văn Hai và Phạm Ngọc Cừ vào An nam Cộng sản
Đảng và thành lập Chi bộ Cà Mau do ơng Lâm Thành Mậu làm Bí thư.


Đây là Chi bộ đầu tiên ở tỉnh Bạc Liêu và cũng là tỉnh Cà Mau. Sau ngày 30/02/1930,


Chi bộ Đảng Cộng sản đã đổi tên thành Chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam và tổ chức lễ chào
mừng Đảng ra đời bằng các hình thức treo cờ, băng khẩu hiệu và rải truyền đơn ở nhiều nơi
công cộng. Lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện tại Cà Mau cùng với các khẩu hiệu
“Đảng Cộng sản việt Nam muôn năm”, “Đả đảo đế quốc Pháp”, “Đông dương độc lập muôn
năm”... đã giành được cảm tình của đơng đảo nhân dân lao động và nhất là tầng lớp thanh
niên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

bất công, buộc địa chủ phải cho nông dân vay lúa trong lúc thiếu kém... Phong trào không
những được nhân dân ủng hộ hăng hái mà còn tranh thủ được một số thành phần tốt trong Ban
hội tề. Sau một thời gian tuyên truyền vận động về chủ nghĩa Mác – Lênin và Điều lệ của
Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Lâm Thành Mậu đã giới thiệu với cấp trên những thanh niên
ưu tú để kết nạp vào Đảng.


Khoảng tháng 10/1930, Bà Hồng Liên được cấp trên phái về Tân Thành hoạt động và
đã kết nạp được Tăng Hồng Phúc, Phan Khắc Nhượng, Huỳnh Đề Thám, Hồng Lạc Bông vào
Đảng và cũng lập được Chi bộ Đảng xã Tân Thành do Ơng Tăng Hồng Phúc làm Bí thư.


Sau khi Chi bộ Tân Thành được thành lập dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đã đẩy nhanh
tuyên truyền vận động, tập hợp đông đảo quần chúng vào các tổ chức Nơng Hội đỏ, Đồn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội đá banh, Hội âm nhạc...


Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam ở Cà Mau, sự ra đời của Đảng Cộng
sản ngay từ những ngày đầu từ Chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng. Trong năm 1930 tại vùng
đất Cà Mau – Bạc Liêu đã thành lập được ba Chi bộ cộng sản, các đảng viên luôn gắn chặt
với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, hết lịng với sự nghiệp của Đảng.


Mặc dù vậy nhưng vẫn còn hạn chế là cả ba Chi bộ đều thiếu sự lãnh đạo thống nhất,
sự liên hệ với đặc ủy Hậu giang lại q xa do đó cơng tác phát triển Đảng cịn hạn chế, chưa
theo kịp phong trào cách mạng lúc bấy giờ.



Câu hỏi:


1-Phong trào đấu tranh của nhân dân tỉnh Cà Mau diễn ra như thế nào trước khi có
Đảng ?


2-Nêu sự hoạt động của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Cà Mau ?
3-Trình bày sự ra đời của 03 Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Cà Mau và Bạc
Liêu ?


4-Thực hành cho học sinh sưu tầm các tư liệu lịch sử ở địa phương có liên quan đến
giai đọan lịch sử này ở Cà Mau.


Bài đọc thêm.


LÁ CỜ ĐẢNG ĐẦU TIÊN XUẤT HIỆN TẠI CÀ MAU


Cách đây 70 năm nơi tận cùng cực nam của Tổ quốc đã diễn ra sự kiện khá độc đáo. Đó
là lá cờ đỏ búa liềm xuất hiện tại Cà Mau đã gây ấn tượng sâu sắc đối với người Đất Mũi kiên
cường trong những ngày Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.


Để chào mừng ngày thành lập Đảng, sáng ngày 03/2/1930 tại Thị trấn Cà Mau (nay là
Thành phố Cà Mau) đã chứng kiến sự kiện lá cờ Đảng phất phới trên sợi dây thép căng ngang
sông Cà Mau, tại bến đò Kinh mười sáu ngày xưa (nay là bến vỏ). Đây là sự kiện diễn ra đầu
tiên của Chi bộ Cà Mau mới ra đời chưa tròn một tháng (so với lúc treo cờ) mà gây ấn tượng
sâu sắc đối với nhân dân khu vực Cà Mau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Việt Nam, Chi bộ đã tổ chức nhiều hoạt động trên phạm vi thị trấn Cà Mau, nơi mà bọn Thực
dân Pháp và bọn tay sai đã xây dựng bộ máy cai trị khá khắc nghiệt và nghiêm ngặt đối với
nhân dân Cà Mau lúc bấy giờ. Với tinh thần cách mạng tiến công và trách nhiệm của người
Đảng viên cộng sản, các đồng chí trong chi bộ tổ chức các hoạt động tuyên truyền bí mật để


chống kẻ thù; đồng thời tìm mọi cách để nêu cao vai trò cuả Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho
nên các đồng chí trong chi bộ đi rãi truyền đơn những nơi công cộng như: ở bến xe, nơi nhóm
chợ, chỗ đơng người, hoặc nơi nhiều người đi qua lại ... Đặc biệt là chi bộ đã khắc phục
những khó khăn, tìm những nơi kín đáo để che tai, mắt kẻ thù, viết từng khẩu hiệu “Đảng
Cộng sản Việt Nam muôn năm !”, “Đả đảo đế quốc Pháp” dán lên góc tường và những nơi
đông người qua lại, nhằm tạo sự chú ý của quần chúng. Đây là sự cố gắng lớn của Chi bộ, chỉ
có thời gian ngắn, trước một đêm ngày 03 tháng 02 năm 1930, mà chi bộ phải tập trung nhiều
công việc khá vất vả; lại trong lúc kẻ thù đang theo dõi mà các đồng chí Đảng viên của chi bộ
đã làm cho chính quyền thực dân Pháp và tay sai ở tại quận Cà Mau lúc bấy giờ hoảng hốt, lo
sợ, láo nháo như cuộc báo động “hỗn loạn” chưa từng có giữa ban ngày ở khu vực cà Mau.
Cho nên suốt cả buổi, bọn chúng lúng túng tìm mọi cách để lấy lá cờ xuống mà trong lòng hồi
hộp (sợ lọt vào ý đồ của Cộng sản). Dù chúng có ngăn chặn, không cho đồng bào ta đến gần
nơi treo cờ, nhưng bà con vẫn tìm mọi cách, lấy cớ qua đị sang sơng để được tận mắt nhìn rõ
lá cờ đỏ búa liềm lượn theo gió trên sơng Cà Mau. Và cũng chính lá cờ đỏ búa liềm mà người
dân lao động Cà Mau đang mong muốn tự bao giờ, nay đã thành sự thật.


Cuộc hốt hoảng của kẻ thù chưa hết. Lại ngày 01 tháng 05 năm 1930, nhân kỷ niệm
ngày lao động Quốc tế ; các anh thanh niên yêu nước ở ven thị trấn Cà Mau (nay là thành phố
Cà Mau) lại bỏ tiền ra mua nước sơn vải đỏ và giấu bọn tề để vẽ lá cờ Đảng búa liềm treo trên
cây dương ở Đình Tân Hưng (nay thuộc xã Lý Văm Lâm, Thành phố Cà Mau). Đặc biệt lá cờ
này, do 03 anh thanh niên yêu nước đã dũng cảm đề thẳng tên lót của mình vào lá cờ: “NGỌC
- ĐỨC – THẾ” nghĩa là: NGỌC là Nguyễn Ngọc Hương, THẾ là Lương Thế Trân, ĐỨC là
Nguyễn Đức Cao. Để biểu hiện ý trí của mình, sẵn sàng đi theo con đường của Đảng, đánh
bọn xâm lược cướp nước. Đồng thời, lá cờ còn nổi lên dòng chữ: “Diệt trừ Pháp tặc” có nghĩa
là: Biểu hiện quyết tâm đánh Tây (thực dân Pháp) để giải phóng dân tộc, giành độc lập – tự
do. Như sau này Bác Hồ ta đã nói: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chiụ làm nơ lệ”. ý chí của người thanh niên u nước, ở mũi Cà Mau đã ghi
lời thề vào cờ Đảng, sẳn sàng đem máu của mình tơ thắm cho ngọn cờ quang vinh của Đảng
Cộng sản Việt Nam.



Trong ngày 01 tháng 05 năm 1930, khơng chỉ có lá cờ đỏ búa liềm xuất hiện vào buổi
sáng mặt trời đỏ rực, mà còn các khẩu hiệu, truyền đơn được rãi các nơi, nhất là những nơi
bọn tề và dinh quận, làm cho bọn chúng náo động và hoang mang trong hàng ngũ bộ máy của
bọn thực dân Pháp ở Cà Mau. Bà con ở ven thị trấn rất vui mừng, bàn tán xôn xao, khâm phục
những ai sáng kiến và dũng cảm treo cờ Đảng ngay trong khu vực quản lý nghiêm ngặt của
địch.


Việc xuất hiện cờ Đảng vào ngày 03 tháng 02 năm 1930 và ngày 01 tháng 05 năm 1930
ở khu vực Cà Mau là sự kiện đầu tiên trong lịch sử tỉnh nhà đã đánh dấu bước trưởng thành
nhảy vọt của phong trào cách mạng nhân dân Cà Mau, từ đấu tranh tự phát, chuyển sang đấu
tranh tự giác khá sâu sắc. Và sự kiện treo cờ Đảng, còn biểu hiện tấm lòng người dân Đất Mũi
đối với Đảng; đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có mặt
sớm ở mảnh đất tận cùng cực Nam của Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Bài 4:


ĐẠI HỘI THÀNH LẬP QUẬN ỦY CÀ MAU TIẾN TỚI THÀNH LẬP TỈNH ỦY CÀ
MAU


1-Đặc điểm tình hình Cà Mau trước Đại hội Quận ủy:


Sau sự kiện 01/05/1931, thực dân Pháp ra sức đàn áp cách mạng, phong trào ở Cà Mau
tạm thời lắng xuống. Khác với các địa phương khác trong cả nước, năm 1932 phong trào đã
dần dần được phục hồi.


Tháng 06/1932 một cơ sở cách mạng được thành lập tại Năm Căn để liên lạc, bảo vệ
các cán bộ bị địch khủng bố chạy về đây lánh tạm. Ngày 01/05/1935 Cà Mau đón nhận một số
chiến sĩ vượt Côn Đảo trở về như: Tống Văn Trân, Tạ Uyên, Phạm Hồng Thám, Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Văn Trọng. Trong số cán bộ trên ông Phạm Hồng Thám được bố trí ở lại hoạt
động tại vùng Năm Căn và đến tháng 10/1935 lập được Chi bộ Tân Ân, trong đó có Thầy giáo


Phan Ngọc Hiển và một số Đảng viên khác nữa do ông Nguyễn Văn Hồnh Lâm làm Bí thư.
Từ 1931 đến 1935 ở cà Mau đã có 14 Chi bộ được thành lập trong toàn tỉnh. Đây là hạt nhân
quan trọng để Đảng bộ phát triển phong trào cách mạng dân chủ sau này.


Do thắng lợi trong tuyển cử tháng 04 năm 1936, tháng 06 năm ấy, Chính Phủ Mặt trận
bình dân Pháp được thành lập, ban hành một số chính sách có tính chất dân chủ, tiến bộ ảnh
hưởng tích cực đến cách mạng nước ta.


Thực hiện chủ trương của Đảng ta “đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa”,
“chống phát xít, chống chiến tranh”. Được sự chỉ đạo của liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Chi bộ Cà
Mau đã bàn bạc và đưa ra kế hoạch đưa một bộ phận của Đảng ra hoạt động công khai gồm
các ông: Lâm Thành Mậu, Văn Trang Thành, Tào Văn Ty, Phan Ngọc Hiển, Hồng Hoa do
ông Lâm Thành Mậu làm Bí thư. Một Chi bộ bí mật khác do ơng Phạm Hồng Thám làm Bí
thư.


Phong trào dân chủ do Đảng lãnh đạo đã thu được nhiều thắng lợi. Trong thời gian này
Đảng cùng lãnh đạo nhân dân chống bọn phát xít Hồ Hữu Tường, Đào Hương Long đến Bạc
Liêu. Đồng thời vạch rõ âm mưu thủ đoạn của bọn này trước nhân dân.


2- Đại hội Quận ủy Cà Mau lần thứ nhất:


Trước sự phát triển của phong trào cách mạng ở Cà Mau cùng với sự ra đời của nhiều
Chi bộ ở Cà Mau. Theo đề nghị của ông Phạm Hồng Thám, được Liên Tỉnh ủy Hậu giang
đồng ý, Hội nghị đại hội Đảng ủy Quận Cà Mau lần đầu tiên được triệu tập.


Hội nghị diễn ra trong hai ngày, 5 và 6/ 7/ 1937 tại nhà ông Lâm Thành Mậu (Thị trấn
Cà Mau).


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Đại hội đã nhất trí thơng qua như sau:



+Tiếp tục phát triển rộng rãi các tổ chức quần chúng hợp pháp và nửa hợp pháp, nhất là
nơi chưa có cơ sở hoặc cơ sở cịn yếu, chú trọng các đồn điền lớn, xí nghiệp như nhà máy,
trại cưa và lị than... ở nơng thơn đấu tranh chống địa chủ, chống cướp ruộng đất của nông
dân... ở những xí nghiệp có cơng nhân vận động anh chị em vào các nghiệp đoàn, Hội hữu ái
và đấu tranh đòi tăng lương.


+ Củng cố phát triển Đảng, chú ý những xã chưa có cơ sở Đảng, nhà máy, đồn điền
chưa có đảng viên. Qua phong trào đấu tranh mà cũng cố Chi bộ, phát triển đảng viên mới và
xây dựng Chi bộ ở những nơi chưa có, chú trọng cơng tác giáo dục nhằm làm cho đảng viên
nắm rõ sách lược của Đảng, nắm được công tác vận động quần chúng và tuyên truyền phát
triển đảng. Quận ủy phân công cho các quận ủy viên phụ trách một số xã để đưa phong trào
lên mạnh mẽ, đều khắp. Quận ủy cũng chỉ định bộ phận hoạt động công khai do đồng chí
Phan Ngọc Hiển phụ trách.


Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành quận ủy gồm các ông: Phạm Hồng Thám, Trần Văn
Đại, Nguyễn Tấn Khương, Huỳnh Tấn Anh, Võ Hồng, Nguyễn Văn Gai, Nguyễn Văn
Hồnh, do ơng Phạm Hồng Thám làm Bí thư, ơng Trần Văn Đại làm phó Bí thư, ơng Nguyễn
Tấn Khương làm ủy viên Thường vụ.


Quận ủy Cà Mau được thành lập là sự kiện quan trọng có ý nghĩa lớn đối với phong
trào cách mạng quận Cà Mau nói riêng và của tỉnh Bạc Liêu lúc bấy giờ nói chung. Vì từ
trước đến nay các Chi bộ vẫn trực tiếp dưới sự lãnh đạo của liên tỉnh ủy Hậu Giang.


3-Hội nghị Ban chấp hành Tỉnh ủy lần thứ nhất:


Cùng với cả nước trong những năm cuối 1937 đầu 1938, phong trào Mặt trận Bình dân
ở Cà Mau lên cao. Đặc biệt, ngày 01/5/1930, Đảng bộ Quận ủy Cà Mau đã tổ chức mít tinh
cơng khai để tun truyền chủ trương của Mặt trận với 200 đại biểu của các tổ chức quần
chúng ở Thị trấn và các xã về dự nghe ông Nguyễn Công Trung và Phan Ngọc Hiển diễn
thuyết. Kẻ địch bao vây phá hoại cuộc mít tinh, bắt diễn giả nhưng được quần chúng bảo vệ


đến cùng. Hay như cuộc đấu tranh của 500 hộ nơng dân Khánh Bình đã chống lại địa chủ
Nguyễn Cao Hoài cướp đất của họ.Và cuộc đấu tranh của hơn 1000 nông dân các xã vùng lên
kéo đến Dinh Quận trưởng Cà Mau địi cứu đói, bãi bỏ thuế thân... làm cho địch lúng túng.


Đến tháng 10/1938, nhiều cơ sở Đảng được thành lập ở các địa phương. Quận ủy Cà
Mau có tới 15 Chi bộ gồm 80 đảng viên, Giá Rai có 03 Chi bộ, 13 đảng viên, Vĩnh Châu có
02 Chi bộ, 13 đảng viên.


Để thống nhất lãnh đạo kịp thời trong toàn tỉnh, được Xứ ủy đồng ý, Liên tỉnh ủy Hậu
Giang cho phép ngày 25/10/1938 đại biểu của 03 quận: Cà Mau, Vĩnh Châu, Giá Rai được
triệu tập về Lung Lá Nhà Thể thuộc xã Tân Hưng hội nghị (nay là ấp Lung Lá Nhà Thể, xã
Lương Thế Trân, huyện Cái Nước).


Về dự hội nghị có 02 đại biểu của Xứ ủy Nam kỳ và 01 đại biểu đại diện cho Liên tỉnh
ủy Hậu Giang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác phát triển đảng, nhất là ở Quận Vĩnh Lợi và Thị
xã Bạc Liêu để đáp ứng kịp thời lãnh đạo phong trào quần chúng đang phát triển... Hội nghị
cũng bầu ra Ban chấp hành lâm thời của Tỉnh đảng bộ Bạc Liêu gồm 07 ủy viên chính thức
và 02 ủy viên dự khuyết. Bà Bùi Thị Trường làm Bí thư, Ơng Trần Văn Đại làm phó Bí thư.
Tình hình thế giới và trong nước có ảnh hưởng không tốt cho phong trào cách mạng
dân chủ ở nước ta. Việc củng cố, phát triển cơ sở Đảng tăng cường lãnh đạo phong trào cách
mạng quần chúng là cần thiết.


Nhiệm vụ kiện toàn tổ chức lúc bấy giờ là cấp thiết. Được Liên tỉnh ủy Hậu Giang cho
phép, Tỉnh ủy lâm thời đã triệu tập Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ.


Đai hội đã họp trong ngày 2 – 3/2/1939 tại Thị trấn Cà Mau.


Đại biểu về dự gồm có 03 đại biểu của Tỉnh ủy lâm thời, 20 đại biểu của Chi bộ, 01 đại


biểu của Xứ ủy và 01 đại biểu của Liên Tỉnh ủy.


Đại hội đã đánh giá thành tích vận động quần chúng của Đảng bộ là rất lớn... Qua đó
lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi. Do đó uy tín của Đảng được nâng cao.


Đại hội cũng rút ra một số kinh nghiệm trong công tác vận động quần chúng, phê phán
một số biểu hiện hẹp hòi, thành kiến và lệch lạc trong vận động quần chúng; nặng về tầng lớp
trên, nhẹ về quần chúng lao động.


Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Tỉnh uỷ chính thức gồm 09 người do ông Trần Văn
Đại làm Bí thư, Ơng Lê Hữu Ngọc làm phó Bí thư và 02 uỷ viên dự khuyết.


4-Ý nghĩa lịch sử:


Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ thành lập Tỉnh ủy năm 1939 là một sự kiện lịch sử quan
trọng, là sự lớn mạnh của Đảng trong hơn tám năm kể từ khi có Chi bộ đầu tiên của tỉnh ra
đời.


Từ đây các Đảng bộ quận ủy, chi bộ được sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất, kịp thời của
Ban chấp hành Tỉnh ủy.


Phong trào cách mạng của nhân dân tỉnh nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là
Tỉnh ủy đã có bước chuyển biến mới.


Câu hỏi:


1-Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ra đời ở Cà mau như thế nào ?
2-Trình bày Đại hội Quận ủy Cà Mau lần thứ nhất vào năm 1937 ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Bài 5



KHỞI NGHĨA HÒN KHOAI 13/12/1940


I-ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.


Vào đầu năm 1940, chiến tranh thế giới thứ hai diễn biến phức tạp. ở Châu á, Nhật ào ạt
tung quân xuống Hoa Nam giáp sát biên giới Việt Nam.


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh đã nhanh chóng phục hồi hệ
thống tổ chức lãnh đạo. Tháng 5/1940, Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị đại biểu Tỉnh đảng bộ tại
Tắc Ông Do, xã Tân Hưng Tây. Ông Tạ Uyên, đại diện Xứ ủy đến dự và truyền chỉ thị, chủ
trương chuẩn bị khởi nghĩa của Xứ ủy. Hội nghị đã thảo luận và đề ra kế hoạch chuẩn bị khởi
nghĩa của Tỉnh. Hõi nghị đã bầu ra một Ban chấp hành mới do ơng Trần Văn Thời làm Bí thư.
Nghị quyết của Tỉnh ủy đã đến từng Chi bộ để thảo luận, lực lượng cách mạng phát triển
nhanh chóng, một số xã đã lập được đội du kích vũ trang như xã Phong Lạc, Khánh Bình, Tân
Hưng Tây... Cùng với việc chuẩn bị khởi nghĩa ở đất liền, Thường vụ Tỉnh ủy đã cử ông Phan
Ngọc Hiển và hai quần chúng cốt cán ra đảo Hòn Khoai để gây dựng cơ sở.


Khi Nhật vào Đông Dương, tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra. Tiếng súng Bắc
Sơn đã thúc đẩy Xứ ủy và nhân dân Nam Kỳ chuẩn bị nhanh công cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Trước tình hình phong trào quần chúng sơi sục và địch đang điên cuồng đánh phá. Qua nhiều
cuộc thảo luận, Xứ ủy Nam kỳ quyết định sẽ tiến hành khởi nghĩa vào lúc 0 giờ ngày


23/11/1940. Trước hết là ở Sài gịn và cử Ơng Phan Đăng Lưu ra Miền Bắc xin chỉ thị của
Trung ương.


Đề nghị của Xứ ủy Nam kỳ được Hội nghị Trung ương VII nghiên cứu, phân tích kỹ và
đi đến kết luận: cả điều kiện khách quan và chủ quan chưa chín muồi để khởi nghĩa thắng lợi.
Từ đó Trung ương chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa. Thế nhưng mãi đến ngày 22/11/1940 lệnh
ngừng khởi nghĩa mới về đến Saì Gịn. Trong khi đó lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ đã truyền đến


các Đảng bộ không thu hồi kịp.


Lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ được chuyển đến tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau- Bạc
Liêu) đêm 23/11, chậm so với giờ quy định thống nhất chung. Do nhận được chỉ thị chậm và
không hiểu rõ nội dung điều căn dặn của Xứ ủy, một mặt Thường vụ Tỉnh ủy cử liên lạc xin
chỉ thị của Xứ ủy về ngày giờ khởi nghĩa và đón nhận vũ khí. Mặt khác triệu tập Hội nghị
Tỉnh ủy mở rộng ngày 26/11/1940 tại Lung Lá Nhà Thể để thực hiện Nghị quyết của Xứ ủy.


Hội nghị nhất trí thơng qua phân định 3 khu vực khởi nghĩa trong tỉnh:


-Khu vục I : Vùng Năm Căn gồm Thị trấn và một số xã chung quanh và Hòn Khoai do
ông Quách Văn Phẩm, Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách. Ông Phan Ngọc Hiển trực tiếp lãnh đạo
khởi nghĩa Hòn Khoai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

-Khu vục III: Thị xã Bạc Liêu và các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu do ông Trần
Phán, Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách.


Hội nghị nhất trí chọn Hịn Khoai làm điểm mở đầu cho cuộc khởi nghĩa trong tỉnh. Vì
ở đây có khả năng giành thắng lơi trọn vẹn, vừa tạo được khí thế ban đầu vừa có thêm vũ khí
trang bị cho khởi nghĩa ở đất liền.


II- DIỄN BIẾN KHỞI NGHĨA HÒN KHOAI.


Để kịp thời cùng với các tỉnh trong cuộc khởi nghĩa 05/12/1940, Tỉnh ủy đã triệu tập
Hội nghị đại biểu của các chi bộ Năm Căn tại Lung Lá Nhà Thể để định ngày, giờ khởi nghĩa.


Hội nghị nhất trí nửa đêm 13/12/1940, Hịn Khoai sẽ nổi dậy và sau khi giành thắng lợi,
thu vũ khí, lực lượng khởi nghĩa Hòn Khoai về đất liền cùng với du kích Tân Hưng và quần
chúng các xã lân cận đánh chiếm Năm Căn vào đêm 14/12, sau đó kéo về chi viện cho Thị
trấn Cà Mau.



Ngày 12/12, Thường vụ Tỉnh ủy nhận được lệnh của Liên Tỉnh ủy đình khởi nghĩa đối
với các tỉnh thuộc Liên Tỉnh ủy Hậu Giang.


Tỉnh ủy đã kịp thời chỉ thị cho các khu vực ngưng khởi nghĩa, phân tán lực lượng
khơng được bạo động.


Riêng Chi bộ ngồi đảo khơng có cách nào chuyển lệnh ngưng khởi nghĩa đến được.
Trong khi đó, cũng đúng ngày 12/12, ơng Phan Ngọc Hiển nhận được Nghị quyết của Tỉnh ủy
do ông Bông Văn Dĩa, đảng viên của Chi bộ Tân Ân chuyển tới. Chi bộ Hịn Khoai cùng với
ơng Bơng Văn Dĩa bàn kế hoạch thực hiện và quyết định giờ khởi nghĩa từ 20 đến 23 giờ đêm
ngày 13/12. Lực lượng khởi nghĩa sẽ bắt sống tên Sếp đảo Ô-li-vi-ê, thu vũ khí về đất liền để
kịp cùng với lưc lượng xung quanh phối hợp chiếm Năm Căn.


Đúng như kế hoạch, 23 giờ 15 phút ngày 13/12/1940 cuộc nổi dậy ở Hòn Khoai nổ ra
và giành được thắng lợi nhanh chóng trọn vẹn, trong trận chiến đấu đầu tiên này vẫn giữ được
bí mật.


Lực lượng khởi nghĩa về đến đất liền trong khí thế của đồn qn chiến thắng, cờ đỏ
sao vàng, khẩu hiệu “Mặt trận dân tộc phản đế mn năm”.


Do có lệnh đình khởi nghĩa ở đất liền, lực lượng khởi nghĩa Hòn Khoai đã chờ suốt
đêm 14/12 vẫn không thấy hiệu lệnh tấn công và cũng không liên lạc được với chỉ huy khu
vực I.


Để phát huy thắng lợi, 9 giờ sáng ngày 15/12, Phan Ngọc Hiển đã hạ lệnh cho các đồng
chí của ơng tấn cơng vào nhà Quận Kiểm Lâm, tên Đốc Đơng khiếp sợ giao nộp tồn bộ vũ
khí cho quân khởi nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Lực lượng tại xã chờ theo dõi tình hình và hướng dẫn đồng bào sơ tán chống khủng bố


của địch.


Biết lực lượng của ta yếu, địch càng ra sức truy quét quyết liệt. Địch bám theo ráo riết
sau 04 ngày đêm, đến ngày 22/12 chúng đã bắt được các chiến sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai tại
bãi Khai Long.


III- KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA.


Cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai nổ ra trong bối cảnh lịch sử cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vừa
chấm dứt, địch đang điên cuồng chống phá. Bọn Thực dân cho đây là sự thách thức đối với
chúng, vì vậy chúng đã tàn sát một cách man rợ.


-Ngày 12/07/1941, chúng xử bắn 08 chiến sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai: Phan Ngọc Hiển,
Đỗ Văn Sến, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Cự, Đỗ Văn Biên, Nguyễn Văn Cẩn, Ngô Kinh
Luân, Nguyễn Văn Bỉnh và 02 cán bộ của Đảng ta là Quách Văn Phẩm (Thường vụ Tỉnh ủy)
và Lê Văn Khuyên và 10 đồng chí khác bị chết trong ngục tù Côn Đảo, hàng chục chiến sĩ
khác bị giam cầm.


-Tinh thần Cách mạng của các chiến sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai sống mãi trong lòng nhân
dân Cà Mau, biểu hiện tình cảm yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường bất khuất, quyết hy sinh
vì độc lập tự do của nhân dân. Máu của khởi nghĩa Hòn Khoai, của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
đã tô thắm lá cờ đỏ sao vàng bất diệt của dân tộc ta, cổ vũ nhân dân ta tiến lên trên con đường
giải phóng dân tộc, đồng thời để lại bài học quý giá cho cách mạng Tháng Tám giành thắng
lợi huy hồng.


-Khởi nghĩa Hịn Khoai với tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của nó đã được Đại hội đại biểu
Tỉnh đảng bộ Minh hải lần thứ VI quyết định lấy ngày Khởi nghĩa Hòn Khoai 13/12 làm ngày
truyền thống Cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau. Hòn Khoai ngày nay đã
trở thành di tích lịch sử cách mạng của cả nước; là biểu tượng tự hào về truyền thống cách
mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Cà Mau.



Câu hỏi:


1-Nêu ngắn gọn tình hình cách mạng trước khởi nghĩa Hịn Khoai ?
2-Trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa ?


3-ý nghĩa cuả cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Bài học thêm:


CUỘC HÀNH QUYẾT “MƯỜI CHIẾN SĨ HÒN KHOAI” TẠI CÀ MAU


Ngày 23/12/1940, hầu hết các chiến sĩ tham gia khởi nghĩa Hòn Khoai bị địch bắt tại
rẫy Khai Long, sau một tuần lễ chạy trong rừng đước Tân Ân. Chỉ có các đồng chí Bơng Văn
Dĩa, Nguyễn Thi Qt, chị Năm Kỳ là không rơi vào tay giặc.


Đưa các chiến sĩ ta về Cà Mau, bọn mật thám thay nhau tra tấn hết sức dã man. Nhưng
khơng một đồng chí nào khai báo điều gì. Chúng tra tấn đồng chí Phan Ngọc Hiển nặng nhất,
nhưng đồng chí vẫn dũng cảm, giữ vững khí tiết của người Đảng viên cộng sản.


Ngày 12/7/1941, sau 06 tháng giam cầm và tra tấn, Thực dân Pháp đem 08 chiến sĩ
Hoàn Khoai là: Phan Ngọc Hiển, Đỗ Văn Sến, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Cự, Đỗ Văn
Biên, Nguyễn Văn Cẩn, Ngô Kinh Luân, Nguyễn Văn Bỉnh và 02 đồng chí là Lê Văn Khuyên
(đảng viên chi bộ Thị trấn Cà Mau), Quách Văn Phẩm (Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách khởi
nghĩa khu vực Năm Căn) ra hành quyết tại một khoảnh đất gần Sân vận động Cà Mau. Nhiều
đồng chí bị lưu đày, giam giữ.


Trước khi hy sinh đồng chí Phan Ngọc Hiển giật vải băng bịt mặt và kêu gọi đồng bào
Bạc Liêu hãy tiếp tục đấu tranh, đánh đuổi đế quốc Pháp giành lại độc lập tự do.



Và anh hô to :


-Đả đảo đế quốc Pháp !


-Đông dương độc lập muôn năm !


-Đảng cộng sản -Đông dương muôn năm !


Tất cả các chiến sĩ đều đồng thanh hơ vang theo đồng chí Phan Ngọc Hiển. Mười tiếng
súng nổ cắt đứt lời tâm huyết sau cùng.


Về sự kiện này, Nhà báo Minh Hải, Nguyễn Mai thuật lại như sau: “Mười người cộng
sản mỉm cười, chào nhau bằng một cái gật đầu. Phan Ngọc Hiển không bị bịt mắt, anh đứng
thẳng lên, thay mặt 09 anh chị em cộng sản xin nói chuyện với đồng bào nửa tiếng đồng hồ.
Bọn Pháp chỉ chấp nhận 10 phút. Đồng chí Phan Ngọc Hiển dõng dạc nói; “Người Cộng sản
coi cái chết rất bình thường. Chúng tôi sẵn sàng chết để đấu tranh cho đồng bào được ấm no.
Nhất định nhưng người kết tiếp chúng tôi sẽ tiêu diệt Thực dân Pháp ! Nhất định nước Việt
Nam sẽ hoàn toàn độc lập !...”.


Tên sĩ quan Pháp rút gươm ra khỏi vỏ, vung lên. Một loạt súng trường...”


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Nguyễn Mai viết tiếp: “Mưa đổ xuống Cà Mau trắng phố. Đoàn xe chở thi thể 10 người
cộng sản lò dò trên các con đường nước ngập chạy ra phía ngoại ơ. Đồng bào đội nón, che dù,
mặc áo mưa, hoặc dầm mình đứng đón dài từ trường Pháp – Việt lên tới nhà giảng Tin Lành.


*Người ta thì thầm bàn tán:


-Giáo Hiển giết chết Tây, lấy đảo Hịn Khoai rồi khơng biết tại sao bị bắt tại Rạch
Gốc ? Chỗ đó với Cái Nhúc, Rạch Rập Cộng sản nhiều dữ lắm. Mới đâu đây, nghe nói ở Rạch
Rập, với lại trên Miễn Hội có treo cờ đỏ búa liềm...



-Người cộng sản là gan- một thằng lính cai nói – Hồi ở khám, kêu đi bắn, họ còn hát bài
ca Cộng sản !... (Nguyễn Mai, tác phẩm Rừng do Văn nghệ giải phóng Tây Nam bộ xuất bản
năm 1975, trang 55, 57).


Cuộc khởi nghĩa Hịn Khoai thắng lợi, nhưng nó nằm trong bối cảnh chung của Khởi
nghĩa Nam Kỳ, cuối cùng bị tổn thất, vì chưa có đủ điều kiện khách quan và chủ quan chín
muồi cho một cuộc khỏi nghĩa. Nhưng dù sao nó cũng để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh
nghiệm. Nhưng với thực tế đó nó khẳng định khả năng cách mạng to lớn của quần chúng lao
động bị áp bức; chứng minh lịng u nước nồng nàn, ý chí anh hùng bất khuất của cán bộ
Đảng Cộng sản và nhân dân Bạc Liêu trước kia cũng như hiện nay.


Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 43 ngày Nam Kỳ khởi nghĩa và khởi nghĩa Hòn Khoai
(23/11/1940 – 23/11/1983) tổ chức tại Thị xã Cà Mau, đồng chí Đồn Thanh Vị, ủy viên dự
khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Minh Hải nói: “Gần nửa thế kỷ trôi
qua, trên mảnh đất đau thương và bất khuất này, thời gian khơng làm xố mờ được hình ảnh
của 10 liệt sĩ Hịn Khoai. Bởi bóng cờ khởi nghĩa vẫn luôn luôn vẫy gọi ! Bởi ngọn đèn hải
đảo mãi chiếu sáng ở lòng người! Bởi lời anh Phan Ngọc Hiển vẫn còn văng vẳng bên tai của
mỗi chúng ta. Và bởi vì tình người Minh Hải không bao giờ quên tập thể nhưng người Cộng
sản nêu cao khí phách anh hùng, hy sinh trọn đời mình cho dân tộc, cho Tổ quốc”.


Cuối cùng đồng chí Đồn Thanh Vị kêu gọi: “Biết ơn và noi gương 10 liệt sĩ Hòn
Khoai, hàng năm chúng ta lấy ngày 13/12 làm ngày Hội truyền thống của toàn tỉnh, tạo ra
trong đời sống tinh thần và tình cảm của con người Minh Hải: “Uống nước nhớ nguồn”.
Ngày 13/12 được xem là ngày lịch sử vẻ vang nhất của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Ngay
từ hôm nay, mỗi người chúng ta phải suy nghĩ mình cần phải làm gì cho ngày Hội truyền
thống đó ?”.


(Trần Thanh Phương – Minh Hải địa chí – NXB Mũi Cà Mau năm 1985, trang 86, 88).



Bài đọc thêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

(Lời phát biểu của ông Nguyễn Văn Đáng - Bí thư Tỉnh ủy Minh Hải tại buổi Mít tinh
kỷ niệm 50 năm ngày Khởi nghĩa Hòn Khoai)


Đại Hội lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Minh Hải đã quyết định lấy ngày Khởi nghĩa Hòn
Khoai 13/12/1940 làm ngày truyền thống cách mạng của nhân dân Minh Hải. Nhân các ngày
lễ lớn năm 1990, Tỉnh ủy chủ trương tổ chức kỷ niệm trọng thể 50 năm ngày Khởi nghĩa Hòn
Khoai để phát huy truyền thống, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tiến lên đúng hướng và nhanh
chóng hơn nữa nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh.


Hôm nay đông đảo đồng bào, cán bộ, chiến sĩ trong tỉnh trở về đây tổ chức ngày Hội
truyền thống trên quê hương Ngọc Hiển, nơi có vinh dự mà nên lịch sử khởi nghĩa Hòn
Khoai. Đây là biểu tượng của lòng tự hào về quá khứ oanh liệt và cũng là biểu tượng của niềm
tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vinh quang mà Đảng và Bác Hồ kính
yêu đã chọn.


Trong buổi lễ kỷ niệm truyền thống vẽ vang này, thay mặt Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân,
ủy ban nhân dân, ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, tôi nhiệt liệt chào mừng đồng bào, cán bộ,
chiến sĩ, các cháu thanh thiếu niên và học sinh. Đặc biệt, tôi ân cần thăm hỏi và biết ơn sâu
sắc các chiến sĩ 40, các chiến sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai và đồng bào Rạch gốc – Tân ân, suốt
50 mươi năm qua vẫn sống, lao động và chiến đấu dưới ngọn cờ vẽ vang của Đảng.


Trong giờ phút trang trọng này, Đảng bộ và nhân dân Minh Hải xin nghiêng mình
tưởng niệm đồng bào, đồng chí trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ và các chiến sĩ Hòn Khoai anh
hùng đã lấy máu mình viết nên trang sử bất diệt.


Nhân ngày Hội truyền thống, chúng ta cùng nhau ôn lại những chặn đường đầy gian
khổ hy sinh hơn nửa thế kỷ qua mà mở đầu là cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai được đánh dấu như
một mốc lịch sử cách mạng của tỉnh ta, từ năm 40 đến nay và cả mai sau.



Hịn Khoai nằm ở biển Đơng, cách mũi Cà Mau khoảng 20 cây số, là đảo có vị trí chiến
lược qn sự, bị Thực dân Pháp chiếm đóng từ những năm đầu thế kỷ này. Nơi đây 50 năm về
trước đã diễn ra cuộc bạo động cách mạng trong thời điểm Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 của
Tỉnh ủy Bạc Liêu và Chi bộ nơi đây. Ngay sau đó những người cộng sản và quần chúng nhân
dân đã bắt đầu vào cuộc chiến đấu sinh tử với quân thù. Đúng 11 giờ 15 phút đêm 13/12/1040
tại Tháp hải đăng, nghĩa quân xông lên giết chết tên thực dân Pháp Ô-Li-Vi-Ê chúa đảo, thu
gom vũ khí về xóm Rạch Gốc, chiếc nơi của cuộc khởi nghĩa. Lần đầu tiên nhìn thấy lá cờ đỏ
búa liềm, đồng bào Tân Ân vô cùng sung sướng, tưởng chừng như từ đây được “đổi đời”,
thoát khỏi cảnh đọa đày, nô lệ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Sau cuộc khởi nghĩa, nhiều đồng chí, đồng bào ta bị địch bắt, tra tấn vô cùng dã man,
nhiều người bị lưu đày, đổi các nhà tù. Đồng chí Trần Văn Thời, Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu bị
giam giữ và hy sinh tại Cơn Đảo. Nhưng các đồng chí bị địch đưa ra pháp trường vẫn hiên
ngang mắng vào mặt kẻ thù, giữ vững khí phách kiên cường của người Cộng sản.


Sau Nam kỳ khởi nghĩa, thực dân Pháp khủng bố rất tàn bạo, phát xít. Chúng ra sức sát
hại đồng bào, đồng chí, dìm cuộc khởi nghĩa trong biển máu. Chúng tưởng chừng như dập tắt
được ngọn lửa cách mạng. Nhưng chúng đã lầm, càng khủng bố thì lịng căm thù địch và tinh
thần u nước của nhân dân ta càng sôi sục. Lớp này ngã, lớp sau đứng dậy tiếp tục chiến đấu,
lòng tin sắt đá của nhân dân đối với Đảng, của Đảng đối với dân khơng gì lay chuyển nổi. Các
cơ sở Đảng đã gây dựng đi gây dựng lại nhiều lần nhưng ngọn cờ của Đảng không bao giờ
mất. Cách mạng tiếp tục phát triển, tinh thần yêu nước của nhân dân tiếp tục dâng cao, để khi
thời cơ đến, vùng lên tổng khởi nghĩa tháng tám, giành chính quyền về tay nhân dân, mở đầu
ở kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc và tiếp tục đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng
lợi, hoàn thành thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Nhắc đến đây, tôi bồi hồi nhớ anh út Điệp và các đồng chí bộ đội “Giáo phái” đã theo
bước chân Phan Ngọc Hiển, một lần nữa làm nên lịch sử Hịn Khoai vào cuối năm 1959. Hồi
đó, Tỉnh ủy hạ quyết tâm tiêu diệt cứ điểm này để mở đầu cao trào Đồng Khởi. Các chiến sĩ ta


vào trận đánh với lời thề quyết tử như năm 1940, Chi bộ Hòn Khoai đã tuyên thề dưới Đảng
kỳ. Ngọn cờ búa liềm năm ấy vẫn mãi vẫy gọi chúng ta.


Giờ đây nhắc lại sự kiện diễn ra hơn nữa thế kỷ qua, mỗi người chúng ta càng suy nghĩ
sâu sắc hơn về tầm vóc, giá trị, ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, Khởi nghĩa Hòn Khoai
và những tấm gương hy sinh bất khuất của đồng bào, đồng chí. Càng tự hào về quá khứ vẻ
vang chúng ta càng nâng cao nhiệt tình cách mạng, ra sức phấn đấu hoàn thành ước mơ mà
các bậc tiền bối đã để lại. Nếu như ai đó trong chúng ta thay lịng đổi dạ, xoay lưng với quá
khứ, làm những điều xấu xa thì người ấy có tội với lịch sử, dân tộc và những người đã ngã
xuống.


Mười lăm năm qua kể từ khi giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước Đảng bộ và
nhân dân tỉnh nhà tiếp tục đi theo con đường của Bác Hồ và Đảng ta đã vạch ra, tiếp tục
giương cao ngọn cờ khởi nghĩa Nam kỳ, khởi nghĩa Hòn Khoai. Đảng bộ và nhân dân Minh
Hải đã cùng với cả nước hoàn thành hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thắng lợi
giành nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Đặc biệt từ sau Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ VI và đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VII đến
nay, công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo được triển khai toàn diện. Bốn năm
qua, cùng với cả nước, chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng trên các
lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phịng, xây dựng Đảng, chính quyền và
công tác quần chúng. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện về vật chất lẫn tinh thần,
việc thực hiện các chính sách xã hội có những chuyển biến tích cực, bước đầu tạo nên bầu
khơng khí dân chủ trong nội bộ và trong xã hội... Những kết quả đó chứng tỏ đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, phù hợp với qui luật khách quan, được quần chúng nhân dân đồng
tình ủng hộ. Thay mặt Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Tỉnh, tơi nhiệt liệt hoan nghênh và biểu dương những đóng góp qúy báu của Đảng bộ và
quân dân Tỉnh nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa lại có tác động tiêu cực nhiều mặt đến nước
ta, các thế lực Đế quốc và phản động đang triệt để thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”


nhằm xố bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


Chúng ta kỷ niệm ngày truyền thống của tỉnh, khơng chỉ để nhớ lại những đồng chí,
đồng bào, nhớ lại đồng chí Phan Ngọc Hiển cùng các chiến sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai đã ngã
xuống mà điều quan trọng hơn là mỗi người chúng ta cần học tập ở cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ,
khởi nghĩa Hịn Khoai những bài học vơ giá và cố gắng sống sao cho xứng đáng với người đi
trước.


Bài học về ý trí cách mạng, lịng tin vào lý tưởng, lòng tin vào dân của cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ, khởi nghĩa Hịn Khoai có ý nghĩa to lớn đối với tình hình đất nước hiện nay. Tiếc
rằng trong thời gian qua, bên cạnh đại bộ phận cán bộ, Đảng viên trong tỉnh đã phát huy được
tinh thần cách mạng tiến công, giữ vững phẩm chất đạo đức, gắn bó và chăm lo lợi ích của
nhân dân, cịn một bộ phận khơng ít cán bộ, Đảng viên khơng giữ được phẩm chất, sa sút ý trí
chiến đấu, thiếu tinh thần trách nhiệm, xa rời quần chúng, chỉ biết lo cho riêng mình, quan
liêu, tham nhũng, thậm chí có người cịn hồi nghi cơng cuộc đổi mới, hoài nghi con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tất cả những khuyết điểm ấy phải chăng là có tội với dân
với nước, là “vong ân, bội nghĩa” đối với những người đã ngã xuống cho hơm nay và hồn
tồn xa lạ với bản chất của người cán bộ, Đảng viên Cộng sản. Vì vậy hơn lúc nào hết, sự
nghiệp cách mạng hiện nay đang đòi hỏi một đội ngũ cán bộ, Đảng viên vững vàng về ý chí,
có niềm tin vững chắc vào lý tưởng, có mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, phải làm
trong sạch đội ngũ, loại bỏ những phần tử khơng cịn xứng đáng thì mới có thể chiến thắng
mọi khó khăn, vững bước tiến lên phía trước.


Chúng ta trân trọng kỷ niệm 50 năm Nam kỳ khởi nghĩa, khởi nghĩa Hòn Khoai. Ngoài
việc tưởng niệm và biết ơn sâu sắc công lao, xương máu của các chiến sĩ 40, của đồng chí
đồng bào qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, chúng ta cũng ôn lại và học tập những bài học quí báu,
về khí phách kiên cường của những người đi trước nhằm liên hệ vơi tình hình và nhiệm vụ
cách mạng hiện nay. Từ đó tiếp thêm nghị lực, niềm tin và sức mạnh để hoàn thành mọi
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.



Trước mắt chúng ta là những thuận lợi, đồng thời cũng cịn rất nhiều khó khăn, phức
tạp, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới giành lấy thắng lợi to lớn hơn nữa...


Bài 6:


CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Ở CÀ MAU


1-Tình hình Cà Mau trước cách mạng Tháng Tám năm 1945 :


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

động do sự phân công của cấp trên, một số phải tạm lánh chuyển vùng hoạt động. Các Quận
ủy hầu hết bị đổ bể.


Trước tình hình đó, đại diện Tỉnh ủy Hậu Giang đã tìm gặp một số cán bộ còn lại ở địa
phương lập Ban cán sự Đảng do Ông Trần Văn Sớm làm trưởng ban để bám sát lãnh đạo quần
chúng.


Trong lúc Đảng ở Cà Mau gặp nhiều khó khăn thì tình hình thế giới thay đổi, chiến
tranh thế giới nổ ra. Đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc
thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi giai cấp
vận năm năm cũng không đòi lại được”. Đảng chủ trương lập Mặt trận Việt nam độc lập đồng
minh.


Ngày 09/03/1945, Nhật đảo chính Pháp đề độc chiếm Đông Dương, diển biến mới vô
cùng quan trọng. Đảng ta ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Để kịp
thời lãnh đạo cách mạng thống nhất, ngày 05/05 tại Tân Bằng, Ban vận động tái lập Đảng bộ
Nam Kỳ, triệu tập Hội nghị đại biểu các chi bộ khu vực Cà Mau để thành lập cơ quan lãnh
đạo lâm thời của Tỉnh Đảng bộ gồm 05 người do Ông Trần Văn Đại làm Bí thư.



Sau khi có chủ trương khởi nghĩa, Tỉnh ủy càng đẩy mạnh công tác tổ chức Đảng và tổ
chức quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang tự vệ. Phong trào cách mạng phát triển sôi nổi
vượt bậc ở nông thôn và thị trấn Cà Mau.


2-Diễn biến cách mạng Tháng Tám ở Cà Mau:


Trong khơng khí cả nước chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, thì tình hình
thế giới chuyển biến mau lẹ. Hồng Quân Liên Xô cùng với Đồng Minh tấn cơng Phát xít
Nhật. Được tin Nhật đầu hàng Đồng Minh khơng điều kiện. Chính quyền Nhật ở Đơng Dương
và bọn tay sai hoang mang rệu rã.


Hồ nhịp cùng chung với Bạc Liêu và cả nước, Tỉnh ủy Lâm thời Cà Mau do Ông Thái
Ngọc Sanh làm Bí thư đã tổ chức cuộc Mít tinh lớn ở thị trấn Cà Mau để chào mừng Mặt trận
Việt Minh ra đời và cũng là biểu dương lực lượng quần chúng tại sân vận động Cà Mau.


Sau đó chuyển thành cuộc biểu tình vũ trang thị uy k đến Dinh đốc phủ Kế, Quận
trưởng Cà Mau, đòi giao chính quyền cho nhân dân, nhưng Ơng Kế xin ta cho hỗn lại vài
hơm.


Quyết khơng trì hỗn việc giành chính quyền, ngày 25/08, Tỉnh ủy huy động lực lượng
quần chúng gây áp lực với chính quyền bù nhìn.


Trước thái độ cương quyết của ta, đốc Phủ Kế phải bàn giao chính quyền cho ủy ban
dân tộc giải phóng quận Cà Mau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Ngay sau thắng lợi đó, nhân dân khắp vùng nơng thơn trong tỉnh, dưới sự lãnh đạo của
các Chi bộ Đảng đã nhất tề đứng lên đập tan bộ máy chính quyền của tay sai xã, ấp thành lập
chính quyền nhân dân và các đoàn thể quần chúng cách mạng.


3-ý nghĩa lịch sử:



Qua mười lăm năm chiến đấu hy sinh gian khổ với tinh thần kiên cường, anh dũng dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Bạc Liêu (Cà Mau – Bạc Liêu ngày nay) đã đập tan bộ
máy thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai ở địa phương, giành lại
quyền làm chủ vận mệnh của mình.


Cùng với chiến thắng này, Đảng bộ và nhân dân Cà Mau đã cùng toàn Đảng, toàn dân
làm nên thắng lợi huy hoàng trong cách mạng Tháng Tám năm 1945.


Thắng lợi cách mạng Tháng Tám ở Cà Mau là kết quả của quá trình vận động cách
mạng liên tục cuả Đảng từ Chi bộ đầu tiên ra đời (1930) đến khi giành được chính quyền.
Trong 15 năm kể từ khi thành lập đến năm 1945 Đảng đã vận dụng đường lối, chủ
trương của Đảng vào tình hình cụ thể ở địa phương một cách linh hoạt và sáng tạo.


Đảng đã phát huy sức mạnh của nhân dân, tổ chức giáo dục và hướng dẫn họ trong
công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng ở Cà Mau, cũng chính vì thế mà địch khủng
bố, đánh phá ác liệt nhất, Đảng vẫn được nhân dân đùm bọc bảo vệ.


Đảng vận dụng tốt hai hình thức đấu tranh: Đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Đồng thời khơng ngừng mở rộng công tác binh vận. Nắm vững thời cơ, phát động nhân dân
tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.


Câu hỏi:


1-Nêu tóm tắt tình hình phát triển lực lượng cách mạng từ năm 1941 đến tháng 05/1945
ở Cà Mau ?


2-Diễn biến của cách mạng Tháng 08/1945 ở Cà Mau như thế nào ?
3-Trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng 08/1945 ở Cà Mau?



CHƯƠNG III


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Bài 7


TÌNH HÌNH CÀ MAU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM


1- Những khó khăn sau cách mạng Tháng tám ở Cà Mau.


Trong hoàn cảnh chung của cả nước, sau khi giành được chính quyền, Cà Mau đứng
trước mn vàn khó khăn. cách mạng tiếp quản một nền kinh tế – tài chính dường như trống
rỗng. Cơng nghiệp khơng có gì ngồi vài nhà máy xay xát nhỏ; ngân khố khơng cịn đồng nào
ngồi một số giấy 500 đồng Ngân hàng Đơng Dương đã khơng cịn giá trị; hàng hoá khan
hiếm; đời sống của đại đa số nhân dân thiếu thốn mọi bề. Nặng nề hơn là chính sách ngu dân
của đế quốc Pháp để lại với hơn 90 % dân số mù chữ. Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc,
mê tín dị đoan, trộm cướp... là vấn đề cần giải quyết.


Từ khi Thực dân Pháp đánh chiếm S Gịn, bọn phản động ở Cà Mau, sau một thời
gian giấu mình, lại ngóc đầu dậy, móc nối nhau, ngấm ngầm chống phá cách mạng. Chúng
tuyên truyền xuyên tạc, kích động thù hằn dân tộc và tơn giáo.


Trong khi đó chính quyền cách mạng ở địa phương còn non yếu, các tổ chức đoàn thể
và Mặt trận Việt Minh mới thành lập trước khởi nghĩa chưa bao lâu, hệ thống tổ chức còn
lỏng lẻo, lực lượng nòng cốt còn mỏng, thiếu cán bộ lãnh đạo... lại đứng trước tình hình và
nhiệm vụ mới là lãnh đạo kháng chiến.


Những địa chủ, cường hào lợi dụng sơ hở của tổ chức, đã lọt vào cơ quan chính quyền
cấp xã, ấp gây khơng ít khó khăn trong việc giảm tơ, giảm tức theo chủ trương của cách
mạng.


2-Nhân dân Cà Mau thi đua khắc phục khó khăn.



Tháng 10 năm 1945, Tỉnh ủy thống nhất của Đảng bộ Cà Mau được thành lập trên cơ
sở thống nhất trên 3 nhóm cộng sản và một số đảng viên từ Côn Đảo trở về để kịp thời lãnh
đạo quần chúng cách mạng tiếp tục cuộc đấu tranh.


Ủy ban nhân dân tỉnh, cơ quan chính quyền các cấp được củng cố, bọn cường hào lần
lượt bị gạt ra khỏi chính quyền.


Thực hiện chủ trương của Trung ương, Chính quyền cách mạng ở địa phương đã bãi bỏ
thuế thân và các thứ thuế vơ lý trước đây, xố bỏ nợ nần cũ, thực hiện giảm tô 25 % của Bộ
canh nông. Nông dân khắp nơi trong tỉnh rất phấn khởi và hăng hái tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm để nuôi quân đánh giặc và giúp đồng bào ở Miền Bắc chống đói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Hưởng ứng “Tuần lễ vàng” do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đề xướng, các tầng lớp nhân dân
trong tỉnh kẻ ít người nhiều, đóng góp vàng bạc, đá quý, cả tư trang và kỷ vật cho Tổ quốc.
Chỉ trong đợt đầu đã góp gần chục ký vàng vào quỹ để mua vũ khí. Phong trào qun góp tiền
của ủng hộ kháng chiến và trực tiếp tham gia lực lượng vũ trang chuẩn bị kháng chiến rất sôi
nổi, thể hiện tinh thần kiên quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Cà Mau.


Ngày 06/01/1946, nhân dân nô nức đi bỏ phiếu cử đại biểu của mình vào cơ quan quyền
lực cao nhất của Nhà nước độc lập.


Công tác giáo dục, y tế xã hội đã tạo được bộ mặt mới. Trường cũ được sửa sang,
trường mới được dựng nên, nhiều địa phương đã khai giảng năm học ngay sau ngày tổng khởi
nghĩa, số học sinh đến trường ngày mỗi đông hơn. Phong trào chống mù chữ dấy lên sôi nổi ở
cả thành thị và nông thôn trong tỉnh. Bệnh viện, trạm xá, thuốc men tuy còn thiếu nhưng tinh
thần phục vụ của y Bác sĩ đã gây được thiện cảm trong nhân dân. Nhiều lực lượng tham gia
đào tạo y tá để chuẩn bị phục vụ chiến đấu.


Việc vận động xây dựng đời sống văn hố mới, chủ yếu là xây dựng tình đồn kết yêu


thương, giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân, bài trừ các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc... đã
được các đoàn thể đi sâu động viên, giáo dục và đông đảo nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt.


Chỉ sau một thời gian ngắn, bằng nhiệt tình và quyết tâm cách mạng của nhân dân,
những khó khăn cơ bản được đẩy lùi, quân dân Cà Mau sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến
chống Thực dân Pháp.


3-Thực dân Pháp tái chiếm Cà Mau:


Ngày 29/01/1946 quân Pháp chiếm thị xã Sóc Trăng, sau đó tiến theo quốc lộ 4 (nay là
quốc lộ 1A) đánh vào thị xã Bạc Liêu.


Hôm sau ngày 30/01/1946, địch chiếm thị trấn Vĩnh Lợi và Giá Rai, ngày 31/01/1946
chiếm thị trấn Cà Mau và kiểm soát quốc lộ số 4.


Chiếm xong thị xã và các thị trấn, địch mở rộng đánh chiếm các vùng xung quanh.
Hàng ngày, chúng đưa quân đi càn quét, đốt phá làng mạc, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, chúng
kích động người Khmer chống lại người Việt, đạo Cao đài, Hoà hảo chống lại Việt Minh,...
gây nên những vụ xơ xát đẫm máu. Trước tình hình đó một số người hoang mang, dao động,
thậm chí có cán bộ, Đảng viên bỏ cả quần chúng, cơ sở, địa bàn hoạt động trốn đi nơi khác,
gây thêm khó khăn cho cách mạng.


Câu hỏi:


1-Em hãy trình bày những khó khăn sau cách mạng Tháng Tám ở Cà Mau?


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Bài 8


MẶT TRẬN TÂN HƯNG Ở CÀ MAU



1-Đặc điểm tình hình:


Với dã tâm quay trở lại xâm lược nước ta, ngay sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thực
dân Pháp đã âm mưu quay trở lại xâm lược Đông Dương và được sự giúp đỡ của Đế Quốc
Anh dưới danh nghĩa quân đồng minh và giải giáp quân đội Nhật. Thực dân Pháp đã quay trở
lại xâm lược nước ta. Thị trấn Cà Mau là nơi Pháp chiếm sau cùng ở Miền Tây Nam Bộ.


Nhân dân Cà Mau rất đổi sung sướng tự hào được sống trong những ngày cách mạng
Tháng Tám thắng lợi và phấn khởi, được sống trong hồ bình độc lập tự do thật sự do cách
mạng Tháng Tám mang lại, nên rất thiết tha với chế độ mới, hiểu sâu hơn về Đảng và Bác Hồ
nên sẳn sàng nghe theo tiếng gọi của Đảng, của cả Nam Bộ “nóp với giáo mang lên vai” xơng
vào chiến đấu mới, với lòng tin tất thắng.


Chiếm thị trtấn Cà Mau, bước đầu Pháp chỉ lẩn quẩn chung quanh các đường phố vì từ
thị trấn và tuyến lộ Đơng Dương trở vô 4km dân đã triệt để thực hiện chủ trương “Tiêu Thổ
kháng chiến” chỉ cịn vườn khơng nhà trống nên địch coi đây là vùng du kích Việt Minh.


2-Diễn biến sự kiện:


Sau khi rút khỏi thị trấn Cà Mau, các cơ quan chính quyền cách mạng tạm lui vào vùng
nông thôn tiếp tục lãnh đạo kháng chiến. Lực lượng Cộng Hoà vệ binh quận Cà Mau cùng với
du kích xã Tân Hưng (Thạnh Phú) đóng qn theo tuyến lộ Cà Mau – Nàng Âm và sông Rạch
Rập đến Đình Tân Hưng, đào đắp cơng sự, lập chướng ngại vật xây dựng trận địa phòng ngự
chống địch lấn chiếm, bảo vệ vùng căn cứ.


Ngày 18/02/1946, Pháp đưa một đại đội lính Pháp hành quân theo trục lộ Cà Mau –
Năm Căn để thăm dò lực lượng ta. Khi đến cống Nàng Âm, toán đi đầu lọt vào vịng phục
kích của một phân đội cộng hòa vệ binh, chỉ phút đầu nổ súng 2 tên thực dân chết tại chỗ, cả
bọn tháo chạy lôi xác đồng bọn một khoảng rồi ném vô đám sậy dấu thây, rút quân về Cà
Mau. Ngày hôm sau chúng tập trung quân đội đông hơn chia thành hai mũi đánh vào, quyết


đẩy ta ra, nhưng các lực lượng tại đây chia nhiều bộ phận lợi dụng địa hình chặn đánh địch
suốt ngày, diệt và làm bị thương một số tên.


Ngày 01/03/1946, chúng lại tiếp tục đưa quân lấn chiếm, với quyết tâm giữ vững trận
địa, lực lượng ta phục kích theo tuyến kinh Rạch Rập, nổ súng quyết liệt và anh dũng xung
phong, địch hoang mang cuốn chạy bỏ lại trận địa 11 xác chết, ta thu một số lựu đạn và nhiều
đạn dược.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Mặt trận Tân Hưng chính diện từ sơng Ơng Đốc (Voi Vàm) qua Rạch Rập, lộ xe đến
Gành Hào, chiều sâu từ sát thị trấn, với khu vực chính là Đình Tân Hưng, bố trí theo hướng từ
Tân Hưng đến Cái Rắn.


Sau hơn 3 tháng bị Mặt trận Tân Hưng ngăn chặn không phát triển ra được, bọn cầm
đầu cay cú, coi đây là một thách thức lớn của “Việt Minh” đối với quân đội viễn chinh nhà
nghề của Pháp. Ngày 02/05/1946 chúng huy động tồn bộ lực lượng có trong Tỉnh kể cả phi
cơ, tàu chiến để tấn công Mặt trận Tân Hưng.


Xét thấy Mặt trận Tân Hưng đã hoàn thành nhiệm vụ ngăn chặn địch cho phía sau có
thời gian chuẩn bị, mặt khác ta còn phải tiếp tục kháng chiến lâu dài nên Bộ chỉ huy Khu 9
quyết định giải thể Mặt trận Tân Hưng triển khai lực lượng về phía địa phương phát triển
chiến tranh Du Kích.


3-Ý nghĩa lịch sử:


-Mặt trận Tân Hưng đã huy động sức mạnh của quân dân ngăn chặn cuộc tiến công của
quân Pháp xuống phía Nam trong suốt thời gian 3 tháng trời, góp phần ổn định và chuẩn bị
hậu phương kháng chiến.


-Mặt trận Tân Hưng nói lên sức mạnh của toàn dân đánh giặc, bước đầu vận dụng
đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta.



-Mặt trận Tân Hưng là một sự kiện lịch sử nổi bật của chiến tranh giải phóng Cà Mau
trong những ngày đầu kháng chiến.


-Mặt trận Tân Hưng chứng minh sự lãnh đạo kỳ quyết và vận dụng sáng tạo đường lối
chiến tranh nhân dân của Đảng.


-Mặt trận Tân Hưng là một sự kiện lịch sử nổi bật đáng ghi nhớ và niềm tự hào của
Đảng bộ Cà Mau trong những ngày đầu kháng Pháp.


Câu hỏi:


1-Hãy trình bày diễn biến dẫn đến sự hình thành và kết quả của Mặt trận Tân Hưng?
2-Ý nghĩa lịch sử của Mặt trận Tân Hưng?


3-Hãy sưu tầm những sự kiện lịch sử có liên quan đến Mặt trận Tân Hưng ?


Bài 9:


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

1-Nhân dân Cà Mau xây dựng và củng cố hậu phương, phát triển lực lượng kháng
chiến:


Chấp hành chỉ thị của Xứ ủy Nam Bộ, từ tháng 11/1945, nhân dân ở thị xã, thị trấn
cùng lực lượng dân quân du kích hăng hái tham gia cơng tác “Phá hoại” và chuẩn bị “Vườn
không nhà trống”, sơ tán về nơng thơn, chỉ cịn lực lượng vũ trang ở lại chiến đấu.


Sau khi Mặt trận Phước Long bị vỡ, cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu 9 rút về Tân Hưng
Đông (Xứ ủy và Tỉnh ủy đặt cơ quan tại đây). Từ ngày 03/02/1946, quân Pháp ở thị trấn Cà
Mau liên tiếp tấn công vào Mặt trận Tân Hưng.



Sau hơn 3 tháng ngăn chặn địch Mặt trận Tân Hưng rút, quân Pháp nhanh chóng đánh
chiếm rộng ra và xây dựng một hệ thống đồn bót dày theo các tuyến sông rạch, lập lại bộ máy
tề nguỵ cũ để đàn áp khủng bố những người yêu nước hòng lung lạc tinh thần của nhân dân ta
đối với kháng chiến.


Ngày 01/10/1947, được sự hướng dẫn của ủy ban kháng chiến Nam bộ, Ủy ban nhân
dân và Ủy ban kháng chiến tỉnh thống nhất thành Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh để chỉ
đạo hai mặt cơng tác kháng chiến và kiến quốc.


Tháng 9/1949, phần lớn đất đai thuộc tỉnh Cà Mau được chọn làm căn cứ chính của
Nam Bộ. Tháng 10/1949, Xứ ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ chuyển bộ máy và
cơ quan lãnh đạo từ Đồng Tháp Mười về căn cứ U Minh.


Suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, Cà Mau là khu căn cứ cung cấp nguồn sống
cho cả Miền Tây Nam Bộ và liên tiếp giành được nhiều thắng lợi to lớn trên chiến trường.


2-Nhân dân Cà Mau cùng cả nước phát triển chiến tranh toàn dân, toàn diện, đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp:


Đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch, cùng với cả nước, quân dân
Cà Mau đã đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát triển lực lượng chủ lực của Tỉnh, ngồi các
cơng binh xưởng của quân khu ở Cái Tàu, công binh xưởng của tỉnh được tăng cường và mở
rộng.


Ngày 18/5/1947, quân ta đánh chìm tàu “Lơ - Toa - Năng” tại kênh sáng Mương Điều ,
tiêu diệt hơn một đại đội Pháp và 2 tàu khác ở Vàm đình và Ao Kho. Đồng thời dân quân du
kích liên tục bao vây, bức rút hàng loạt đồn bót buộc địch co về thị trấn, thị xã và ven Quốc lộ
4. Vùng giải phóng mở rộng, chiếm đại bộ phận vùng nông thôn trong tỉnh.


Đầu năm 1948, Hội đồng nhân dân ở cả 4 Quận cà Mau, Vĩnh Lợi, Giá Rai, Ngọc Hiển


và 34 xã đã được nhân dân bầu ra. Chính quyền cách mạnh giải quyết ruộng đất cho nhân dân,
thực hiện chính sách giảm tơ, đẩy mạnh sản xuất. Các đoàn thể quần chúng được kiện toàn và
hoạt động sơi nổi, Liên hiệp cơng đồn được tổ chức ở cả vùng giải phóng lẫn thị xã, thị trấn.


Các hoạt động văn hoá xã hội được đẩy mạnh ngồi các trường tiểu học của tỉnh, huyện
cịn có thường thiếu sinh quân của khu 9 và trường Trung học kháng chiến Nam bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Trong những năm 1951 – 1952, lực lượng vũ trang của ta đã thắng trên 40 trận lớn nhỏ,
diệt hàng ngàn tên địch, thu nhiều vũ khí.


Phong trào đấu tranh chính trị diễn ra sôi nổi nhất là trong thanh niên, học sinh. Cơng
tác binh vận có kết quả, lơi kéo được hàng trăm binh lính trong quân đội Pháp đào ngũ hoặc
làm nội ứng trong việc đánh đồn bót.


Đầu năm 1953, địch tăng cường lực lượng, mở hàng trăm cuộc cán quét đánh phá vào
vùng căn cứ của ta, đồng thời xây dựng Cà Mau thành khu quân sự lớn, làm bàn đạp đánh vào
căn cú U Minh và Ngọc Hiển. Địch tăng cường hoạt động gián điệp, tiến hành chiến tranh tâm
lý hịng lung lạc ý chí kháng chiến của nhân dân ta.


Hưởng ứng chiến cuộc Đông Xuân và chiến địch Điện Biên Phủ, từ cuối 1953 đến giữa
1954, tỉnh cà Mau đã liên tiếp tấn công địch từ mọi phía, trên mọi lĩnh vực, tiêu diệt một lực
lớn của địch, bức rút, bức hàng nhiều đồn bót và tháp canh, vùng giải phóng khơng ngừng
được mở rộng, nhân dân được sống tự do.


3-Một số đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Cà mau.


Cà Mau có địa hình phức tạp, nguồn nhân lực, vật lực dồi dào tạo nên vị trí chiến lược
quan trọng trên chiến trường Nam Bộ. Pháp luôn ở trong tình trạng thiếu quân, căng kéo lực
lượng và rơi vào thế bị động, lúng túng đến thất bại.



Cuộc kháng chiến ở Cà mau kéo dài suốt 9 năm kể từ năm 1946 đến ngày 20/ 7/ 1954.
Nhưng đến đầu 1948 vùng giải phóng đã chiếm gần hết toàn bộ đất đai của tỉnh và trở thành
căn cứ địa vững chắc của chiến trường Nam Bộ. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vùng giải
phóng trở thành trung tâm và thường xuyên cho đến ngày thắng lợi.


Xuất phát từ tình hình trên nên việc quán triệt đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ và
đường lối kháng chiến của Đảng, lấy công tác động viên, giáo dục , tổ chức quần chúng là
công tác cơ bản nhất, xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu của tồn dân trên nền tảng cơng
– nơng liên minh vững chắc để kháng chiến lâu dài đến thắng lợi.


Thực hiện phương châm kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh
sinh”, dân quân Cà Mau vừa chiến đấu, vừa tích cực củng cố hậu phương, xây dựng và phát
triển lực lượng về mọi mặt để kháng chiến lâu dài, càng đánh càng mạnh.


Vừa tích cực củng cố, bảo vệ vùng giải phóng, vừa xây dựng ở vùng tạm chiếm, tích
cực đánh địch trong thị trấn, thị xã, vừa phát triển lực lượng vũ trang chiến đấu, vừa phát triển
lực lượng cách mạng quần chúng để kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị, thành thị với
nơng thơn.


Một mặt vừa ra sức củng cố và phát triển cơ sở Đảng, mặt khác ra sức xây dựng và
củng cố chính quyền các cấp, các đồn thể trong Mặt trận, để khơng ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo chiến tranh, lãnh đạo cơng cuộc xây dựng vùng giải phóng phát triển về mọi mặt.


Lực lượng kháng chiến là tồn dân khơng phân biệt dân tộc, tôn giáo, tuổi tác, thành
phần xã hội, đều góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Câu hỏi:


1-Nêu một số thắng lợi tiêu biểu về mặt trận quân sự của nhân dân Cà Mau trong kháng
chiến chống Pháp. Hãy kể một trận đánh hay một sự kiện gì đó diễn ra tại quê em trong 9 năm


kháng chiến chống Pháp mà em biết.


2-Nêu đặc điểm nổi bật trong cuộc kháng chiến chống Pháp của quân dân Cà Mau và
nói rõ đặc điểm đó có vai trị như thế nào đối với sự thắng lợi của cuộc kháng chiến.


Bài 10


CÀ MAU – KHU TẬP KẾT 200 NGÀY ĐÊM
(28 /8 /1954 – 13 /3 /1955)


1-Đặc điểm tình hình.


Kháng chiến chống Thực dận Pháp kết thúc thắng lợi, nhưng theo tinh thần Hiệp định
Giơ - ne- vơ, Miền Bắc hồn tồn giải phóng, Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào tạm thời do
quân đội Pháp và ngụy quyền quản lý để tiến tới 2 năm sau tổng tuyển cử thống nhất đất
nước. Do đó, lực lương kháng chiến của ta ở Miền Nam phải tập kết ra Bắc.


Lệnh ngừng bắn đối với Nam Bộ bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày 11/ 8/ 1954 Cà Mau được
chọn làm khu vực tập kết tạm thời 200 ngày.


Ngày 27/ 7/ 1954, quân đội Liên Hiệp Pháp cùng các cơ quan hành chính, cai trị rút
khỏi Thị trấn Cà Mau, tắc Vân để ta tiếp quản.


Quân đội, chính quyền ta ở Miền Tây và một phần của Nam Bộ tập kết về đây để
chuyển quân ra Bắc. Gia đình bộ đội và cán bộ, đồng bào yêu nước và hâm mộ kháng chiến ở
các vùng bị tạm chiếm, ở các thành phố, thị xã cũng kéo về đây đông đảo, gặp gỡ chia tay với
các chiến sĩ trước khi lên đường ra Bắc, vui như ngày hội.


Cửa sông Ông Đốc là một trong những bến tập kết lớn đưa các cán bộ, chiến sĩ và con
em Cà Mau cũng như Nam Bộ xuống tàu tập kết ra Bắc. Có thể nói, từ cuối 1954 đến 1955,


cửa sơng Ơng Đốc là điểm nối giữa Cà Mau với Miền Bắc, với Bác Hồ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

quanh Cà Mau trương băng, cờ, đội ngũ chỉnh tề tuần hành tràn ngập các đường phố tiến về
sân vận động dự mít tinh. Lá đại kỳ nền đỏ sao vàng năm cách tung bay kiêu hãnh trong nắng
sớm mùa thu và những tấm băng lớn mang dòng chữ đỏ thắm:


“Hoan hơ hồ bình lập lại ở Đơng Dương.
Đảng lao động Việt Nam muôn năm !
Hồ Chủ Tịch muôn năm !


Nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ hồ bình mn năm !”


Tình hình mới tuy có những thuận lợi cơ bản, khí thế phong trào cách mạng dâng lên
mạnh mẽ khắp nông thôn, đô thị, niềm phấn khởi, tự hào tràn ngập trong cán bộ, đảng viên,
lực lượng vũ trang, đến từng người dân yêu nước. Nhưng bước đầu cũng nảy sinh những khó
khăn, phức tạp do địch âm mưu phá hoại Hiệp định... Vì vậy Đảng bộ đã phát động sâu rộng
trong nội bộ đến quần chúng nhận thức tinh thần, nội dung các điều khoản của Hiệp định,
nhiệm vụ, phương châm, sách lược mới của Đảng. Tiếp tục củng cố vững chắc vùng giải
phóng về mọi mặt, xây dựng căn cứ làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh sắp tới. Đồng thời khẩn
trương xây dựng chế độ mới của ta ở những nơi vừa tiếp quản để củng cố lòng tin, làm cơ sở
chính trị, tư tưởng sau này. Sắp xếp tổ chức, chuyển hướng chiến lược hoạt động cho phù hợp
tình hình, điều kiện, khả năng của cách mạng trong giai đoạn mới.


Chính quyền ta tổ chức tiếp tục tạm cấp, tạm giao 12.000 ha ruộng đất cho 3.600 hộ
nông dân và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho từng gia đình để làm cơ sở pháp lý đấu
tranh với địch. Đặc biệt chính quyền còn dành ra hàng ngàn hecta đất cấp cho nhân dân lao
động ở thị trấn Cà Mau, Tắc Vân và ra lệnh xuất trên 10.000 tấn gạo, lúa trong kho, hàng vạn
đồng bạc Đông Dương để cứu trợ gia đình nhân dân lao động nghèo đói. Rất nhiều nhà cửa
của nhân dân ở nông thôn bị chiến tranh tàn phá và xóm lao động đơ thị đổ nát do chính sách
bần cùng hóa của địch đã được chính quyền, đồn thể và bộ đội vận động đóng góp cây lá tu


sửa, cất lại mới cho nhân dân, đã giải quyết cho hàng trăm người lao động sống ở vĩa hè, gầm
cầu có nơi nương tựa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

hậu thân nhân của cán bộ, bộ đội đang có mặt trong các khu vực tập kết như đón người thân
của mình. Hàng ngàn người mặc dù đang sống trong lịng địch kiểm sốt ở các thành phố, thị
xã cũng đến đưa tiễn người đi tập kết. Có những người đứng đầu các Đảng phái, Tơn giáo, trí
thức, tư sản cũng đến nhìn tận mắt chế độ ưu việt của cách mạng, khi đến họ rất thiết tha với
cuộc sống và khi về họ mang theo sự luyến tiếc. Các bến xe, bến tàu ở Cà Mau tấp nập hành
khách đi lại, Cà Mau lúc nào cũng như ngày hội và trật tự an tồn khơng cần phải giới
nghiêm. Cuộc sống của Cà mau thật tự do, việc giao lưu hàng hóa ở nơng thơn, thành thị dể
dàng thu hút người từ nơi khác đến lập nghiệp, nền thương mại cần phát triển, tiểu thủ công
nghiệp vươn lên, dân số thị trấn Cà Mau tăng lên rất nhanh. Thương nhân các tỉnh thành về
đây mua bán, do đó Cà Mau trở thành trung tâm chính trị, kinh tế của tỉnh lúc bấy giờ.


Các chuyến tàu chuyển quân tập kết ra Miền Bắc nhổ neo rời bến, hàng ngàn cánh tay
vẫy chào tạm biệt đầy lưu luyến, kẻ ở người đi mang theo trong lịng ý trí quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ vinh quang và tràn đầy hứa hẹn: Ngày mai Nam – Bắc sum họp. Ngay sau đó
nhân dân Cà Mau lại bước đầu cuộc chiến đấu mới, với niềm tin tưởng sắt đá vào thắng lợi
cuối cùng.


3-Ý nghĩa thắng lợi:


-Chính quyền cách mạng ra sức thực hiện hoàn thiện các chủ trương chính sách của
Đảng, nhân dân Cà Mau sống những ngày hịa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Thành tựu xây
dựng cuộc sống mới chưa nhiều nhưng ý nghĩa chính trị, của bức tranh hiện thực Cà Mau rất
lớn. Nhân dân trong tỉnh và nhân dân các nơi về đây khẳng định con đường ấm no và hạnh
phúc mà Đảng hướng dẫn cho mình đi tới là đúng.


-Thật kỳ diệu biết bao, từ một thị trấn đầy rẫy công sự, kho tàng, căn cứ quân sự, trống
rỗng về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, bại hoại về xã hội do thực dân để lại, sau 200 ngày với


thời gian thật là ngắn ngủi do chính quyền cách mạng quản lý, bộ mặt thị trấn Cà Mau hoàn
toàn thay đổi, tạo ra một bức tranh toàn cảnh sinh động tiêu biểu cho chế độ mới do Đảng ta
mang lại.


-Uy tín và ảnh hưởng của cách mạng ngày càng sâu rộng, tạo ra ý nghĩa chính trị vơ
cùng to lớn, vừa có tác dụng củng cố niềm tin vào sự nghiệp vẽ vang trong cuộc đấu tranh
mới, vừa làm cơ sở hiện thực phong phú để đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc bỉ
ổi sau này của Mỹ Nguỵ.


-Trong những năm 1930, Cà Mau là một trong những cái nôi của cách mạng, trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Cà Mau là vùng căn cứ địa Nam Bộ, khi hịa bình lập lại,
Cà Mau là địa điểm tập kết của lực lượng kháng chiến Nam Bộ được Đảng và Chính phủ
chăm lo mọi mặt, đó là niềm vinh dự tự hào vô cùng to lớn của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau.


Câu hỏi:


1-Vì sau có sự kiện khu tập kết 200 ngày đêm ở Cà Mau?


2-Hãy nêu một số hoạt động của chính quyền cách mạng trong 200 ngày đêm tập kết ở
Cà Mau?


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Bài đọc thêm:


ÔNG BA DUẨN “ĐI TẬP KẾT”


Báo Nhân dân, số ra ngày 07/04/1982, kể lại câu chuyện cảm động như sau:


Vào một ngày nắng chang chang cuối một mùa khơ, miệt sơng Ơng Đốc, nườm nượp
hàng vạn đồng bào khắp cả một vùng căn cứ, không ít người từ lục tỉnh nữa đổ về, đứng chật
đơi bờ dịng sơng tiển đưa chuyến tàu chót tập kết ra Bắc. Trên boong con tàu KilixKi trắng


xóa, người ta trơng thấy đồng chí Lê Duẩn đi cùng với đồng chí Lê Đức Thọ. Dư luận bàn
tán: Ông Ba Duẩn với Ông Sáu Thọ đến chuyến chót này mới đi sao?


Điều khơng ai có thể ngờ tới được là đồng chí Lê Duẩn bước chân lên tàu KilixKi chỉ
để đánh lạc hướng quân thù. Một trong những người trực tiếp tổ chức cho đồng chí Lê Duẩn ở
lại là đồng chí Võ Văn Kiệt. Đồng thời đồng chí Võ Văn Kiệt kể lại rằng: Tơi là Bí thư Tỉnh
ủy Bạc Liêu, lúc bấy giờ được trao nhiệm vụ bí mật đưa anh Ba (Tên gọi thân mật của đồng
chí Lê Duẩn) trở về địa phương. Ngay đêm đó, tơi mời anh về nghỉ ở nhà một bà con tin cẩn.
Sáng ra, tôi thấy cả nhà có vẻ càng xúc động mừng rỡ khác thường, tôi chưa hiểu ra thế nào,
sà xuống ngồi nhổ lơng vịt với thím chủ nhà, nghe ngóng.


-Ơng Duẩn ở lại đây hở cậu ? – Thím chủ nhà khơng nén được phấn chấn giọng thầm
thì, hỏi thẳng tơi.


-Ơng Duẩn nào ? – Tơi tảng lờ khơng biết coi như chuyện tầm phào.
-Ơng Ba Duẩn chớ ơng nào ? – Tôi chông rõ ràng mà.


-Tầm bậy ! Thím nói tầm bậy !...


-Cậu nói tơi tầm bậy, tơi lấy hình ra cho coi ngay.
-Làm sao mà thím lại có hình ?


-Hình Báo mình đăng hồi nọ, tơi cất trên trang thờ Bà.
Tơi chỉ cần biết dặn gia đình hết sức giữ bí mật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Sau ngày Miền Nam hồn tồn giải phóng khơng bao lâu, đồng chí Lê Duẩn trở lại
thăm vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Một vùng đất như đồng chí đã nói “Tơi có cái may đã
hoạt động ở Minh Hải trong thời kỳ chống Pháp và những năm đầu đấu tranh chống Mỹ và
tay sai. Tôi đã sống nhiều nơi trong vùng U Minh, Thới Bình, Năm Căn và ở đâu cũng được
đồng bào tận tình che chở, giúp đỡ. Những năm tháng ấy đã để lại cho tơi nhiều kỷ niệm sâu


sắc”.


(Theo Minh Hải địa chí).


CHƯƠNG IV


NHÂN DÂN CÀ MAU TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ


Bài 11:


PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN CÀ MAU SAU HIỆP
ĐỊNH GIƠNEVƠ 1954


1-Mỹ – Diệm âm mưu phá hoại hiệp định Giơnevơ:


Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ nhảy vào Miền Nam phá hoại hiệp
định âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. ở Miền Nam chúng dựng lên chính quyền tay sai
Ngơ Đình Diệm, nhằm biến Miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Từ năm 1957 đến 1959, địch tăng cường lực lượng chủ lực, lực lượng bảo an, mật vụ,
công an, mở nhiều cuộc càn quét, bắn phá vào căn cứ cách mạng, thành lập “Khu trù mật”,
“Khu dinh điền” để gom dân nhằm thực hiện âm mưu “Tát nước bắt cá”, tách cán bộ khỏi dân
để tiêu diệt. Đặc biệt, chúng cho xây dựng đặc khu Bình Hưng, sử dụng đám tàn quân Tưởng
do Nguyễn Lạc Hóa cầm đầu, biến vùng đất này thành “Địa ngục trần gian”.


Ngày 06/05/1959, Ngơ Đình Diệm ban hành “Luật 10/59” làm quốc sách chống cộng,
với phương châm “Thà giết oan hơn thả lầm”, chúng lê máy chém khắp nơi và dưới hình thức
tế cờ, một hình thức hành quyết dã man những cán bộ kháng chiến và những ai chúng tình
nghi có quan hệ với cách mạng để uy hiếp tinh thấn của nhân dân ta trong tỉnh. Khơng khí


khủng bố, giết chóc bao trùm lên khắp xóm làng.


2-Phong trào đấu tranh của nhân dân Cà Mau dòi Mỹ – Diệm thi hành hiệp định
Giơnevơ, đập tan âm mưu bình định Miền Nam (1954 – 1959):


Từ năm 1955 đến 1957, phương hướng đấu tranh của nhân dân Cà Mau là chống âm
mưu, thủ đọan lừa mị, mua chuộc, khủng bố của địch, giữ vững thành quả cách mạng, giữ gìn
lực lượng cách mạng.


Nhiều cuộc đấu tranh diễn ra ở thành thị và chung quanh đồn bót địch. Chị em tiểu
thương chống đuổi chợ, đòi giảm thuế; học sinh và giáo chức vạch mặt bọn mật vụ đội lốt
giáo viên, loại chúng ra khỏi trường; Cơng nhân ở các nhà máy địi tăng lương cải thiện đời
sống, trước hết là cải thiện bữa ăn.


Ở nơng thơn, bà con phát triển hình thức “Dân canh chống cướp”, một cuộc đấu tranh
mang tính sáng tạo độc đáo, có tác dụng giải thốt cho cán bộ bị địch vây hoặc cứu thóat cho
thanh niên bị địch bắt, làm cho địch hoảng sợ. Đây thực sự là cuộc tập dượt của quần chúng,
đặt nền móng cho khởi nghĩa đồng loạt sau này.


Từ nội dung đòi dân sinh, dân chủ, cuộc đấu tranh đã được nâng lên “Đòi Nguỵ quyền
phải thực hiện hiệp định đình chiến, tổng tuyển cử thống nhất nước nhà; “Chống bầu cử Quốc
hội giả hiệu” của Mỹ – Diệm.


Đầu năm 1957, Diệm ra chỉ dụ về cải cách điền địa nhằm khôi phục giai cấp địa chủ
làm chỗ dựa cho Nguỵ quyền. Thế lực của địa chủ vừa mới được khôi phục đã bị nông dân
đánh sụp ở nhiều nơi.


Để hỗ trợ và kết hợp với đấu tranh chính trị cũng như tích cực chuẩn bị cho việc giành
chính quyền về tay nhân dân, lực lượng vũ trang của các huyện được thành lập và trang bị vũ
khí khá tốt. Căn cứ địa cách mạng được củng cố và phát triền vững chắc, hình thành nên một


thế trận độc đáo: “Làng rừng” là nơi xuất phát của bộ đội và cán bộ ta đi hoạt động, đồng thời
là nơi xây dựng lực lượng của Bạc Liêu – Cà Mau, nó tồn tại cho đến ngày nổ ra “Đồng khởi”
ở Miền Nam.


Câu hỏi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

3-Hãy sưu tầm những mẫu chuyện, những tư liệu lịch sử về tội ác của Mỹ – Nguỵ trong
những năm 1955 – 1960 ở Cà Mau.


Bài 12:


PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI Ở CÀ MAU VỚI SỰ KIỆN LÀNG RỪNG


I- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.
1-Âm mưu thủ đoạn của địch:


Sau khi ta tuyển quân tập kết ra Bắc, địch bắt đầu đưa quân trở lại thành lập bộ máy cai
trị của chúng từ tỉnh đến cơ sở. Đặc biệt là tiến hành lập hệ thống quân sự, đóng các đồn bót
và chi khu để ngăn chặn phong trào cách mạng trong tỉnh và tiến hành lập bộ máy hành chính
từ tỉnh đến xã, ấp để cai trị; đồng thời lập các tổ chức phản động chống lại cách mạng như
“Thanh niên cộng hoà”, “Thanh niên bảo vệ hương thôn”... Và lập các khu “Trù mật” để gom
những gia đình có liên quan đến cách mạng vào khu tập trung để chúng dễ bề quản lý và đàn
áp. Đặc biệt chúng thực hiện Luật 10/59 đưa cộng sản ra ngồi vịng pháp luật, có nghĩa là tự
do bắn giết những người mà chúng cho là có quan hệ với cộng sản và cịn tiến hành đi lùng
sục tìm bắt những gia đình kháng chiến cũ.


2-Đối với ta:


Để chống lại âm mưu thủ đoạn của địch, ta chủ trương phân tán và tinh gọn lực lượng
để tránh sự tổn thất. Vì thế các tổ chức đoàn thể của cách mạng được thay đổi “biến tướng”


thành các tổ chức dưới dạng hợp pháp như Hội phụ nữ thành Hội nữ công, Hội nông dân
thành tổ chức vạn vần đổi công hoặc Hội phụ huynh học sinh... Đồng thời còn chọn một số
đảng viên nịng cốt, có tư tưởng vững vàng mà chúng không thể biết để đưa vào bộ máy của
địch hoạt động nhằm từng bước xây dựng cơ sở của ta để chờ thời cơ nổi dậy. Đặc biệt là tổ
chức xây dựng hàng chục làng rừng trong tỉnh để tạo thế và lực mới cho đồng khởi.


II- DIỄN BIẾN SỰ KIỆN LÀNG RỪNG VÀ DẪN ĐẾN ĐỒNG KHỞI.
1- Sự kiện làng rừng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Làng rừng, ban đầu bà con vào từng tốp và lẻ tẻ dần dần số lượng người trong rừng
ngày càng đông theo tuyến của các xã ven rừng (tràm, đước, rừng chồi...).


Cuối năm 1958 các làng rừng ở xã Khánh An và Khánh Bình Đơng, Khánh Bình Tây
được hình thành. Và sau đó các “Làng rừng” ở Tân Tiến, Tân Thuận, Cái Cám, Sào Lưới, Tân
Hưng Tây, Phú Mỹ, Mũi Ông Lục, Biển Bạch, Trí Phải... đã đưa số làng rừng trong tỉnh lên
đến 12 “Làng rừng”.


Làng rừng được tổ chức rất chặt chẽ, có lực lượng canh gác nhiều chặng để kiểm soát
những người lạ mặt vào. Đồng thời cịn tổ chức các đồn thể (Thanh niên, Phụ nữ, nơng hội);
có chi bộ Đảng để lãnh đạo các hoạt động quần chúng trong “Làng rừng". Có những “Làng
rừng” bà con cất trường học, trạm y tế; sinh hoạt lao động theo tổ chức của đoàn thể quản lý
nhằm đảm bảo lao động sản xuất phục vụ đời sống của “Làng rừng”.


Tổ chức trong “Làng rừng” hoạt động từ thấp đến cao. Vừa hoạt động trong “Làng
rừng” vừa tổ chức quan hệ với bên ngồi để nắm tin tức và móc nối những cơ sở của ta. Cho
nên “Làng rừng” nào đều cũng có mối quan hệ mật thiết bên ngồi (theo đường dây cốt cán),
từ đó xây dựng dần lực lượng cách mạng tại chỗ. Như “Làng rừng” ở Khánh Bình Đơng,
Khánh Bình Tây đã thành lập đội võ trang tuyên truyền ra hoạt động bên ngoài. Nhiều “Làng
rừng” khác trong tỉnh vào giữa năm 1959 đều bung ra hoạt động móc nối lại cơ sở đi vận
động tuyên truyền, tìm diệt những tên gây tội ác để tạo sự nổi dậy của quần chúng, tiến lên


Đồng khởi trong tỉnh. Thực hiện tinh thần Nghị quyết 15 của ban chấp hành Trung ương
Đảng, Tỉnh ủy đã ra lời kêu gọi nhân dân trong tỉnh đứng lên. Lời kêu gọi có đoạn ghi: “...
Hỡi đồng bào, bấy lâu nay ngậm đắng nuốt hờn, đã đến lúc chúng ta phải vùng dậy. Chúng ta
không thể sống dưới cảnh khủng bố, đàn áp, bị bắt, bị giết lúc nào không hay, sống nay chết
mai...: Lời kêu gọi còn nhấn mạnh: “tất cả hãy đứng lên, sắm sửa vũ khí đứng lên và lấy vũ
khí địch mà đánh lại địch; Hãy trừ khử bọn ác ôn giành lại xóm làng”. Qua lời hiệu triệu của
Tỉnh ủy đã tạo thành ngọn cờ phát động quần chúng trong tỉnh. Vì thế sự nổi dậy đồng khởi
của nhân dân Cà Mau nổ ra dần từ giữa năm 1959 đến đầu năm 1960, đã phá vỡ hầu hết bộ
máy chính quyền của Nguỵ ở nơng thơn. Các xã, ấp trong tỉnh được giải phóng cơ bản, khí
thế cách mạng của quần chúng nổi dậy mạnh mẽ, nhiều nơi tổ chức mít tinh, biểu tình để biểu
dương lực lượng rầm rộ khắp nông thôn. Bọn tề bỏ chạy ra các đồn bót và chi khu theo tuyến
giao thơng chính của chúng, vùng nơng thơn được giải phóng.


III-Ý NGHĨA.


-Các “Làng rừng” được xây dựng và phát triển đã tạo cho hậu cứ của ta ngày được
vững chắc, đã mở ra được thế và lực mới, có ý nghĩa cho phong trào đồng khởi của tỉnh nhà.


-Thắng lợi Đồng khởi của tỉnh (1959- 1960) đã đánh dấu sự vận dụng linh hoạt đường
lối chủ trương của Đảng vào tình hình cụ thể của địa phương, tạo ra bước nhảy vọt của phong
trào cách mạng quần chúng ở nông thôn.


-Thắng lợi Đồng khởi cịn có ý nghĩa sâu sắc về sức mạnh nổi dậy của quần chúng dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh võ trang
và từng bước phá vỡ bộ máy chính quyền cơ sở của địch ở trong tỉnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Câu hỏi.


1-Nêu vài ý tình hình trước Đồng khởi của tỉnh Cà mau ?
2-Trình bày những nét chính về “Làng rừng” trong tỉnh ?


3-Nêu ý nghĩa Đồng khởi của tỉnh Cà Mau ?


Bài đọc thêm:


LÀNG RỪNG CÀ MAU


“Làng rừng Cà Mau là một nét đặc trưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân vùng Đất Mũi - điểm tận cùng Tổ quốc. Đúng như lời đồng chí Lê Duẩn đã nói:
“Khi địch lê máy chém khắp Miền Nam đưa sự tàn bạo Phát xít đến cùng cực, ở Minh Hải có
hàng vạn Thanh niên vào rừng U Minh. Một khơng khí cách mạng bùng lên. Chính từ thực tế
đó, Minh Hải giúp cho Trung ương thấy cần phải và có thể phát động quần chúng nổi dậy và
đấu tranh”.


Ý nghĩa thực tiễn và giá trị lịch sử của “Làng rừng” rất to lớn. Vì vậy, ngày 08/01/1993,
một cuộc hội thảo khoa học về “Làng rừng Cà Mau” đã được Tỉnh ủy Minh Hải tổ chức.
Nhiều vấn đề được đặt ra, thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Góp phần vào việc nghiên
cứu sự kiện này, chúng tơi trình bày một vài ý kiến nhỏ.


Trước hết, cần đặt các vấn đề tìm hiểu “Vì sao “Làng rừng” lại ra đời ở tỉnh Cà Mau
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ?”, “Nội dung Làng rừng là gì ?”, “Tác dụng
và ý nghĩa của nó ra sao ?”...


Ở Miền Nam, sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ta chuyển quân tập kết ra Bắc, đồng
thời tích cực chuẩn bị lực lượng lại tiếp tục đấu tranh buộc địch phải thi hành đúng Hiệp định
đã ký, bảo vệ thành quả cách mạng. Trong khi đó, Ngơ Đình Diệm theo lệnh Đế quốc Mỹ, ra
sức xây dựng hệ thống chính quyền phản động từ Trung ương đến cơ sở. Chúng tiến hành
phân chia nhân dân thành các loại “Gia đình Cộng sản, thân cộng, có cảm tình với Cộng sản”,
“gia đình quốc gia, thân quốc gia”, để từ đó có đối sách riêng biệt. Chúng tập trung bình định,
đánh phá cách mạng ở mức cao, ngày càng thể hiện rõ dã tâm tàn bạo, phát xít đến cùng. Với
“Luật 10/59”, chúng lê máy chém khắp Miền Nam; đi đến đâu chúng cũng gây nên cảnh máu


đổ đầu rơi đến đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

lùng, khủng bố, ẩn tránh”. Chủ trương mới của Tỉnh ủy như một luồng gió mới thổi vào tinh
thần sôi sục cách mạng của nhân dân bị địch bức ép, kềm kẹp.


Vào đầu năm 1958, đông đảo quần chúng đã quyết định bỏ làng quê cũ vào rừng lập
làng mới để đi theo Đảng làm cách mạng đến cùng. “ Làng rừng” được hình thành từ đó. Tên
“ Làng rừng” do nhân dân tự đặt hàm chỉ những cụm dân cư có cùng ý chí chống giặc Mỹ
xâm lược và tay sai, được xây dựng trong rừng căn cứ. Nhân dân quy tựu thành làng xóm ở
nhiều nơi thuộc rừng U Minh, rừng đước và rừng chồi . Số “Làng rừng” ngày một đông, tiêu
biểu là các làng Nguyễn Phích, Khánh Lâm, Khánh An, Khánh Bình Tây, Phú Mỹ, Năm Căn,
Viên An, Vồ Dơi...


“Làng rừng” mang đầy đủ những yếu tố, thể hiện tính nhân sinh, văn hóa, xã hội, giao
lưu, cuộc sống và cách sinh hoạt của cộng đồng người có tổ chức. “ Làng rừng” ngày càng
phát triển phong phú, đa dạng thì tinh thần đồn kết đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau của quần
chúng nhân dân ngày càng nổi rõ hơn bao giờ hết.


Trong “Làng rừng”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ban quản lý, ban quản trị làng được
thành lập, đảm nhận chức năng của chính quyền cơ sở. Các tổ chức toàn thể quần chúng, như
thanh niên, phụ nữ, nông dân.., cũng tham gia điều hành mọi hoạt động của “Làng rừng”.
Những sản phẩm do lao động của nhân dân tự làm ra, hoặc có được từ mọi nguồn thu nhập
đều được ban quản lý “Làng rừng” phân phối một cách công bằng, hợp lý khơng để ai phải
chịu nghèo đói. Mặc dù cán bộ , Đảng viên và nhân dân ta lúc bấy giờ chưa hiểu đầy đủ việc
xây dựng chủ nghiã xã hội ở Miền Bắc, song với lòng tin tưởng và ước vọng đều gọi “Làng
rừng” là “ Làng xã hội chủ nghiã”. Điều này cũng thể hiện nhận thức về việc gắn độc lập dân
tộc với chủ nghiã xã hội.


Đến cuối 1959, lực lượng cách mạng phát triển mạnh mẽ, các cuộc đấu tranh của quần
chúng nhân dân nổi lên rầm rộ nhiều nơi trong tỉnh, bọn ác ôn tề ngụy bị trừng trị, chính


quyền địch tan rã từng mảng, vùng tự do ngày càng được mở rộng. Vùng nào được giải phóng
thì nhân dân các “Làng rừng” lại lần lượt trở về với ruộng vườn của mình, tiếp tục bám đất
giữ làng, tăng gia sản xuất, chuẩn bị kháng chiến. Vì vậy, Nghị quyết 15 của Trung ương
Đảng thì “Làng rừng” khơng cịn tồn tại như trước đó, chỉ cịn lại các cơng binh xưởng, cơ sở
qn y, dân y... được duy trì ở vùng căn cứ vững chắc trong rừng. Tuy nhiên, tinh thần, tổ
chức thời chiến của “Làng Rừng” vẫn được thể hiện trong cuộc sống của nhân dân giải phóng
ở vùng Cà Mau.


...Từ thực tiễn “Làng Rừng Cà Mau” những năm 1958- 1960, Tỉnh uỷ, các nhà nghiên
cứu đã rút ra mấy vấn đề chủ yếu sau đây:


-“Làng rừng” là biểu tượng tinh thần bất khuất của nhân dân Cà Mau trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thể hiện truyền thống chung của dân tộc.


-“Làng rừng” phù hợp với bối cảnh và điều kiện của tỉnh Cà Mau lúc bấy giờ. Trước
hết, nó làm ổn định tinh thần, tư tưởng của lực lượng đấu tranh bất hợp pháp lúc bấy giờ, tiếp
tục đưa phong trào cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng, bảo vệ cơ sở cách mạng sang thế tấn
cơng.


-“Làng rừng” đã giử gìn, bảo vệ, xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến, như
các công binh xưởng ngày càng phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Sinh sống ở “Làng rừng” mọi người đều nghĩ đến cái chung, đều quan tâm cho lợi ích tập thể
hơn là chỉ cho bản thân mình.


-“Làng rừng” là hình thái tiến cơng phù hợp với điều kiện đấu tranh của quân và dân
tỉnh Cà Mau. Nhìn bề ngồi, “Làng rừng”tưởng chừng như là một hình thức tổ chức để đánh
địch, bảo vệ lực lượng phịng ngự, nhưng thực chất nó thể hiện tư tưởng tiến cơng. Bởi vì,
“Làng rừng” là căn cứ, là điểm tựa và là bàn đạp cho lực lượng ta tỏa ra hoạt động vũ trang
tuyên truyền đánh địch.



-“Làng rừng” là biểu tượng cho sự nhạy cảm về chính trị, sự thông tin về nghệ thuật
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Cà Mau. Trước những khó khăn tưởng chừng như không vượt
qua, Đảng bộ sáng suốt lợi dụng thế của rừng để xây dựng căn cứ, tập hợp lực lượng, chấn
chỉnh đội ngũ, từng bước tiến cơng địch giành thế chủ động về ta.


Việc hình thành “Làng rừng” có 3 yếu tố: yếu tố thứ nhất là Cà Mau được thiên nhiên
ưu đãi có rừng U Minh, có rừng thì mới có “Làng rừng”. Yếu tố thứ hai là do địch khủng bố
hết sức dã man, dân không thể sống được nên dân tìm đến Đảng, đi theo Đảng. Yếu tố thứ ba
là sự lãnh đạo của Đảng kịp thời mở cửa đón rước những nạn nhân của chế độ Mỹ – Diệm
đưa họ vào rừng để cứu sống họ và tổ chức họ chiến đấu.


Như vậy, việc nhân dân tạm rời làng cũ, vào rừng xây dựng làng mới, thoát khỏi bộ
máy chính quyền phát-xít Mỹ-Ngụy khơng phải là việc “chạy trốn giặc”mà là tiếp tục cuộc
đấu tranh mạnh mẽ chống bọn xâm lược và tay sai phù hợp tình hình khó khăn lúc bấy giờ.
Vì vậy, nhân dân “Làng rừng” không mất mối liên hệ với đồng bào đang đấu tranh trong lòng
địch. “Làng rừng” không phải là một “ốc đảo” kiểu Lương Sơn Bạc trong Thủy Hử, mà giữ
vững và phát triển mối liên hệ với các cuộc đấu tranh của những người còn sống hợp pháp ở
vùng địch, vùng tranh chấp và tạm chiếm; là bức trường thành bảo vệ “Làng rừng” nhân dân
vùng địch tạm chiếm luôn hướng về “ Làng rừng” với niềm tin tưởng mãnh liệt. Nhiều người
tuy chưa có điều kiện vào “Làng rừng”, nhưng tìm cách gởi chồng con mình vào “Làng rừng”
tham gia hoạt động cách mạng và không cộng tác với kẻ thù. “Làng rừng” lại là căn cứ hoạt
động cách mạng trong vùng. Mối quan hệ này là đảm bảo cho cách mạng Cà Mau được giữ
vững và phát triển cùng với cách mạng Miền Nam và cả nước. Tuy có nhiều khó khăn về vận
chuyển vũ khí, chi viện sức người, sức của, song lực lượng cách mạng Cà Mau đã trưởng
thành nhanh chóng, tạo nên những thắng lợi vẻ vang, như chiến thắng Đầm Dơi – Cái Nước –
Chà Là; cuộc tấn công nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 tại thị xã Cà Mau và cuộc tổng tấn công
và nổi dậy mùa xuân 1975 để giải phóng quê hương, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.



Sự kiện “Làng rừng Cà Mau” cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, để hiểu rõ một hình
thức tổ chức căn cứ địa, thể hiện tính chất một cộng đồng truyền thống làng xã đặc thù địa
phương vào thời chiến. “Làng rừng Cà Mau” làm phong phú truyền thống, nghệ thuật đánh
giặc giữ nước, giữ làng, giữ nhà của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Cà Mau nói
riêng. Việc nghiên cứu “Làng rừng Cà Mau” có tác dụng giáo dục truyền thống dân tộc và
truyền thống cách mạng địa phương cho nhân dân ta, đặc biệt là cho thế hệ trẻ Cà Mau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Bài 13:


NHÂN DÂN CÀ MAU ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ NGỤY
(1960 – 1968)


I -ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
1 – Những âm mưu của địch:


Sau thắng lợi đồng khởi của nhân dân Miền Nam, địch tìm mọi cách để trả đũa, cho nên
chúng dùng nhiều hình thức chiến lược chiến tranh để chống lại phong trào cách mạng của
nhân dân Miền Nam.


Ở tỉnh Cà mau, chúng tiếp tục thực hiện những âm mưu thâm độc của chúng là tăng
cường củng cố, xây dựng bộ máy cai trị, nhất là đóng thêm đồn bót, mở nhiều chiến dịch,
chiến thuật để đánh vào vùng giải phóng ở khu vực Cà Mau. Vì thế chúng tăng cường hỏa lực
không quân, hải quân và bộ binh đánh sâu vào vùng căn cứ (U Minh và rừng đước); rải chất
độc hóa học phát quang theo các tuyến sơng lớn: Gành Hào, Bảy Háp, Sơng Ơng Đốc, Cái
Tàu và rừng tràm, rừng đước...


Năm 1961, địch đã đưa xuống Cà Mau trên 4.000 quân với 6 tên cố vấn Mỹ. Năm 1964
– 1965 chúng tiếp tục đưa 7.000 quân cộng với số quân tại chỗ của tỉnh lên đến cả chục ngàn
tên tập trung đánh vào vùng giải phóng và 2 cánh rừng (tràm, đước) để thực hiện chương trình
xây dựng “ấp chiến lược” và “bình định” nơng thơn ở khu vực Cà Mau.



Từ năm 1961 - 1968, địch thực hiện hàng chục ngàn lượt máy bay ném bom và pháo
250 ly từ Hạm đội 7 của Mỹ ngoài biển bắn vào. Đặc biệt là cho cả B52 rải bom xuống vùng
giải phóng làm thiệt hại không nhỏ về người và tài sản của nhân dân trong tỉnh.


2 –Về tình hình ta:


Tỉnh ủy chủ trương phát huy thắng lợi của Đồng khởi, khắc phục mọi khó khăn để đánh
địch. Đặc biệt là phát động phong trào chiến tranh nhân dân, xây dựng ấp, xã chiến đấu để
đánh giặc. Đồng thời tăng cường xây dựng và củng cố vùng giải phóng, nơng thơn giải phóng
để tạo nguồn lực cho tiền tuyến; và tổ chức xây dựng hệ thống chính trị, nhất là Chi bộ và các
đoàn thể ngày càng mạnh v.v..


Từ năm 1961 – 1968, vùng giải phóng của ta được mở rộng, địch rút về tập trung củng
cố các chi khu và các tuyến quân sự quan trọng, nhất là chung quanh thị xã, thị trấn. Các
phong trào thi đua sản xuất, phong trào văn hóa, giáo dục, y tế phát triển khá mạnh, tạo được
sự đổi mới của vùng nơng thơn giải phóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

-Năm 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Cà Mau ra mắt trước 30.000 quần chúng
nhân dân trong tỉnh tại Phú Mỹ, huyện Cái Nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất lớn về đời
sống chính trị của nhân dân tỉnh nhà. Sau năm 1961 Mặt trận các cấp, huyện, xã cũng được
thành lập để tập hợp quần chúng dưới ngọn cờ Mặt trận dân tộc giải phóng chống lại kẻ thù.


-Ngày 20/7/1961, đồng chí Bông Văn Dĩa được Khu ủy và Tỉnh ủy cử ra Bắc bằng con
đường biển để liên hệ với Trung ương chở vũ khí về Nam. Tháng 3 năm 1962 đồng chí chở
chuyến tàu vũ khí đầu tiên về Nam cập bến an toàn ở Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc
Hiển. đồng chí được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng võ trang nhân dân Việt
Nam.


-Năm 1962, trên 5.000 lực lượng đội quân tóc dài kéo ra đấu tranh trực diện tại quận lỵ


Đầm Dơi. Tuy địch đàn áp dã man, dùng súng bắn vào đoàn đấu tranh, nhưng các mẹ, các chị
vẫn tiếp tục tràn vào dinh quận đòi chúng phải chấp nhận khơng cướp bóc và bắn phá vào
xóm, ấp... Nếu tính 2 năm (1962 – 1963 đã có 50.000 lượt người tham gia đấu tranh chính trị).


-Cuối năm 1962, đồng chí Nguyễn Việt Khái, đội trưởng du kích dũng cảm với 8 phát
súng cạc – bin đã hạ hai máy bay địch và bắn bị thương hai chiếc khác. Từ đó, về sau địch
khơng dám sử dụng chiến thuật “Phượng hoàng bay” trên chiến trường Cà Mau.


-Tháng 3/1963, ta đánh bại chiến dịch “Sống tình thương” của địch, đi càn vào khu căn
cứ của ta ở rừng đước, đã bị quân và dân Cà Mau tiêu diệt gần 600 tên, bắn rơi hai máy bay
Mỹ.


-Từ 1959 đến 1963 đã có trên 4.000 binh lính ngụy đào ngũ quay súng trở về với nhân
dân. Có những đồn địch đứng lên khởi nghĩa mang súng ra nộp cho lực lượng cách mạng như
đồn Kinh Hái Ngó, Tân Đức, Bà Đặng, v.v..


-Tháng 10/1966, quân dân huyện Đầm Dơi bao vây chi khu Tân Duyệt bằng phương
pháp đào chiến hào bao vây đánh lấn suốt 100 ngày đêm, địch ở chi khu hoảng sợ bỏ chạy về
Giá Ngự (ở Tân Duyệt chỉ còn đồn nhỏ). Đồng chí Dương Thị Cẩm Vân là người có mặt suốt
ở trận địa, được chọn là nữ kiện tướng chiến hào. Tháng 8 năm 2000 đồng chí được Nhà
Nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng võ trang.


-Nếu tính hai năm(1966 – 1967), quân dân trong tỉnh đã diệt 9.850 tên, trong đó có
nhiều tên Mỹ, thu trên 300 khẩu súng, bắn rơi 21 máy bay và bị thương 93 chiếc; nhiều đồn
bót bị san bằng như Hòa Trung, Cái Keo, Trại Trú...


-Chấp hành theo kế hoạch của toàn miền, đêm 30 rạng 31 tháng12 năm 1967, tức là
đêm giao thừa Tết Mậu Thân, quân và dân Cà Mau đã tấn công vào sào huyệt của địch ở thị
xã Cà Mau làm cho địch thiệt hại nặng, như khu vực: căn cứ hải quân, bót thầy Giào, tiểu khu
và bắn pháo vào Tịa Hành Chính địch và khu vực Tắc Vân... lực lượng ta lúc đó cũng gặp


nhiều khó khăn (vì lần đầu tiên đánh vào thị xã).


-Sau Đồng khởi đến năm 1968, phong trào xây dựng vùng giải phóng của tỉnh phát
triển mạnh cả về chính trị, quân sự, binh vận và xây làng chiến đấu, thi đua sản xuất; đẩy
mạnh các mặt công tác của vùng giải phóng, tạo ra sức mạnh tại chỗ để đánh địch bảo vệ quê
hương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

-Đảng bộ Cà Mau đã phát huy được sức mạnh của quần chúng tại chỗ để thực hiện
chiến tranh nhân dân, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh của Mỹ ngụy.


-Thắng lợi của nhân dân trong tỉnh đã làm cho địch phải co cụm lại, vùng giải phóng
của ta ngày được mở rộng, tạo được hậu phương vững chắc đóng góp sức người, sức của cho
phía trước.


-Phát huy thắng lợi Đồng khởi, Đảng bộ và quân dân tỉnh Cà Mau nêu cao tinh thần
trách nhiệm vừa đánh địch vừa bảo vệ vùng căn cứ cách mạng không chỉ cho tỉnh, mà còn cho
Khu Tây Nam bộ để tạo nguồn lực cho kháng chiến.


Câu hỏi:


1 - Địch thực hiện âm mưu gì ở tỉnh Cà Mau trong những năm 1960-1968?


2 – Trình bày những sự kiện tiêu biểu của tỉnh nhà trong cuộc đấu tranh chống Mỹ –
ngụy giai đoạn 1960-1968 ?


3 – Nêu những ý nghĩa thắng lợi của Đảng bộ và quân dân tỉnh Cà Mau trong giai đoạn
này ?


(Bản đồ : Diễn biến khởi nghĩa vũ trang 1959 – 1960)



Bài:14


CHIẾN THẮNG ĐẦM DƠI – CÁI NƯỚC – CHÀ LÀ


1 -Đặc điểm tình hình.


Vào năm 1963, tình hình chiến trường của tỉnh lúc bấy giờ địch tăng cường bắn phá
bằng hỏa lực không quân và bộ binh đi càn quét nhằm thực hiện chương trình lập “ấp chiến
lược” để gom dân làm “ hàng rào thịt”cho chúng. Địch đi càn đến đâu thì gom dân đến đó để
đưa vào khu ấp chiến lược nhằm tách dân ra khỏi Đảng. Đây là âm mưu rất nguy hiểm làm trở
ngại cho phát triển phong trào cách mạng trong tỉnh; đồng thời chúng xây dựng phòng tuyến
quân sự nhằm ngăn chặn sự di chuyển vũ khí của ta từ rừng đước lên rừng U Minh phục vụ
cho chiến trường miền Tây.


Để phá âm mưu của địch và mở rộng vùng nông thơn giải phóng, qn dân Cà Mau kết
hợp lực lượng quân khu đánh vào cứ điểm quân sự quan trọng của địch ở chi khu Cái Nước,
Đầm Dơi và cứ điểm Chà Là.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Chi khu Cái Nước địch kiên cố lâu đời, đóng cách thành phố Cà Mau 32 km về phía
Tây Nam . Chi khu gồm có dinh quận (2 đồn tứ giác), 2 đồn tam giác và 4 tháp canh bảo vệ
bên ngoài.


Thực hiện theo kế hoạch, đúng 0 giờ 30 phút đêm rạng sáng ngày 10/9/1963, lực lượng
ta tấn công vào chi khu Cái Nước suốt 2 tiếng đồng hồ. Đến 2 giờ 45 phút ta làm chủ hoàn
toàn chi khu Cái Nước, diệt tại chỗ 92 tên, bắt sống 84 tên (có tên quận trưởng và quận phó),
thu tồn bộ qn trang qn dụng (trong đó có 4 súng cối 81 và 60; 1 đại liên 30 ly; 1 trung
liên..., 18 máy VTĐ, hơn 2 tấn đạn). Lực lượng võ trang ta cùng với 800 dân cơng tiến ra san
bằng đồn bót, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược tại thị trấn Cái Nước.


3 -Đánh vào chi khu Đầm Dơi:



Ba giờ sáng ngày 10/9/1963, lực lượng của ta triển khai 3 mũi tấn công vào chi khu
Đầm Dơi. Đúng 4 giờ 10 phút ta tấn công vào chi khu, địch đối phó lại quyết liệt, chiến sự
diễn ra gây gắt, nhưng với sự quyết tâm và mưu trí của các chiến sĩ ta anh dũng, hơn một
tiếng đồng hồ ta đã chiếm cơ bản chi khu, tiêu diệt gần 200 tên ( trong đó có tên quận
trưởng), ta bắt sống tên quận phó và thu nhiều quân trang, quân dụng.


Đúng 2 giờ chiều cùng ngày, địch cho máy bay đổ quân cứu viện quận Đầm Dơi, đã bị
lực lượng ta đánh tiếp, làm chúng thiệt hại nặng. Nếu tính cả 2 trận ta tiêu diệt 325 tên.


4 -Đánh vào cứ diểm Chà Là:


Tiếp tục tấn công địch để phá vỡ hệ thống phịng thủ phía Tây Nam Cà Mau của chúng.
Đúng 12 giờ đêm 23/11/1963, ta tấn công vào cứ điểm Chà Là, là cứ điểm án ngữ quan trọng
của địch trên tuyến sông Bảy Háp. Mở trận đầu ta bắt sống được 30 tên và làm thiệt hại nặng
cứ điểm, số cịn lại sống sót ngoan cố chống trả lại làm trận địa giằng co tới sáng. Biết địch
thế nào cũng kêu cứu viện, cho nên lực lượng của ta bố trí sẵn; chuẩn bị đánh can viện của
chúng. Đúng như dự đoán của ta, 8 giờ sáng ngày 24/11/1963, địch kêu viện cho 8 chiếc máy
bay B26 tới ném bom ác liệt để dọn bãi cho đổ quân. Đúng 9 giờ 30 phút, địch cho 20 chiếc
máy bay chở quân đổ xuống và với 10 chiếc máy bay võ trang hộ tống đã bị lực lược ta đánh
trả quyết liệt. Để cứu vây cho đồng bọn, chúng tăng cường hỏa lực đưa thêm máy bay chiến
đấu làm số máy bay ở tại trận địa gần 40 chiếc oanh tạc tạo trận địa gay gắt và ác liệt.


Đúng 5 giờ chiều cùng ngày, địch lại tiếp tục cho 19 máy bay C47 và 2 Đacota chở tiểu
đoàn dù của quân tổng dự bị Ngụy xuống nhảy dù (bọc) đã bị lực lượng ta đánh thiệt hại
nặng.


Trong 2 ngày chiến đấu dũng cảm của các lực lượng ta đã tiêu diệt và làm bị thương tất
cả gần 600 quân, thu hàng trăm súng, bắn rơi 19 máy bay các loại, thu 500 chiếc dù nhảy của
địch. Đây là trận chiến đấu ngoan cường của lực lượng ta đã bẻ gãy chiến thuật nhảy dù (bọc)


theo kiểu “cổ điển” của Mỹ, Ngụy trên chiến trường Cà Mau.


5 – Nguyên nhân thắng lợi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

-Chiến thắng Cái Nước, Đầm Dơi và cứ điểm Chà Là chính là do sự chiến đấu ngoan
cường của lực lượng võ trang ta biết linh hoạt, sáng tạo trong nghệ thuật quân sự, lấy ít đánh
nhiều và kết hợp 3 thứ quân (chủ lực, địa phương quân, dân quân khu du kích).


-Chiến thắng Cái Nước, Đầm Dơi và cứ điểm Chà Là là chiến thắng bắt nguồn từ sự
sáng tạo trong vận dụng 3 mũi tiến công nhằm tạo ra thế và lực mới đánh địch và thắng lợi.


6 – Ý nghĩa:


-Thắng lợi chi khu Cái Nước, Đầm Dơi và cứ điểm Chà Là đã đánh dấu bước trưởng
thành vượt bậc trong đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và quân dân Cà Mau sau Đồng khởi.


-Chiến thắng đó đã chứng minh lực lượng võ trang của ta đã phát triển mạnh; lần đầu
tiên đánh cùng một lúc 2 chi khu, đã mở màn cho lực lượng võ trang đánh vào các chi khu của
địch; đồng thời đã cỗ vũ mạnh mẽ cho phong trào phá “ấp chiến lược” của địch trên chiến
trường Cà Mau


-Thắng lợi nêu trên làm cho ngụy quân, ngụy quyền trong tỉnh hoang man, lo sợ trước
sự tấn công mãnh liệt của quân, dân ta; và làm thất bại tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở
phía Nam Cà Mau; mở ra được vùng giải phóng liên hồn xã liên xã, huyện liên huyện; bảo
vệ được khu căn cứ cách mạng và tạo được nguồn lực cho kháng chiến để đánh thắng địch.


Câu hỏi:


1-Nêu đặc điểm tình hình ?



2-Trình bày thắng lợi của chi khu Cái Nước, Đầm Dơi và cứ điểm Chà Là ?
3-Nêu nguyên nhân và ý nghĩa thắng lợi ?


Bài đọc thêm:


ĐÁNH GIÁ THẮNG LỢI CỦA “CHIẾN THẮNG
ĐẦM DƠI – CÁI NƯỚC – CHÀ LÀ”


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

chiến đấu trên sông), “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận “, “Bủa lưới phóng lao”, “Phượng
hồng vồ mồi”.


1/-Vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng, Tỉnh ủy lãnh đạo quân dân tỉnh nhà càng
đánh càng mạnh, liên tục tấn cơng địch, củng cố vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng.


2/-Lần dầu tiên ta tiêu diệt 2 chi khu trong một đêm (09/09/1963), tiêu diệt gọn trường
huấn luyện sĩ quan chỉ huy biệt kích Mỹ trong vận động. Bắt sống tù binh Mỹ được thực hiện
trước tiên ở nơi đây. Việc tiêu diệt cả “Giang đồn” trên sơng cũng được thưc hiện sớm từ
vùng đất Mũi Cà Mau. Sự kiện diệt đồn, chủ động dụ quân can viện đến tiêu diệt là điều rất
mới lúc ấy cũng diễn ra ở nơi đây. Việc tiến lên đánh lớn bắt đầu từ đất Cà Mau của quân khu
miền Tây rất rõ ràng. Sau trận Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, quân khu mở trận đánh ở Vĩnh
Thuận, tiêu diệt chi khu, thu đại bác, diệt 1.200 quân chủ lực (trong đó có một tiểu đoàn dù
500 tên). Đã chứng minh rõ xu thế tiến lên đánh lớn, càng đánh, càng mạnh, càng thắng to của
quân giải phóng miền Tây Nam bộ.


3/-Tỉnh thực hiện tốt chỉ thị của Trung ương Cục về phá “Quốc sách ấp chiến lược” của
Mỹ ngụy. Trước khi mở đợt, trong tỉnh có 64 ấp chiến lược, qua chiến dịch, ta đã phá lỏng,
phá rã hầu hết “Ấp chiến lược”. Tỉnh ủy đã nhận định: “Quốc sách ấp chiến lược” ở Cà Mau
đã bị phá sản trên căn bản.


4/-Chiến lược tiến công của quân khu mà Tỉnh Cà Mau phối hợp thực hiện bằng cuộc


sống đồng loạt tiến công và nổi dậy phá “Quốc sách ấp chiến lược”, với những trận chiến
thắng công đồn, diệt viện ở Đầm Dơi, Cái Nước , Chà Là, Lộc Ninh, Trí phải là những địn
chí mạng vào chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, cùng chiến thắng ấp Bắc, phong trào phá
“Ấp chiến lược” ở Mỹ Tho và những chiến thắng trên các chiến trường của toàn miền Nam,
phải chăng đó là một trong những nguyên nhân tạo ra làn sóng biểu tình ngày càng tăng ở
Huế, Sài Gòn... dẫn tới đế quốc Mỹ phải thay ngựa giữa dòng, lật đổ Diệm – Nhu và chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản.


(Trích phát biểu của ông Đặng Thành Học, ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy
Minh Hải tại hội thảo khoa học “chiến thắng chi khu Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là”).


Bài đọc thêm:


CHIẾN THẮNG ĐẦM DƠI – CÁI NƯỚC – CHÀ LÀ (1963) LÀ THẮNG LỢI CÓ Ý
NGHĨA CHIẾN LƯỢC TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỦA CÀ
MAU VÀ TÂY SÔNG HẬU


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Cà Mau cũng từng là căn cứ mật của Xứ ủy Nam Kỳ và là liên tỉnh Miền Tây trong
những ngày đầu kháng chiến chống Mỹ.


Kế thừa và phát huy truyền thống ấy, Cà Mau có Làng rừng (1958-1960), có Đồng khởi
oanh liệt (1960-1961) và hàng loạt chiến công tiếp đó.


Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục (tháng 6/1963), sự tin tưởng đặc
biệt vào lực lượng cách mạng ở Cà Mau, Khu ủy và Quân khu miền Tây quyết định chọn Cà
Mau làm địa bàn điểm để triển khai chiến dịch phá quốc sách ấp chiến lược mà Mỹ nguỵ đang
ráo riết thục hiện.


Thực tiễn diễn biến phong phú và sinh động của chiến trận ở Đầm Dơi, Cái Nước (vào
tháng 09/1963, trước khi Ngơ Đình Diệm sụp đổ) và ở Chà Là (vào cuối tháng 11/1963, sau


khi Ngơ Đình Diệm sụp đổ) là phản ánh tình hình phức tạp, sự đa dạng cùng xu thế vận động
của chiến trường Tây Nam Bộ và bộc lộ thực chất tương quan lực lượng giữa ta và địch trên
chiến trường.


Chiến trận ở Đầm Dơi, Cái nước, Chà Là (từ tháng 9 đến tháng 11/1963) diễn ra thật sự
là một chiến dịch giáng cho địch những địn chống váng. Cùng với diễn biến và kết quả của
chiến dịch này, vùng giải phóng ở Nam Cà Mau mở rộng liên hoàn và vùng giải phóng ở Bắc
Cà mau mở rộng liên hồn.Đồng thời hàng loạt ấp chiến lược ở các xã khác bị phá bung.


Chiến thắng vang dội ở Đầm Dơi, Cái nước, Chà Là trả lời kịp những câu hỏi bức bách
đặt ra trong tiến trình cách mạng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chiến thắng
vang dội ấy không chỉ củng cố niềm tin cho quân dân Cà Mau, mà còn đem lại niềm tin và cổ
vũ lớn lao đối với quân dân cả nước, đồng thời thu hút sự chú ý và ủng hộ của bạn bè năm
châu.


Ở Minh Hải đã từng có Làng rừng, là sự chuẩn bị trực tiếp cho Đồng khởi, là một trong
những tín hiệu cấp báo cho sự chuyển mình của cách mạng Miền Nam từ đấu tranh chính trị
cho đến khởi nghĩa từng phần rồi phát triển thành chiến tranh cách mạng là một xu thế khơng
thế đảo ngược. Tiếp theo đó ở Minh Hải có chiến thắng Đầm Dơi, Cái nước, Chà Là, khẳng
định bước trưởng thành của cách mạng Miền Nam, là một trong những tín hiệu quan trọng
khẳng định sự phá sản của Quốc sách ấp chiến lược cũng như sự phá sản của Chiến lược
chiến tranh đặc biệt mà Mỹ ngụy đã triển khai một cách mù quáng, điên cuồng.


(Trích phát biểu của TS Nguyễn Tấn Thiết, Viện KHXH Thành phố Hồ Chí Minh tại
Hội thảo khoa học “Chiến thắng Đầm Dơi, Cái nước, Chà Là”.


Bài 15


NHÂN DÂN CÀ MAU



NHỮNG NGÀY THƯƠNG NHỚ BÁC


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Trong lúc Đảng bộ và quân dân Cà Mau đang thực hiện kế hoạch chống âm mưu “Bình
định” của Mỹ Ngụy trên chiến trường. Được thông báo của Bộ Chính Trị trên Đài tiếng nói
Việt Nam: Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ thiên tài kính yêu của Đảng ta, dân tộc ta đã
từ trần hồi 9 giờ 45 phút ngày 03 tháng 9 năm 1969 (sau này Bộ chính trị mới tuyên bố ngày
Bác mất là ngày 2/9/1969). Được thông báo, Đảng bộ và quân dân Cà Mau cũng như nhân
dân cả nước không cầm nổi nước mắt.


Khi nghe tin Bác mất, nhân dân cả vùng giải phóng, vùng ven, thậm chí trong vùng
địch kềm kẹp bà con cũng mở “lén” ra-đi-ô để theo dõi tin về Bác. Những ngày được tin Bác
mất, bà con ai nấy đều xôn xao biểu hiện lịng nuối tiếc của mình. Trong lúc đó trời lại mưa
dầm dề suốt mấy ngày.


Đúng là: “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” (Tố Hữu)


Thực hiện quy định của Bộ Chính Trị, cả nước để tang. Tại tỉnh Cà Mau các cơ quan,
trường học và nhân dân đã tổ chức lễ truy điệu – nhận tang để tưởng nhớ Bác. Những buổi lễ
truy điệu, mọi người không ai cầm được nước mắt. Khi đọc hai dịng chữ trắng trên băng đen:
“Vơ cùng thương tiếc Chủ Tịch Hồ Minh”; “Đời đời nhớ ơn Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”.


2-Nhân dân lập Đền thờ tưởng nhớ Bác:


Để tưởng nhớ công ơn trời biển của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, nhân dân trong tỉnh đã
sáng kiến cùng nhau góp cơng, góp sức dựng lên những Đền thờ, Phủ thờ bằng vật liệu cây gỗ
địa phương rất trang nghiêm để hương khói, thờ cúng Bác.


Sau khi Bác mất 7 – 8 ngày bà con ở Biện Trượng – xã Viên an (nay là xã đất mới) vận
động với nhau lập đền thờ Bác đầu tiên trong tỉnh. Từ đó các đền thờ, Phủ thờ Bác được dựng
nhiều nơi trong tỉnh như:



-Đền thờ ấp Hàm rồng – xã Hàm Rồng, huyện Ngọc Hiển.
-Đền thờ Cái Xép – xã Viên An, huyện Ngọc Hiển.


-Đền thờ Óng Bọng – xã Viên An, huyện Ngọc Hiển.
-Đền thờ Rau Dừa – xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước.


-Đền thờ Bàu Hầm – xã Quách Văn Phẩm B, huyện Đầm Dơi.
-Đền thờ Nhà Hội – xã Tam Giang, huyện Ngọc Hiển


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

-Nhà sàn Bác Hồ ở Công viên văn hóa – Thành phố Cà Mau.


Đó là những nơi để đốt hương khói và thờ cúng Bác; dù tên gọi khác nhau (Đền thờ,
Phủ thờ, Ngôi đền...) hoặc xây dựng có nhiều dạng khác nhau, nhưng đều tập trung theo dáng
dấp Đền thờ của Nam bộ. Mỗi Đền thờ đều có thành lập tổ quản lý và phân cơng người chăm
sóc, bảo quản và thường xun đốt nhang khói cho Bác. Mỗi lần kỷ niệm các ngày lễ lịch sử
của dân tộc, nhất là ngày sinh nhật Bác. Đặc biệt có nơi lực lượng võ trang (du kích xã,
huyện). Khi xuất quân ra trận đến đốt hương và hứa với Bác: Chúng con ra trận quyết lập
chiến cơng để kính dâng Bác... và nhiều đền thờ trở thành nơi hội tựu sinh hoạt của tuổi trẻ,
nhất là Đội thiếu niên tiền phong.


Trong 14 Đền Thờ trong tỉnh đều có nhà hội, nhà khói (để nấu nướng khi cúng giỗ Bác,
có hành lang và cầu bắc ra sông rạch mặt tiền, mặt hậu, bên hông... để xuồng ghe dễ ghé khi
bộ đội, cơ quan và nhân dân đến hành lễ.


Do nếp sinh hoạt quen thuộc của bà con Nam bộ vùng đất Mũi, khi các đơn vị du kích
xuất trận, đến bàn thờ Bác, đốt nhang, khi thắng trận trở về lại đến đốt nhang báo tin vui cho
Bác. Ở những ngôi đền, tự nhiên thành trụ sở của một số cơ quan, đơn vị võ trang chiến đấu,
nơi hoạch định kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm”.



3-Biến đau thương thành hành động cách mạng:


Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, Đảng bộ và quân dân Cà Mau đã biến đau
thương thành hành động cách mạng, quyết tâm bẽ gẫy những âm mưu thủ đoạn của địch, góp
phần cùng cả nước đánh bại chiến lược “Chiến tranh Việt Nam hóa” của Mỹ, ngụy.


Với tinh thần đó, các lực lượng võ trang trong tỉnh đã phát huy truyền thống cách mạng,
quyết tâm đánh địch trên khắp 3 vùng trong tỉnh (nông thôn, đô thị và vùng tranh chấp giữa ta
và địch); và thực hiện 3 mũi tấn cơng (qn sự, chính trị, binh vận).


Cuối tháng 9/1969, địch thực hiện âm mưu bình định U Minh, lần thứ nhất chúng tập
trung mọi hỏa lực mở nhiều trận càn đã bị lực lượng ta đánh trả quyết liệt, làm cho địch thiệt
hại nặng và không thực hiện được kế hoạch của chúng.


Đầu tháng 10/1969, ta đánh vào sân bay thị xã Cà Mau, phá hủy 2 kho đạn (10 tấn vũ
khí) trong lức đó ở nơng thơn, ta tiếp tục đánh ngăn chặn đi càn quét của chúng. Ngày
9/10/1969 xã Khánh Bình Đông (huyện Trần văn Thời) kết hợp với lực lượng tỉnh, huyện ta
đã tiêu diệt nhiều tên địch làm thất bại cuộc càn của chúng. Du kích Khánh Bình Đông dùng
súng K2 với 3 phát đạn bắn rơi 1 chiến máy bay H.U.IA và hư hỏng một chiếc khác. Trong
lúc đó các đội du kích trong tỉnh cũng tăng cường xuống các bãi lửa (hầm chông, gài trái, hàn
cản) để bao vây và ngăn chặn đi càn của địch. Những đội du kích xuất quân đi đánh đồn, phá
ấp chiến lược, đánh tàu... Đặc biệt vào ngày 23/10/1969 ta đánh vào cụm tàu trên Sông Đốc
và Chi khu Rạch Ráng, diệt 100 tên, trong đó có 67 tên Mỹ, phá hủy 02 khẩu pháo 105 ly và
04 chiếc tàu tại chỗ. Nếu tính những tháng cuối năm 1969 và những tháng đầu năm 1970 quân
dân tỉnh Cà Mau đã bắn chìm và hư 250 chiếc tàu lớn nhỏ, trong đó có 08 tiểu pháo hạm dài
150 m, diệt 2.900 tên địch, trong đó có cả trăm tên Mỹ. Có những trận ta diệt hàng chục chiếc
và có những ngày ta đánh năm, sáu trận như ở Tam giang, Kinh mười bảy...


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

4-Ý nghĩa lịch sử:



-Tấm lòng người dân Cà Mau đối với Bác Hồ kính yêu, đã phản ánh tình nghĩa sâu
nặng, thiêng liêng của người dân Đất Mũi ở tận cùng cực nam của Tổ quốc đối với Bác Đúng
là “nơi xa xôi mà không xa ở Bác”. Cho nên những Đền thờ được mọc lên chính là những tấm
lịng mn vàn thương u của người dân Cà Mau thương nhớ Bác.


-Tấm lòng của người dân Cà Mau đối Bác Hồ cịn có ý nghĩa biểu hiện tinh thần yêu
thương Bác- cũng chính là yêu thương đất nước. Vì thế người dân Cà Mau thương nhớ Bác
bao nhiêu thì sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước bấy nhiêu.


-Tấm lòng của người dân Cà Mau đối Bác Hồ chính là phát huy tinh thần yêu nước của
dân tộc nói chung, của người dân Cà Mau nói riêng. Đã vượt qua những khó khăn ác liệt, lập
nên những thành tích xuất sắc, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng trên mảnh đất quê
hương Cà Mau kiên cường.


Câu hỏi:


1-Em hãy kể các Đền thờ Bác ở Cà Mau ?


2-Nêu tinh thần quyết tâm của Đảng bộ và quân dân Cà Mau biến đau thương thành
hành động cách mạng ?


3-Nêu ý nghĩa lịch sử “Tấm lòng của người dân cà mau với Bác Hồ ?


ĐỀN THỜ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Ở CÀ MAU


*Nhà thờ - Đền thờ – Phủ thờ – Miếu thờ... tên gọi những toà nhà được dựng lên bằng
những vật liệu khác nhau, nhưng tất cả đều rất tôn nghiêm, rộng lớn như đình chùa Nam Bộ –
do nhân dân góp cơng sức tạo lập và cùng nhau hương khói thờ cúng Bác.


1.


9/1969


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

2.
9/1969


*Ngôi Đền ở Ngọn Ngã Quát (Đồng ông Nghệ), ấp Hàm Rồng (nay là xã Hàm Rồng)
đều cất chữ đinh, lót sàn gỗ, đầu song day xuống sơng. Hương khói là chú Năm Tấn, chú Hai
Minh. Đến tháng 2/1974 bị bom, cả xóm dời vào ngọn Cái Trăn –Dời Đền Bác theo dựng tại
ngọn ngã tư kinh Ba.


3.
9/1969


*Ngôi Đền ở Tắt Năm Căn (Rạch Lô Ráng – Tắt ông Kiểng), xã Năm Căn. Đội thiếu
niên tiền phong giữ Đền gồm; Thu Hà, Liêm, Tý, Phú... Bọn giặc ở Năm Căn mấy lần tràn
đến, không vào được nơi thờ cúng Bác Hồ. Tuổi các em từ 11, 12 vào đội du kích tí hon. Đền
gần nhà Bác Tám Đường, nhà Tư An. Hương khói thờ Bác có Tư Đốc, Tư An, Ba Dữ...


4.


11/1969


*Ngơi Đền dựng bằng gỗ đước ở Máng Chim, ấp Cái Xép, xã Viên An. Do hơn 100
nóc gia nơi đây đề xuất ý kiến, rồi cùng Tổ đảng và lực lượng du kích địa phương xây dựng.
Thợ chánh là ơng Tám Dĩ, ơng Tư Nữa, ơng Ba Bóng. Cột vuông, to, chái bắc dần, rộng hơn
60 m2, có nhà họp, có hành lang, sân lót gỗ đủ cho vài ba trăm người ngồi, có cầu thang phía
trước, phía trong. Vài tháng sau Bác mất là đền dựng xong. Xã ủy chỉ đạo: ông Bảy Cẩn, chỉ
huy cơng trình: ơng Năm Đồn, Người hương khói: Bà Phạm Thị Tắt. Tháng 2/1970 bọn giặc
ở Gị cơng vào phá Đền, bà con nơi đây lạI dời Đền ra ngã sáu Cái Mú, dựng lại đàng hoàng,
tiếp tục thờ cúng Bác và quyết liệt đánh giặc để bảo vệ đền thờ.



5.


11/1969


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

6.


11/1969


*Ngôi Đền thờ Bác ở ấp Rau Dừa (Đầu Sấu), xã Hưng Mỹ. Do ông Hai Sảnh, ông Mai
Xuân Bình và bà Nguyễn Thị Bảy đề xuất và phát động xây cất. Ông Nguyễn Văn Cung là
chủ đất xây nền Đền thờ và là người chăm lo hương khói, thờ phụng Bác ở đây. Ngơi Đền
khánh thành vào đầu tháng 11/1969.


7.


12/1969


*Ngôi Đền thờ Bác trên đất Bàu Hầm, tọa lạc giữa một cù lao, giữa các con kinh Bàu
Hầm- Tám Lẫm – Rạch Nhum – Rạch Cái Keo, thuộc xã Quách Phẩm B. Trực tiếp chỉ đạo
thực hiện là Nguyễn Tấn Kịch, Hồ Cơng Thạch, Sáu Thọ. Ơng Tư Đựng, ông Mười Một cùng
hàng chục thợ mộc do ông Năm Bính và Tám Khả chi huy. Có 400 lượt người tham gia xây
cất Đền thờ Bác – Hương khói: ơng Năm, một lão nơng chăm nom.


8.
12/1969


*Đền thờ Bác ở Nhà Hội ấp Kinh 17 xã Tân Ân – Do Ông Năm Thới cùng bà con ấp
Kinh 17 quyết lập bàn tờ Bác - Ông Lê Văn Thạnh nhận lo hương khói thờ Bác. Năm 1972,
du kích ấp diệt gọn đội bảo anh biệt kích càn vào khu đền, ta bắn rơi một trực thăng gần kinh


Cây Cóc rạch Nhà Hội. Trước đó ta bắn cháy tàu sắt, diệt 29 tên giặc bảo vệ xóm làng. Kế
đến nghe đài báo tin Bác Hồ mất, cuối năm 1969-Quân dân Tam Giang-Nhà Hội lập đền thờ
Bác Hồ...


9.
02/1970


*Ngôi đền trên bờ sông Đầm Chim xã Tân Tiến (Nay là xã Nguyễn Quân). Do bà con
xóm kinh Rẫy, ấp Hồng Phước xây cất-Chỉ đạo xây dựng đền gốm các Ông: Năm Lập, Năm
Tần, Nguyễn Văn Ký-Hơn 100 lực lượng-Thợ chánh là ông Trương Văn Sa; Trang trí Ơng
Tân, Ơng Thế (Cán bộ thơng tin) Ông Mười Bài-cán bộ đoàn 962 tặng cho bà con bức ảnh
Bác Hồ mang từ Bắc vào. Ảnh lộng khung màu đỏ trang trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

*Đền thờ Bác ở Kinh Cạn xã Tân Ân thợ mộc chánh Hồng Quang Tiến, Phan Văn
Trình, ơng già Hai Ninh, ơng Mậu với nhiều thợ phụ. Chị Út Vạn (Nguyễn Thị Lếnh) và ơng
Hai Phóc lo đốt nhang đền thờ Bác. Đền rộng lớn, có sân gỗ, bắc cầu đước đi ba phía dài cả
cây số cho bà con đến cúng Bác, dự lễ. Ông Lữ Văn Vạn vận động sĩ quan, binh sĩ gửi bình
bơng, nhang đèn, hoa quả cúng Bác...


11.
03/1970


*Đền thờ Bác ở Kinh Sâu xã Tân Ân do các ông Châu Văn Nới, Châu Văn Đính,
Nguyễn Văn Dưỡng, Lưu Văn Thường, Huỳnh Văn Cấm do ơng Đính làm Hội Trưởng, ơng
Dưỡng làm Hội phó hội đền thờ Bác Hồ. Khởi cơng dỡ gỗ tháng 2/1970, khánh rthành
19/05/1970. Hương khói là ơng, bà bảy Cóc (Dưỡng) đền cất rộng, cột vng, sơn xanh, đỏ,
có chân đèn thau, lư hương, bộ lư - Tham gia: các má, các chị vận động tiếp tế, nấu nướng
cúng giỗ Bác Hồ như má Nguyễn Thị Thắm, bà Thợ Ba, bà Sáu Quí, chị Bảy Tiết, chị Châu...


12.


03/1973


*Ngôi đền dựng bằng gỗ tràm tại Kinh Bảy, ấp Sáu xã Trí Phải, huyện Thới Bình do
Huyện Đồn Thới Bình đề xuất Huyện ủy chấp thuận. Với khẩu hiệu Tuổi xuân quyết báo đền
ơn Bác, vận động sâu rộng một phong trào Thanh niên và nhân dân tham gia lập phủ thờ Bác
Hồ. Ban chỉ huy cơng trình gồm Huỳnh Đảm, Trần Trọng Sơn... Ông Nguyễn Ngọc Báu vẽ
thiết kế, phủ thờ ba căn, một chái, lợp thiếc, vách ván. Giữa có bệ xây gạch tam cấp, bậc trên
cùng có ảnh Bác trang nghiêm. Đến tháng 8/1974 xong 2/3 mặt nền, tiến hành xây cất vượt
qua nhiều khó khăn gian khổ với tinh thần yêu kính Bác và quyết báo đền ơn Bác. Qua chiến
dịch Hồ Chí Minh, ngày 30/05/1975 kháng thành với khối lượng người dự đông đảo, không
khí thiêng liêng xúc động.


13.
09/1974


*Ngơi Đền thờ Bác ở xóm Lung Xả, ấp Cái Nước (Thị trấn Cái Nước) do ơng Nguyễn
Văn Vĩnh xây cất và hương khói. Ông cùng gia đình, thân tộc hợp sức xây dựng, khánh thành
ngày 2/9/1974. Ông Vĩnh làm một con heo hơn 100kg, có 300 người đến dự.


14


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

05/01/1975 khẩn trương thi công xây phủ thờ. Đến 84 ngày thì cơng trình hồn chỉnh- khánh
thành 16 giờ ngày 25/04/1975. Hơn 17 ngàn người dự trong niềm phấn khởi, tự hào.


15.
05/1999


*Nhà sàn Bác Hồ ở Công viên Văn Hóa Thành phố Cà Mau – trong khu tưởng niệm
Bác Hồ – Nhà sàn của Bác được ngành Nông ngiệp phát triển nơng thơn, Sở văn hố thơng tin
phối hợp với Bộ đội quân khu 9 và các Nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật xây dựng. Dáng


nhà, phịng trưng bày, các mơ hình, hiện vật đúng theo nguyên bản như nhà sàn của Bác ở Hà
Nội. Nhà sàn Bác Hồ ở Cơng viên văn hố Cà Mau, nơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp, đón
nhiều khách tham quan...


SƯU TẦM VÀ LẬP BẢNG: HỮU THÀNH - NGUYỄN BÁ - TRƯỜNG SƠN –
HỒNG VỆ - THANH MINH


TẤM LỊNG CÀ MAU VỚI BÁC HỒ


Lê Thanh Tồn


Bằng cơng tác sưu tầm, biên soạn nhanh chóng và nghiêm túc, chúng tơi mong muốn
cuốn sách “TẤM LỊNG CÀ MAU ĐỐI VỚI BÁC HỒ” đến tay bạn đọc, nhân ngày sinh lần
thứ 110 của Bác. Công việc nghiệp vụ này có một số khó khăn, trong đó việc thơng báo cho
các tác giả có bài cùng chủ đề trong và ngoài tỉnh chưa đều khắp: Ban sưu tầm cũng chưa có
dịp đến hết những nơi còn tư liệu quý mà chúng ta chưa nắm bắt.


Tuy vậy, lần xuất bản này, chúng tôi đã nhận được sự cộng tác của 61 tác giả từng hoạt
động trong các ngành văn, thơ, nhạc, hoạ, ảnh nghệ thuật, với 04 tác giả đã mất (NGUYỄN
BÍNH, NGUYỄN MAI… NGUYỄN PHONG TRIỀU, DIỆP MINH TUYỀN) là 65 thành
viên đóng góp cho cuốn sách hơn 80 tác phẩm, gồm nhiều thể loại... mang tình yêu lãnh tụ
sâu xa, thắm thiết; lối diễn đạt chân thành, sinh động, gây cảm xúc cho người đọc, người xem.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

học sử: cuốn sách thu nhận quá trình hình thành tình yêu quê hương đất nước của những lưu
dân định cư ở cuối trời Tổ quốc, hồ nhập cùng tình yêu lãnh tụ, yêu qúy Đảng, hình thành
đời sống tinh thần, lý tưởng cách mạng “THÀ HY SINH TẤT CẢ CHỨ NHẤT ĐỊNH
KHÔNG CHỊU LÀM NÔ LỆ” BỞI “KHƠNG CĨ GÌ Q HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO !”. Tất
nhiên, cuốn sách chỉ là một khâu nhỏ trong chuỗi hạt tiếp nối những gì đã có từ trước, cố gắng
đánh dấu hiện thực và cùng nhau đi sâu hơn một bước, hy vọng cống hiến thêm...



Không xuất phát từ góc độ này, chúng ta sẽ khó hiểu vì sao cháu Nguyễn Phi Hùng,
một thiếu niên nghèo “lớn lên trong đôi tay tần tảo của mẹ” khi sa vào tay giặc lúc bị thương,
Hùng không đầu hàng, theo gương bạn TÁM, anh ƠN, anh TRỖI, Hùng vứt hết bông băng
cho máu chảy, miệng “đả đảo” quân giặc và trước phút hy sinh, Hùng hô “BÁC HỒ muôn
năm !” cho đến khi lạc giọng (Bài Thanh Minh).


Chiến sĩ trẻ Đoàn Văn Thật sau một đêm bao vây đồn Rau Dừa, về đến Xẻo Trê thì Tổ
du kích lọt vào ổ phục kích của địch. Anh bị thương gãy ống chân, nằm bắn truy cản giặc cho
hai đồng đội thoát. Khi bắn hết đạn, anh đập gãy súng không cho địch cướp. Anh thét lớn:
“Tao là bộ đội giải phóng qn khơng biết đầu hàng”. Trước phút hy sinh, Thật vụt đứng
thẳng lên và hơ to: “HỒ CHÍ MINH MN NĂM !”. Tiếng anh tắt giữa tiếng súng thù,
nhưng âm hưởng còn vang vọng mãi (Bài Thế Hùng). Nguyễn Trung Bỉnh, một cán bộ Đoàn,
năm Diệm thi hành Luật 10/59, Bỉnh bị giặc bắn gãy cánh tay trái, máu chảy tràn như xối.
Bỉnh khơng cho giặc băng bó, cứ vạch tội ác Mỹ-Diệm phá hoại hịa bình thống nhất, anh cố
nói cho đồng bào chi khu Cái Nước nghe rõ. Khi khàn giọng, chúng không cho anh uống
nước, anh tự nút máu mình thấm giọng tiếp tục tun truyền. Sau cùng, anh hơ “BÁC HỒ
MN NĂM” nhiều lần, rồi ngã xuống trong sự thán phục của bà con thị trấn.


Cũng thời gian này, anh Tô Văn Cất-cán bộ Đoàn xã Phú Mỹ, giặc bắt anh về khu Bình
Hưng tra tấn đủ cách mà khơng khai thác được gì. Chúng đưa anh về ấp nhà để hành quyết.
Chúng cho bọn tề xã, ấp kêu cha mẹ vợ con anh tới xem chúng mổ bụng moi gan anh để uy
hiếp tinh thần. Chờ người thân và đồng bào bị giặc gom đến đông, anh dõng dạc tố cáo tội ác
“Trời không dung đất khơng tha” của chúng và dặn dị, từ biệt cha mẹ, vợ con, họ hàng. Rồi
ngước nhìn phương Bắc, anh hơ “HỒ CHÍ MINH MN NĂM !” nhiều lần, cho đến khi
giặc nhét giẻ vào miệng anh, đè anh xuống mổ bụng... (Tài liệu của đội thanh niên xung
phong, do Bùi Tấn Sĩ lưu trữ). Còn Bé Tâm (Thơ Nguyễn Hải Tùng) tả một em bé bị giặc bắt
hành hình tra khảo, rồi đem cột vào cọc gỗ ở bãi bắn. Tâm hiên ngang nhìn quân giặc, trước
khi đạn nổ:


Bé Tâm dồn sức hô to:



“Bác Hồ !” Rồi lại “Bác Hồ Muôn Năm !”


Cũng như nhiều nơi khác, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Cà Mau ln có BÁC trong
lịng. Lúc vui, buồn, cơn nguy biến, mọi người đền nghĩ đến BÁC, lấy sức mạnh từ BÁC để
vươn lên, để vượt thoát. Và như chúng ta từng biết, có hàng trăm, hàng ngàn trường hợp hơ
vang khẩu hiệu “HỒ CHÍ MINH MUÔN NĂM !”, “BÁC HỒ MUÔN NĂM !”... trước phút
hy sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

Có một hiện tượng lạ ở lãnh vực tình cảm cao cả này: Các em thiếu niên nhi đồng đều
rất u kính BÁC. Có nhiều em may mắn được nhìn ảnh BÁC, được xem phim kháng chiến
có BÁC xuất hiện cuối những năm đánh Pháp. Nhưng phần lớn các em chưa từng thấy BÁC
HỒ, chưa từng nghe BÁC nói... Thế mà các em lại yêu kính BÁC dữ dội và thiết tha. BÁC là
ơng bụt, ơng tiên trong truyện cổ tích, trong giấc mơ đẹp của cá em. Bài Em Chảy (Thơ
Nguyễn Phong Triều) tả một thiếu niên đau trái hấp hối, trước khi chết em nhờ cha, mẹ lấy
ảnh BÁC HỒ trong cặp vở cho em nhìn:


Giọng yếu ớt Chảy khơng nói được
Hai tay ơm ảnh Bác khơng rời
Chảy ơi, em đã mất rồi


Nhưng tình yêu Bác nghìn đời không tan!


Hay như bài HAI em bé ở Tân Hưng Đông (Trần Trọng Sơn sưu tầm) Cắt tay lấy máu
viết thư gửi BÁC HỒ:


Để trút hết nỗi niềm thương nhớ
Dao cắt tay máu đỏ chảy tràn
Bao nhiêu tình nghĩa chứa chan
Hòa trong nét chữ bên hàng tâm thơ.



Câu chuyện Đội Thiếu niên bảo vệ đền thờ BÁC (Lời kể của Trần Thanh Liêm) Trong
một thời gian ngắn các em được các anh chị du kích và các cụ già giúp sức, đã dựng xong
ngôi miếu nằm sâu trong rừng đước Năm Căn-An Viên. Từ đó, các em phân công nhau giữ
miếu thờ, lo đốt nhang và cùng các anh chị du kích chiến đấu chống giặc càn vào phá miếu.
Liêm, Hà, Võ Phú... Các em tự động làm một cuốn sổ ghi chú ưu khuyết của mình đề tu
dưỡng và học tập noi theo gương BÁC.


***


Cịn về ảnh BÁC HỒ, thì Cà Mau chúng ta có biết bao nhiêu câu chuyện cảm động.
Ngày cuối quân đội ta tập kết khỏi thị trấn Cà Mau (cuối 1954), khi buổi liên hoan văn nghệ
kết thúc, người đi đã tập trung vào hàng ngũ, ghe nổ máy chờ dưới bến. Nhưng khi các anh bộ
đội sắp rời khỏi lễ đài, thì có tiếng báo cáo: “Bức ảnh BÁC HỒ còn treo giữa lễ đài, có tập kết
ln khơng ?”. Đó là bức ảnh sơn dầu cao 3 m, rộng 1,5 m, dưới góc phải có chữ ký tắt của
Hoạ sĩ Diệp Minh Châu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Một trường hợp khác (Bài Chị Lý của Phạm Hồng) mô tả bọn địch trải Quốc kỳ và ảnh
Bác ở một lối đi độc nhất, buộc một nữ tù nhân là trần Thị Lý chưa đầy 20 tuổi, bước qua. Chi
quỳ xuống đỡ lá cờ và chân dung Bác Hồ lên cao, làm quân giặc hoàn toàn thất vọng. Chúng
tra khảo chị tàn nhẫn, nhưng không khuất phục được chị.


Mẹ Trần Thị bái ở ấp Bảy B, xã Hiệp Tùng, sau thời gian cùng bà con chăm lo hương
khói tại phủ thờ BÁC ở rạch Dược. Năm 1976 phủ thờ bị hư dột, mẹ đến nhận tấm ảnh và lư
hương đem về nhà thờ cúng cho đến ngày hôm nay. Cũng như vậy, bà Lê Thị Phú mang lư
hương thờ BÁC từ ngôi đền toạ lạc ở ngã ba tân Thành (sông Bàu Sen) về nhà, tiếp tục thờ
phụng BÁC. Còn bức ảnh ở ngơi đền này thì con ơng Phan Văn trí lộng kính, treo uy nghi
giữa nhà, ba mươi năm mà bức ảnh của BÁC vẫn được giữ nguyên (Bài Đinh Đằng –Trung
Thực –Trường Sơn). Tác giả Nguyễn Minh cho ta một sự kiện nữa: Bác Bảy Nguyễn Ngọc
Lợi ở vàm Khâu Bè đã tìm mọi cách giữ gìn bức ảnh BÁC HỒ trong 23 năm, dù gia đình Bác


bảy trải qua bao thăng trầm, cịn –mất. Đặc biệt, bức ảnh này anh em Ban tuyên huấn Tỉnh ủy
Cà Mau đến mượn làm mẫu để vẽ in ra phổ biến...


***


Về cây vú sữa Miền Nam, một lão nơng xã Trí Phải nhờ anh em bộ đội tập kết mang ra
Hà Nội tặng BÁC. BÁC đã chăm sóc cây vú sữa này như thế nào, chúng ta đều biết rõ. Mùng
3 tết năm 1955 BÁC nhận cây vú sữa, tự tay trồng gần bên nhà BÁC ở. Cây vú sữa Miền
Nam gắn bó với BÁC (Bài Nguyễn Bảo). Cây ăn trái thiêng liêng này là đề tài của bao nhiêu
văn, thơ, nhạc, hoạ và ảnh nghệ thuật. Người Cà Mau lần đầu tiên nhìn thấy bức ảnh BÁC
dưới tàn cây vú sữa là xúc động tràn nước mắt. Dầu năm 1963 Hội nghị Phụ nữ toàn Miền
Tây Nam bộ chuyền tay nhau xem ảnh BÁC với tất cả lòng trân trọng kính yêu và nhờ Ban
Tuyên huấn Tây Nam bộ in ra cho mỗi đại biểu một tấm (ảnh BÁC bên cây vú sữa) để mang
về cơ sở, mặc dù nguyên tắc bí mật, các chị ở thành thị không được mang tài liệu về...(chi
Nguyễn Thị Được kể). Qua hình ảnh thiêng liêng này, các tác giả thơ đã bày tỏ cảm xúc của
mình:


Con muốn được làm cây vú sữa
Để sớm trưa thường gặp Bác ra vào
Ngày bận việc, Bác khơng đến đó
Cây nhớ Người... cành lá xanh xao
(Rừng biển quê nhà)


Bóng cây che mát sàn nhà


Bóng vú sữa tự Miền nam thành đồng
(Ngậm ngùi)


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

diệu biết bao: cây vú sữa Miền Nam với bác Hồ và cây vú sữa bác Hồ với Miền nam gốc từ
Trí Phải - Cà Mau.



ĐỀN, PHỦ, NHÀ THỜ BÁC HỒ Ở CÀ MAU:


BIỂU TRƯNG TÌNH CẢM YÊU KÍNH LÃNH TỤ HỒ CHÍ MINH THẲM SÂU
ĐỘC ĐÁO CỦA ĐÀN CON CUỐI TRỜI TỔ QUỐC


Ở phần sau cuốn sách, bản thống kê của nhóm phóng viên sưu tầm, bước đầu xác lập
được 15 đơn vị. Nhưng theo báo cáo của Tỉnh ủy Cà Mau năm 1972 thì số đền, phủ thờ Chủ
Tịch HỒ CHÍ MINH sau ngày Người mất lên đến 20 đơn vị. Đó là chưa kể các hình thức thờ
cúng mang tính dân gian khác.


***


Trong 15 đơn vị thờ cúng BÁC HỒ – trừ nhà sàn BÁC HỒ xây trong Cơng viên văn
hố Thành phố Cà Mau theo mơ hình Nhà sàn của BÁC HỒ ở Hà Nội, là mới xây gần đây.
Còn lại 14 đơn vị đều xây cất trong chiến tranh ác liệt. Tám ngôi đền xây xong trong năm
1969 (năm BÁC mất). Xem bảng thống kê, chúng ta sẽ thấy ngôi đền Hậu Nà Chim, do ông
Ba Long, ông Hai Khá chỉ đạo và tham gia xây dựng với một bộ phận Tỉnh đội Cà Mau, chỉ
hơn một tuần sau BÁC mất là ngơi đền được hồn tất. Ngơi đền ở ngọn Ngã Quát cũng đồng
thời xây cất như ngôi đền ở Hậu Nà Chim.


Người đề xuất xây cất những ngôi đến thờ cúng BÁC phần lớn là các vị lão thành, các
má và các chị. Khi chúng tôi hỏi bà Nguyễn Thị Bái năm nay 89 tuổi, hiện sống với con trai ở
Vịnh Nước Sôi, xã Viên An: tại sao bà lại đề nghị làm đền thờ BÁC HỒ ? Bà vui vẻ trả lời:


- BÁC HỒ có cơng cứu nước, BÁC như cha mẹ mình. Khi Bác chết, mình làm con
cháu BÁC phải chăm lo thờ cúng BÁC như thờ cúng cha mẹ mình.


Cịn ơng Nguyễn Văn Dưỡng (Bảy Cóc) bộc lộ với chúng tơi:



-Mình thọ ơn BÁC HỒ lớn quá. BÁC qua đời, dù ở đâu, hồn cảnh nào, mình cũng
phải lo thờ cúng BÁC.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Vì đền thờ, phủ thờ rộng rãi, mát mẻ và thiêng liêng như vậy nên các đơn vị bộ đội như
Đoàn 692, cơ quan Tuyên huấn Khu, Phòng điện ảnh Tây nam bộ thường đến mượn điểm hội
họp, chiếu bóng, biểu diễn văn nghệ, học tập, phổ biến chủ trương, đường lối từ trên đưa
xuống.


Do nếp sinh hoạt quen thuộc của bà con Nam Bộ vùng Đất Mũi, khi các đơn vi du kích
xuất trận, đến bàn thờ BÁC đốt nhang, khi thắng trận về lại đốt nhang báo cáo tin vui cho
BÁC. ở những ngôi đền, tự nhiên thành trụ sở của các cơ quan, đơn vị vũ trang chiến đấu, nơi
hoạch định kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm.


Giặc rất lo sợ khu vực có đền, có phủ, có miếu thờ Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH. Chúng
cho oanh kích, pháo kích, biệt kích rất dữ dội và liên tục để hủy diệt các đơn vị thờ cúng này.
Do vậy quá trình xây dựng, bảo vệ đền thờ BÁC HỒ là quá trình chiến đấu quyết liệt với
địch: chúng phá, ta xây lại ngay. Chung quanh đền thờ là bãi lửa dày đặc chông lôi và trái gài.
Nam nữ thanh niên, các cháu thiếu nhi và các phụ lão đều tham gia vào du kích, dân quân tự
vệ, canh gác, cảnh giới và đánh địch bảo vệ đền. Chiến công của các đội du kích giữ đền Cái
Mú, Ơng Bọng, Bàu Hầm, Nhà Hội, Tân Tiến (Đầm chim), Thới Bình... đều rất oanh liệt. Có
đơn vị “tương kế tựu kế” dùng ghe tàu vào tận sào huyệt địch ở Mũi Gị Cơng diệt ác, ra khơi
đánh bọn Hải Thuyền, Giang Cảnh... Có thể nói quanh đền thờ BÁC là một quần thể chính trị,
qn sự, kinh tế, văn hố, xã hội và cao hơn tất cả : đó là tình u kính lãnh tụ... thành lẽ sống
và tình u Tổ quốc của người cà Mau. Khám phá cơng trình xây cất đền thờ là “lay động đến
một lĩnh vực thiêng liêng, hiếm thấy xảy ra trong lịch sử, tiềm ẩn tính nhân văn cao cả, làm
phong phú thêm “Dân tộc tính” của chúng ta.


Dù chưa phải là một cơng trình khoa học, kinh qua hội thảo và nghiên cứu, nhưng mặt
bằng tài liệu thu nhận được cho phép ta đánh dấu một Cà Mau xa xôi nơi BÁC ở, cách trở
trong giao lưu sinh hoạt nhiều mặt. Thế mà Cà Mau, Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cái Nước, Đầm


Dơi, Thới Bình... hình thành thái độ sống bằng tình u kính lãnh tụ.


Qua tình cảm thiêng liêng này Đảng bộ và quân dân Cà Mau đã vươn lên giành chiến
thắng trong hy sinh gian khổ, phải ăn trái Mắm và uống nước cất hàng một, hai năm trời. Thế
mà chiến công đánh tàu, diệt hạm đội nhỏ trên sơng đã hố dịng sơng Cửa Lớn – Tam Giang
thành sông “Bạch Đằng thời đại”. Nữ anh hùng Phạm Thị Bay cùng Đảng bộ và quân dân
tồn xã Tân Hưng Đơng xin phép BÁC HỒ dựng đền thờ BÁC trong 84 ngày, tiêu diệt giặc,
chiếm lĩnh thị trấn Cái Nước. Khánh thành phủ thờ BÁC 16 giờ ngày 25/4/1975, có 17.000
người dự. BÁC mất, nhân dân Cà Mau báo hiếu bằng “biến đau thương thành sức mạnh”, tạo
thêm thành tích và chiến công, thêm nhiều trang sử mới...


***


Bài 16


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

CHỐNG “BÌNH ĐỊNH” BẢO VỆ Q HƯƠNG


1-Âm mưu “bình định” của địch.


Sau khi thắng lợi tổng tấn công mùa xuân 1968 đã làm phá sản “Chiến tranh cục bộ”
của Mỹ ngụy, từ đó chúng đã chuyển sang “Việt Nam hố chiến tranh” nhằm tiếp tục thực
hiện âm mưu xâm lược ở Việt Nam.


Tại chiến trường Cà Mau địch tăng cường mở nhiều chiến dịch đi càn quét đánh sâu
vào vùng giải phóng –căn cứ của ta, nhất là ở khu vực U Minh, nhằm thực hiện kế hoạch
“Bình định” của chúng trong tỉnh Cà Mau.


Vào tháng 11/1968, chúng đưa Lữ đoàn A thủy quân lục chiến phối hợp với lực lượng
đặc nhiệm Hải quân Hoa kỳ chiếm lại Năm Căn và đưa 50 tàu (có ba tiểu pháo hạm) mở chiến
dịch Sóng Thần đánh phá ác liệt vào khu căn cứ rừng đước. Chúng đã sử dụng cả B52 (loại


máy bay tối tân chiến lược của Mỹ) ném bom xuống Kinh Năm, Kinh Ba huyện Duyên Hải
(Ngọc Hiển bây giờ) và tiếp tục rải chất độc hoá học diệt màu xanh trên 50 % rừng đước;
đồng thời có những tháng chúng đi càn trên 20 cuộc càn lớn nhỏ, có nghĩa là cường độ đánh
phá rất cao chưa từng có từ trước đến lúc đó. Đặc biệt chúng bao vây và chặn các ngã không
cho gạo xuống rừng đước làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Có nơi bà con
khơng có gạo phải nấu trái mắm ăn thay cơm, cất nước mặn để uống...


Ở khu vực rừng U Minh, đầu năm 1969 địch tiếp tục tăng cường “Bình định U Minh”,
chúng đưa xuống sư đoàn chủ lực 21 và lực lượng biệt động quân, thủy quân lục chiến, bảo an
cùng với các hoả lực (Hải quân, không quân...) Mở nhiều chiến dịch mang tên “Cửu Long”,
“Trần Hưng Đạo” đánh vào huyện Mười cư (nay là huyện Thới Bình”, Mười tế (nay là huyện
Trần Văn Thời, U Minh”. Chúng đã huy động hai sư đoàn ( sư 9 và sư 21) và 25 Đồn “Bình
định”, 1.200 bọn gián điệp và các loại máy bay kể cả máy báy B52 bỏ nhiều đợt và pháo 250
ly từ Hạm đội 7 của Mỹ từ ngồi biển bắn vào... Đồng thời chúng cịn tổ chức nhiều cuộc cán
quét chà đi sát lại ở khu vục giải phóng của ta. Chúng càn đi đến đ1âu thì gom dân ra “ấp
chiến lược” đến đó, để nhằm mục đích tách dân ra khỏi Đảng.


2- Kiên cường bám trụ đánh “Bình định” của quân dân Cà Mau.


Để chống lại âm mưu thủ đoạn của địch, Tỉnh ủy chủ trương: “...gấp rút củng cố lực
lượng từ trên xuống dưới, tập trung xây dựng cơ sở, bám trụ địa bàn, ra sức phát động phong
trào nhân dân du kích chiến tranh, xây dựng xã, ấp chiến đấu kết hợp ba mũi giáp cơng để
chống “Bình định” lấn chiếm của địch, bẻ gãy từng mũi tấn công, đẩy lùi từng bước và giành
lại từng người dân với địch... Nghị quyết còn nhấn mạnh: “Khẩn trương xây dựng lực lượng
về mọi mặt (đông về số mạnh về chất). Chú ý phát triển lực lượng ba mũi tại cơ sở, xây dựng
chi bộ, chi đoàn 4 tốt...”


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Ở khu vực rừng đước, lực lượng ta đã bẻ gãy chiến thuật “Hạm đội nhỏ trên sơng” đã
bắn chìm hàng trăm tàu sắt của địch trên sông Tam giang, Kinh Mười Bảy và sông Bảy
Háp...Có những ngày ta bắn chìm ba, bốn chiếc. Các đội du kích đánh tàu của các xã ngày


được phát triển và lập nhiều chiến công xuất sắc.


Để ngăn chặn địch đi càn vào vùng giải phóng, chủ trương của ta là đánh vào thị xã -
tỉnh lỵ của địch. Vì thế vào tháng 3/1968, lực lượng nội thành đã lợi dụng địch tập trung đón
đồn “Bình định” xuống Cà Mau ở tại Hội trường thơng tin (nay là Nhà văn hóa trung tâm)
dùng trái nổ đánh tiêu diệt trên 50 tên Mỹ, ngụy; tiếp theo ta đánh vào bót Lị heo (phường 1)
và một số cứ điểm quan trọng trong thị xã như trận đánh vào Ty cảnh sát giữa ban ngày của
đồng chí Hồ Thị Kỷ (3/4/1970).


Tiếp tục tấn công địch, đêm ngày 01/3/1970 ta đánh đồn Xẻo Đá diệt và bị thương 70
tên địch. Tiếp theo trên tuyến sông Trẹm năm 1970 ta đánh 5 trận, làm chìm và cháy 16 tàu,
diệt 221 tên. Nếu tính cả năm 1970, ta chống “Bình định” đã diệt hàng ngàn tên, trong đó diệt
gọn một tiểu đồn, 21 đại đội, 01 Ban chỉ huy liên đội bảo an, 3 đồn bình định, đánh thiệt hại
nặng 9 tiểu đồn, 30 đại đội, 02 ban chỉ huy trung đoàn chủ lực và diệt 01 chi khu, 15 đồn. Ta
bắn rơi 137 máy bay, hỏng 107 chiếc, phá hủy 25 khẩu pháo, thu 687 súng các loại.


Tháng 4/1972, lực lượng ta tiếp tục đánh vào cứ điểm chủ lực đóng ở Nổng Cạn, xã
Khánh Lâm, pháo kích đồn sơng Ông Đốc, đồn Rạch Cui, đồn Rạch Làng, đồn Ông Tự... Nếu
tính trong năm 1971, ta đánh chìm 112 tàu và xuồng máy quân sự, trong đó có hai tiểu pháo
hạm (dài 128 m), ta diệt hàng trăm tên, thu nhiều quân trang quân dụng. Đặc biệt là phong
trào chiến tranh nhân dân ngày được phát triển và đánh địch bằng ba mũi giáp cơng (qn sự,
chính trị và binh vận).


Chấp hành đồng loạt tấn cơng tồn miền, xuân hè 1972 quân dân Cà Mau đã tiến hành
bao vây và bứt rút hàng loạt đồn bót, trên các tuyến quan trọng đều bị ta tấn công. Ngày
10/6/1972 ta đánh tiêu diệt chi khu Thới Bình, là chi khu được kiên cố từ lâu, ta diệt trên 300
tên địch, phá hủy 02 khẩu pháo 105 ly. Nếu tính cả năm 1972, quân và dân trong tỉnh đã diệt
15.672 tên trong đó có 13 tên Mỹ, bắn rơi và làm bị hư 38 máy bay, bắn chìm và cháy 97 tàu,
24 xe quân sự, bức rút hàng trăm đồn bót, giải phóng 283 ấp, trong đó có 06 xã giải phóng
hồn tồn, 15 xã giải phóng cơ bản. Vùng giải phóng được xây dựng và phát triển, các đoàn


thể thi đua sản xuất, tích cực đóng góp người và của cho kháng chiến.


3-Ý nghĩa:


-Sau năm 1968, địch tăng cường “Bình định” ác liệt ở tỉnh Cà Mau, chúng tăng cường
cả hoả lực (không quân, hải quân, bộ binh) đánh sâu vào vùng hậu cứ làm ta gặp nhiều khó
khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân Cà Mau đã vượt qua những khó khăn thử thách từng bước
xây dựng thực lực cách mạng, khôi phục lại phong trào đã tiến lên đánh địch mở rộng vùng
giải phóng.


-Phát huy được phong trào chiến tranh nhân dân đều khắp trong tỉnh, đặc biệt là kết hợp
được 3 mũi tấn công (quân sự, chính trị, binh vận). Từ đó cổ vũ được phong trào chiến đấu,
đánh địch trên chiến trường Cà Mau.


-Làm thất bại kế hoạch “Bình định” của địch trên chiến trường Cà Mau và mở rộng
vùng giải phóng, tăng cường xây dựng thực lực cách mạng cho phong trào của tỉnh ngày càng
được phát triển và tiến lên giải phóng quê hương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

1-Nêu những âm mưu của địch ở tỉnh Cà Mau ?


2-Em hãy kể những trận tiêu biểu đánh “Bình định” của quân dân Cà Mau ?


3-Trình bày ý nghĩa của quân dân Cà Mau trong đấu tranh chống hành động của Mỹ
nguỵ ?


(Bản đồ : Diễn biến cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968)


Bài 17


NHÂN DÂN CÀ MAU ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ NGỤY


(1969 – 1973)


1-Đặc điểm tình hình.


Thắng lợi của cuộc tổng tiến cơng và nổi dậy muà xuân 1968 đã làm phá sản chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, ngụy, buộc chúng phải điều chỉnh chiến lược và đưa ra cái gọi
là “Việt Nam hoá chiến tranh” ở Miền Nam.


Để thực hiện chiến lược mới này, trên chiến trường Cà Mau, địch tập trung quân và hoả
lực đẩy mạnh “Bình định”. Đầu năm 1969 Lữ đoàn “A” thủy quân lục chiến phối hợp lực
lượng đặc nhiệm hải quân Mỹ (CTF 115) tấn công chiếm lại Năm Căn, một cứ điểm hải quân
khống chế vùng biển phía tây Nam và khu vực rừng đước. Đồng thời chúng tập trung ở đây 2
sư đoàn chủ lực (sư đoàn 21 và sư đoàn 9) cùng với các binh chủng kỹ thuật pháo binh, thiết
giáp... của “Vùng 4 chiến thuật” 25 đoàn bình định, 1.700 tên tề điệp để phối hợp với lực
lượng ngụy quân ngụy quyền trong tỉnh tăng cường càn quét vùng này. Số quân của địch
trong toàn tỉnh đã lên đến 13.358 tên và hàng trăm cố vấn Mỹ. Ngoài ra chúng phối hợp nhiều
giang đoàn dùng hoả lực không quân kể cả máy bay chiến lược B52 và pháo 250 ly của Hạm
đội 7 từ ngoài biển bắn vào.


Với một lực lượng áp đảo, địch mở nhiều chiến dịch quân sự qui mô lớn mà chúng gọi
là “Nhổ cỏ U Minh” ; “Sóng thần” ( hạm đội nhỏ trên sông)... nhiều lần tấn công, chà đi sát
lại vùng căn cứ kháng chiến của ta. Trong 2 năm (1969 – 1970) địch đã mở 4.487 cuộc càn
quyét nhỏ, sử dụng hơn 5.000 lượt máy bay (kể cả máy bay B52) ném bom rãi thảm và rải
chất độc hoá học xuống vùng dân cư, vùng căn cứ cách mạng. Đồng thời chúng còn tăng
cường chiến tranh tâm lý để mỵ dân, chia rẽ nội bộ, kiểm sốt gắt gao vùng giải phóng. Theo
tài liệu bình định của địch ở tiểu khu Cà Mau và Bạc Liêu cuối năm 1970 địch đã đóng hơn
400 đồn, lập 336 ấp Tân Sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

bị tàn phá, 3.000 đồng bào ta bị ngộ độc. Bình quân mỗi người dân huyện Duyên Hải (Ngọc
Hiển) phải đội 13 trái bom, ở xã Khánh Lâm (U Minh) gầm 700 kg bom đạn trên đầu người.


Đặc biệt nghiêm trọng là sau tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 vùng giải phóng bị mất rất
nhiều, từ 18 xã và một huyện hồn tồi giải phóng nay chỉ cịn 3 xã giải phóng khơng hồn
tồn ; 156 Chi bộ ấp mất chỗ đứng chân không hoạt động được, 13 xã ủy phải dời sang xã
khác, hàng trăm cán bộ Đảng viên có cả cấp ủy huyện, tỉnh hy sinh. Lực lượng vũ trang tỉnh
cịn khơng q 100 chiến sĩ, bộ đội địa phương, huyện chỉ còn 15 đến 20 chiến sĩ ; du kích ấp,
xã hầu như tan rã.


2-Chủ trương và biện pháp đối phó của ta:


Thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ Tịch ngày 20/7/1969: “Toàn quân, toàn
dân cả nước quyết tâm đánh cho đế quốc Mỹ cút khỏi Miền Nam Việt Nam và quân Nguỵ sụp
đổ hoàn toàn” ; Nghị quyết của Trung ương cục và chỉ thị số 54 của Thường vụ khu ủy: “Bất
cứ giá nào cũng phải bẻ gãy kế hoạch bình định U Minh của địch” ; với phương châm: “Đảng
bám dân, dân bám đất, bộ đội bám giặc”, “Một tấc không đi, một ly không dời”... Hội nghị
Tỉnh ủy mở rộng tháng 9/1969 đề ra nhiệm vụ: “Củng cố lại lực lượng cách mạng, nhất là ba
thứ quân, tổ chức học tập chỉnh huấn cho cán bộ nhất là Đảng viên cấp ủy” để quyết tâm đánh
bại một bước kế hoạch “Bình định” của địch.


Nhờ vậy, trong ác liệt của chiến tranh Đảng bộ vẫn kiên cường bám dân, lãnh đạo quần
chúng nổi dậy phá kềm, diệt ác như ở Phú Mỹ, Phú Hưng (Cái Nước), nhiều ấp thuộc huyện
Ngọc Hiển, Thới Bình. Trong đau thương mất lớn của dân tộc, khi nghe tin Bác mất, Cà Mau
cùng cả nước tổ chức lễ tang Hồ Chủ Tịch, xây dựng đền thờ Bác ở Tân Ân, Đất Mũi... Biến
đau thương thành hành động, chỉ trong 3 tháng của năm 1970 ta đã bắn chìm và bắn cháy 240
tàu chiến các loại, diệt 2.900 tên trong đó có hàng trăm tên Mỹ.


Với phương châm vừa chiến đấu vừa xây dựng, đến năm 1971 lực lượng vũ trang của
tỉnh đã có một tiểu đồn bộ binh, hai đại đội độc lập, mỗi huyện có một đại đội, mỗi xã có
hơn một trung đội, các cấp đều có lực lượng du kích. Đặc biệt tỉnh được đón nhận trung đồn
“Sơng Hương” vượt hàng ngàn cây số mang theo tất cả tình cản thân thương của đồng bào
Miền bắc chi viện cho Bạc Liêu và Cà Mau. Nhờ có lực lượng mạnh, ta đã liên tục tấn cơng


tiêu diệt hàng loạt đồn bót, phá vỡ hàng mảng hệ thống kềm kẹp của địch trên tuyến sơng Ơng
Đốc, Kinh xáng Thọ Mai, Vàm Đình, chi khu Giá Ngựa, Cái Nước... Đặc biệt là trận đánh
mìn giữa ban ngày ở nội ơ Cà Mau của nữ biệt động Hồ Thị kỷ, diệt nhiều tên cảnh sát, bẻ
gãy cuộc hành quân của chúng.


Tính đến tháng 8/1971 ta đã loại khỏi vịng chiến đấu 6.591 tên địch (trong đó có 3.000
tên bị tiêu diệt, 91 tên bị bắt sống), diệt 14 đồn, 9 lơ cốt, trong đó có chi khu ta đánh thiệt hại
nặng; đánh phá 4 cụm pháo, phá hỏng 25 khẩu, đánh chìm 112 tàu và xuồng quân sự; bắn rơi
và bắn hỏng hàng chục máy bay, thu 475 súng các loại.


Những tháng cuối năm 1971 ta tiếp tục tấn công diệt thêm 3.700 tên, diệt 7 đồn, thu 225
súng, giải phóng nhiều xã, ấp. Hàng vạn nhân dân trở về ruộng vườn cũ để sản xuất, xây dựng
xã, ấp chiến đấu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

Ngày 07/4/1972 quân dân Cà Mau mở màn tấn công đồng loạt trên khắp chiến trường,
bao vây gần 200 đồn bót, tiêu diệt và bức rút 46 đồn. Riêng quân dân huyện Trần Văn Thời đã
loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên, thu 100 súng, giải phóng 5 ấp, đưa 2.500 dân thốt khỏi ách
kềm kẹp trở về quê cũ. Trong 10 ngày cuối tháng 4, ta bức hàng thêm 64 đồn bót, loại khỏi
vòng chiến đấu 2.447 tên, thu 760 súng, giải phóng hồn tồn 3 xã: Tân thuận, Tân Tiến, Tân
Hưng, 90.000 dân thoát khỏi ách kềm kẹp của địch.


Ngày 10/6/1972 ta tiêu diệt Chi khu Thới Bình, một chi khu trọng yếu của địch. Đây là
căn cứ xuất phát các cuộc hành quân đánh phá tuyến sông Trẹm nhằm ngăn con đường vận
chuyển của ta từ các huyện phía Nam Cà Mau lên U Minh thượng. Lực lượng địch ở Chi khu
gồm 2 đại đội Bảo an, 1 đại đội công binh, 1 trung đội biệt kích thám báo, 1 trung đội pháo
binh. Ngồi ra cịn có lực lượng cảnh sát, tất cả hơn 400 tên. Ngồi hệ thống lơ cốt, ấp chiến
lược, kênh rạch, mạng lưới tề điệp để bảo vệ, phát hiện từ xa, Chi khu cịn có 2 trận địa pháo,
2 khẩu 105 ly và 155 ly yểm trợ. Sau 30 phút chiến đấu, ta làm chủ Chi khu đồng thời tiêu
diệt 2 tiểu đoàn dù từ Cà Mau xuống ứng cứu, diệt thêm 8 tàu, bắn bị thương 3 chiếc khác.
Chiến thắng Thới Bình là chiến thắng lớn nhất của quân dân Cà Mau trong cuộc tiến


cơng chiến lược năm 1972 làm nức lịng nhân dân trong tỉnh, đẩy địch vào sâu hơn thế hoang
mang dao động. Bên cạnh thắng lợi về quân sự, phong trào thi đua sản xuất, đóng góp để ni
qn cũng được đẩy mạnh. Phong trào toàn dân giết giặc, xây dựng xã ấp chiến đấu, các hoạt
động văn hố xã hội trong vùng giải phóng của qn dân tỉnh nhà lên một bước phát triển
mới.


Những thắng lợi đạt được của quân và dân Cà Mau góp phần cùng quân dân toàn Miền
Nam đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ- ngụy, buộc chúng phải ngồi
vào bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Pari năm 1973.


3-Cà Mau sau Hiệp định Pari 27/3/1973.


Đế quốc Mỹ trong thế thua, thế bại trận buộc phải ký kết Hiệp định Pari và rút hết quân
Mỹ, quân chư hầu ra khỏi Miền Nam. Tuy nhiên chúng vẫn chưa từ bỏ dã tâm chiếm đóng lâu
dài Miền Nam, biến Miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Để thực hiện âm
mưu này, những tháng cuối năm 1972, Mỹ ồ ạt viện trợ cho bọn ngụy quyền tay sai hàng tỷ
đô la, vũ khí đạn dược, phương tiện chiến tranh, khẩn trương củng cố và tăng cường quân
ngụy về tổ chức và trang bị để đối phó với cách mạng Miền Nam. Do đó, khi Hiệp định Pari
vừa ký kết, ngụy quyền Sài Gòn hò hét “Tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm vùng giải phóng của
ta, trắng trợn vi phạm Hiệp định.


Tại Cà Mau địch đưa tiểu Đoàn 76 lấn chiếm trái phép Thủ Tam Giang, huyện Duyên
hải. Các đồn bót, chi khu trong tỉnh đều bung ra đánh xỉa, lấn chiếm đất, giành dân với ta.
Đồng thời chúng đưa tiểu đoàn chủ lực của trung đoàn 32 thuộc sư đồn 21 càn qt, phản
kích, giải toả khu vực dọc theo tuyến sông Bảy Háp, sông Ông Đốc, sông Trẹm, Cái Tàu và
ven Thị xã Cà Mau. Chỉ riêng năm 1973, địch đã mở 5.000 cuộc hành quân cán quét từ cấp
đại đội đến cấp tiểu đoàn, cho 10.000 lượt máy bay oanh tạc và pháo binh bắn phá dã man vào
các vùng giải phóng, vùng tranh chấp; mở hàng ngàn cuộc hành quân cảnh sát bao ráp để bắt
lính và truy quét lực lượng ta ở nội – ngoại ô thị xã.



</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

cảnh sát, tề điệp kiểm soát các tuyến đường bộ, đường sông từ thị xã, thị trấn vào vùng giải
phóng nhằm ngăn chặn việc giao lưu hàng hố, đi lại gây khó khăn cho ta; chúng cịn đẩy
mạnh chiến tranh tâm lý, xuyên tạc nội dung Hiệp định hịng gây tư tưởng hoang mang, hồi
nghi trong quần chúng nhân dân.


Để kịp thời chống lại âm mưu phá hoại Hiệp định của kẻ thù, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị
tập huấn nội dung Hiệp định, quan điểm của Đảng cho các bộ các ngành và cơ sở trong tỉnh;
sau đó triển khai xuống các huyện, xã phát động quần chúng đấu tranh. Tỉnh còn mở các lớp
bồi dưỡng chính trị, đào tạo cán bộ cho cơ sở, chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp lại cấp ủy Đảng,
đưa cán bộ đảng viên có năng lực xuống giữ các vị trí quan trọng. Tổ chức học tập các chỉ thị
về công tác dân vận, binh vận, cơng tác vận động thanh niên tịng quân, xây dựng lực lượng
vũ trang.


Thực hiện Nghị quyết hội nghị khu ủy khu 9 họp ngày 30/02/1973 và Nghị quyết Trung
ương lần thứ I với tinh thần: bất kể trong tình huống nào con đường thắng lợi của cách mạng
Việt Nam cũng là con đường bạo lực, do đó phải mắm vững chiến lược tấn cơng, kiên quyết
đấu tranh trên 3 lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao nhằm tiến lên thực hành phản công để
giành toàn thắng...


Được sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chính quyền cách mạng, quân dân trong tỉnh đã kịp thời
sử dụng bạo lực cách mạng, chặn đứng âm mưu “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng, đánh bại các
cuộc hành quân lấn chiếm, giữ vững thế chủ động tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở
rộng vùng giải phóng. Năm 1973 ta đánh 2.578 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 7.000 tên địch,
thu 1.020 khẩu súng, phá 5 kho đạn của địch, bức rút, bức hàng 55 đồn bót, giải phóng nhiều
xã, ấp và đưa gần 70.000 dân về với ruộng vườn cũ. Đời sống nhân dân vùng giải phóng vẫn
ổn định, văn hoá, văn nghệ, y tế, xã hội tiếp tục phát triển.


Tháng 01/1974, lực lượng vũ trang của tỉnh kết hợp với quân du kích huyện Năm Căn
diệt 3 đồn, liên tiếp chặn đứng quân chủ lực ngụy đến chi viện, diệt gọn 4 đại đội, đánh thiệt
hại nặng 2 tiểu đồn khác, loại khỏi vịng chiến đấu 500 tên.



Tháng 03/1974 ta tấn cơng chi khu Bình Hưng, huyện Cái Nước, diệt 2 đồn, đẩy lùi các
đợt chuyển quân chi viện diệt trên 150 tên. Tiếp theo trong tháng 4 ta đánh địch ở đoạn lộ xe
giữa Rau Dưà, Cái Nước diệt 9 đồn, giải phóng hồn tồn 2 xã Hưng Mỹ, Phú Hưng và gần
hết xã Lương Thế Trân (ven thị xã Cà Mau), mở rộng vùng giải phóng trên chiều dài gần 30
km.


Từ tháng 06/1974 ta loại khỏi vòng chiến đấu 7.744 tên địch, tiêu diệt, bức rút, bức
hàng 37 đồn, thu 1.487 súng, bắn chìm, bắn cháy 19 tàu, bắn rơi 9 máy bay. Phong trào đấu
tranh vũ trang đã cổ vũ, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng. ở Thị xã Cà Mau hàng
vạn người đã tham gia các cuộc đấu tranh chống địch càn quét, gom dân bắt lính. Qua hàng
trăm cuộc đấu tranh ta đã buộc địch phải thả gần 300 người bị địch bắt và gần 1.000 thanh
niên bị bắt lính, giành lại 5.000 giạ lúa và các tài sản khác giá trị hàng chục triệu đồng.


Công tác binh vận làm tan rã hàng ngũ kẻ thù cũng đạt kết quả tốt. Trong năm 1974 ta
đã làm tan rã 3.915 binh sĩ. Số binh sĩ bỏ hàng ngũ địch về với cách mạng đã nộp 120 khẩu
súng các loại. Chính quyền của bọn tề xã, ấp bị tan rã gần hết. Cả tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau đã
có 49 xã hồn tồn giải phóng bao gồm 400 ấp và 31 vạn dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

chính trị cũng phát triển mạnh mẽ với 1 khí thế mới. Hàng chục ngàn lượt người xuống đường
tổ chức thành đội ngũ liên tiếp biểu tình, mít tinh, đấu tranh chống các luật lệ, chính sách phát
xít của địch. Hàng vạn quần chúng bung về bám ruộng vườn cũ. Trên 100.000 đồng bào đăng
ký thi đua góp sức người, sức của và tham gia phục vụ chiến đấu. Phong trào thu lượm vũ khí
địch đánh địch phát triển rộng rãi. Đầu năm 1975 du kích xã Lương Thế Trân đã dùng vũ khí
tự tạo bằng đầu đạn pháo lấy được của địch phá được thêm 4 đồn, giải phóng hồn toàn xã
nhà.


Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, với phương châm “chính trị, quân sự là hàng đầu, kinh tế
là cơ sở, văn hoá xã hội là quan trọng”, quân dân Cà Mau đã đề ra chỉ tiêu xây dựng về mọi
mặt, nhằm động viên cao nhất tiềm năng cách mạng của vùng giải phóng làm hậu phương


vững chắc cho tiền tuyến. Nông dân hăng hái sản xuất, năm 1974 đã huy động được gần 1
triệu giạ lúa và hàng trăm triệu bạc cho kháng chiến.


Các đơn vị xã huyện đã mở hơn 100 lớp bồi dưỡng cho đối tượng Đảng, kết nạp 1.500
đảng viên mới; phát triển thêm 3.000 đoàn viên và hơn 10.000 hội viên của các đoàn thể quần
chúng; động viên được 3.610 thanh niên gia nhập các lực lượng vũ trang. Giao thông liên tục
thông suốt, các đồng chí giao liên hoạt động suốt ngày đêm, vượt qua các vùng đang có chiến
sự, các đồn bót của địch đề chuyển hàng hố, vũ khí, cơng văn, chỉ thị kịp thời cho tiền tuyến.


Cả tỉnh bừng bừng một khí thế thi đua sản xuất, thi đua giết giặc lập công. Mọi điều
kiện đã sẵn sàng để cùng quân và dân Cà Mau bước vào trận quyết chiến chiến lược có tính
chất quyết định; cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 giải phóng hồn tồn
Miền Nam thống nhất đất nước.


Câu hỏi.


1-Nêu những nét lớn về tình hình và âm mưu của địch ở Cà Mau năm 1969 ?


2- Nêu những nét lớn về chủ trương và biện pháp của quân và dân Cà Mau để đánh
bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ- ngụy ?


3- Nêu những nét lớn về tình hình địch và ta ở Cà Mau những ngày trước khi có Hiệp
định Pari (27/1/1973) ?


4-Âm mưu và thủ đoạn của địch ở Cà Mau sau khi ký kết Hiệp định Pari (27/1/1973).
Ta đã đánh bại âm mưu đó như thế nào ? ý nghĩa của những thắng lợi đó ?


(Bản đồ Diễn biến chiến dịch Xuân Hè 1972).


Bài 18



</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

Căn cứ vào tình hình phát triển mạnh mẽ của cách mạng Miền Nam cuối năm 1974,
trên cơ sở phân tích sự suy yếu của Nguỵ quyền Sài Gòn; đánh giá lực lượng của ta; khả năng
can thiệp của Mỹ; Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ
chức một cuộc hội nghị mở rộng kéo dài từ 18/12/1974 đến ngày 08/01/1975 hạ quyết tâm
hồn thành giải phóng Miền Nam trong hai năm 1975 – 1976. Hội nghị còn dự kiến một
phương án táo bạo là: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng
Miền Nam trong năm 1975.


Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị, đầu tháng 4 năm 1975 Tỉnh ủy Cà
Mau tổ chức hội nghị nhằm kiểm tra thực lực và bàn kế hoạch thực hiện Nghị quyết 15 của
Trung ương Cục “tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã” và chủ
trương :“ khẩn trương chuẩn bị cho địn quyết định, vừa đẩy mạnh tiến cơng và nổi dây theo
phương châm kết hợp nổi dậy với tiến công”.


1-Diễn biến cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng tỉnh Cà
Mau:


Tỉnh lỵ Cà Mau là trung tâm đầu não của Mỹ – nguỵ ở tỉnh Cà Mau ; nơi tập trung
mạnh nhất tiềm lực chính trị và quân sự của chúng. Để cuộc tổng tiến công giành được thắng
lợi, tỉnh ủy Cà Mau họp và bố trí phân cơng từng mũi tiến cơng cụ thể vào thị xã.


-Phía Bắc: do các đồng chí Ba Báo, Huỳnh My, Tư Tấn chỉ huy. Lực lượng sử dụng là
các tiểu đoàn 2,4 và 13.


-Phía Đơng: do đồng chí Trần Thanh Liêm tỉnh đội phó và một số cán bộ tham mưu, trợ
lý chỉ huy. Lực lượng sử dụng là tiểu đoàn 3 và tiểu đồn 5.


-Phía Tây: do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và cùng một số trợ lý chỉ huy. Lực lượng sử dụng
là các tiểu đồn 7, 8 và 10.



-Phía Nam: do đồng chí Nguyễn Hồng Chi, Nguyễn Thanh cùng một số trợ lý cơ quan
tỉnh đội. Lực lượng là tiểu đoàn 9 và đại đội pháo 105.


-Lực lượng dự bị lấy tiểu đồn 13 huyện Thới Bình, các huyện lấy lực lượng tổng hợp
xã, ấp trong huyện để bao vây các quận lỵ, chi khu.


-Riêng tiểu đoàn 12 Châu Thành, đại đội công binh tỉnh, tấn công chi khu Tắc Vân và
các đồn bót ven trục lộ 4, nhằm mở cửa tiến thẳng vào thị xã Cà Mau.


Ngày 29/04/1975 được lệnh của Quân khu, cuộc tấn công vào thị xã bắt đầu.


Tiểu đoàn U Minh 3 tấn cơng tấn cơng vào phân Chi khu Hồ Thành kết hợp với quần
chúng nổi dậy. Sau 20 phút chiến đấu ta làm chủ Chi khu, cửa ngõ phía Đơng Nam tiến vào
thị xã Cà Mau được mở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Phía Đơng, tiểu đồn 8 và tiểu đồn 5 tấn công, tiêu diệt đồn Ao Kho. Như vậy tiếp
theo của ngõ phía đơng bắc thị xã Cà Mau được mở, lực lượng ta áp sát sân bay Cà Mau.


Ở phía nam ta tấn cơng tiêu diệt tồn bộ quân địch trên lộ xe Cà Mau – Cái Nước tiến
vào thị xã.


“ Trong khi các hướng tiến công của ta – trên thế áp đảo kẻ địch, giành hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác, hình thành thế trận bao vây, chuẩn bị tổng cơng kích vào thị xã, thì
trưa ngày 30/04/1975 Dương Văn Minh, Tổng thống nguỵ Sài gịn tun bố đầu hàng. Tình
hình chuyển biến tích cực, mau lẹ, kế hoạch tiến cơng phải thay đổi. Lúc này, bọn ngụy quân,
ngụy quyền ở Cà Mau phân hoá dữ dội, số lớn hầu như tê liệt, chỉ cịn một số ít sĩ quan chỉ
huy làm bộ hung hăng quyết chiến tử thủ. Ta dùng máy thông tin vô tuyến kêu gọi tên đại tá
tỉnh trưởng Nhan Nhật Chương phải đầu hàng và yêu cầu hắn ra lệnh cho các Chi khu cịn lại
nộp vũ khí. Tên Chương ngoan cố chần chờ xin đến sáng hôm sau sẽ thực hiện. Không chờ


đến sáng, ban chỉ huy tiền phương ra lệnh cho các mũi từ 4 hướng tiến công vào thị xã. Đêm
30 / 4 tên Chương chuồn lên chiếc máy bay L19 trốn thoát.


5 giờ sáng ngày 01/5/1975 các mũi tiến công vào nội ô thị xã đánh chiếm từng mục tiêu
theo phương án tác chiến đã hoạch định. Cùng với các mũi tiến công của ta, phong trào nổi
dậy của quần chúng giành quyền làm chủ cũng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, đẩy địch tiếp
tục lấn sâu vào thế lúng túng, bị động, buộc chúng phải buông súng đần hàng ở từng khu vực.


Ở phía bắc thị xã, 3 tiểu đồn là tiểu đồn 2, 4, 13; đến 7 giờ sáng (01/5/1975) đã chiếm
xong khu vực Khám lớn, giải thốt tù chính trị, phát triển sang Ty đặc biệt, Tòa hành chánh,
Ty nhân dân tự vệ, bãi để xe, trung tâm tuyển mộ, Ty ngân khố và truy lùng bọn tàn quân
ngoan cố trong phạm vi địa bàn phụ trách.


Ở phía tây, tiểu đoàn 7 đúng 7 giờ đã chiếm lĩnh trại Cao Thắng, phát triển sang trại
Phạm Ngũ Lão. Đồng thời đưa ra một đại đội tiến thẳng hướng Cầu số 1. Cùng lúc tiểu đoàn
8 tiến vào giải tán cơ quan Hội đồng xã Tân Xuyên và tiến thẳng vào nội ơ. Tiểu đồn 10
chiếm hậu cứ thám sát, hậu cứ tiểu đoàn Bảo an 446 phát triển qua Ty cảnh sát.


Phía Đơng, tiểu đồn 3, tiểu đồn 5 chia thành 2 mũi, một mũi tiến cơng vào sân bay
mới, hậu cứ trung đoàn 32, phát triển xuống tiểu khu và Tòa hành chánh, một mũi tiến thẳng
vào sân bay cũ, qua trận địa pháo và Tịa hành chánh.


Ở phía nam, 5 giờ sáng ngày 01/ 5 tiểu đoàn 9 đã chiếm xong căn cứ Hải quân, Ty
chiêu hồi và truy lùng những tên ngoan cố trốn tránh.


Quân địch ở các vị trí đều nộp vũ khí đầu hàng. Trước đó một số lớn mừng rỡ vứt bỏ
vũ khí, quần áo, giầy dép, bỏ nghề binh nghiệp trở về với đồng bào, trở về địa phương.


Cùng với các mũi tiến công quân sự, cơng tác chính trị, binh vận, phát động phong trào
nổi dậy của nhân dân vùng lên tự giải phóng cũng được đẩy mạnh; hàng chục ngàn người có


vũ trang tự vệ, từ các nơi kéo vào thị xã, biểu dương lực lượng cùng với lực lượng tổng hợp
tại chỗ ở nội ô làm áp lực buộc địch phải đầu hàng giao tồn bộ chính quyền cho cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

Chính quyền quân quản do đồng chí Tống kỳ Hiệp là chủ tịch được thành lập. Ngay
trong ngày 01/5/1975 toàn bộ quân địch ở các Chi khu, quận lỵ cịn lại đều bng súng đầu
hàng.


Cùng với quân và dân toàn Miền Nam, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975 ở Cà Mau đã giành thắng lợi trọn vẹn.


2- Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân năm 1975 ở Cà Mau:


Báo cáo chính trị của Đảng Cộng sản Việt nam tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV
nêu rõ : Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước “Mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có
tính thời đại sâu sắc”. Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 ở Cà
Mau là một bộ phận, một phần trong thắng lợi vĩ đại chung đó của dân tộc.


Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dây mùa xuân năm 1975 ở Cà Mau là thắng
lợi lớn nhất, vĩ đại nhất của quân và dân Cà Mau trong cuộc chiến tranh yêu nước, chiến tranh
giải phóng dân tộc và bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ tổ quốc của nhân dân Cà Mau. Với thắng lợi
này đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc – Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 của quân
và dân Cà Mau.


Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 ở Cà Mau chứng tỏ
ách thống trị của thực dân, phong kiến, đế quốc đã bị quét sạch khỏi mảnh đất cuối cùng của


Tổ quốc. Đất nước từ nay đã thống nhất, non sông thu về một mối, Việt Nam là biểu tượng
của sự thống nhất từ mục Nam quan đến mũi Cà Mau.


Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 ở Cà Mau mở ra một
kỷ nguyên mới, một bước ngoặt lịch sử đối với Đảng bộ, toàn quân và dân tỉnh Cà Mau. Kỷ
nguyên cùng cả nước bảo vệ nền độc lập dân tộc thống nhất đất nước và vững bước đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Với mục tiêu xây dựng Cà Mau, tỉnh mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh.


Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Cà Mau mùa xuân năm
1975 do những nguyên nhân sau:


-Trước hết, là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập,
tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự vận dụng sáng tạo đường lối
đó của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh - đáp ứng yêu cầu địi hỏi của thực tiễn – Vì vậy,
đã huy động được sức mạnh tổng hợp của quân và dân Cà Mau. Hay nói cách khác là vai trị
quan trọng trong lãnh chỉ đạo và tổ chức thực hiện của tỉnh Đảng bộ, cấp ủy, chính quyền các
cấp tỉnh Cà Mau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

-Thắng lợi ấy còn do sự cổ vũ, phối hợp giúp đỡ của nhân dân các tỉnh Miền Tây Nam
Bộ, của cách mạng toàn Miền Nam, của nhân dân cả nước trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù
chung là đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội, vì “lương tâm và phẩm giá con người”.


Câu hỏi:


1-Nêu những nét lớn về diễn biến cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 ở
Cà Mau ?


2-Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa


xuân năm 1975 ở Cà Mau ?


(Bản đồ diễn biến chiến dịch mùa khô 1974 – 1975 ).
CHƯƠNG V


CÀ MAU TRONG THỜI KỲ SAU GIẢI PHÓNG ĐẾN NĂM 2000
Bài 19


CÀ MAU NHỮNG NĂM ĐẦU GIẢI PHÓNG


Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đem lại niềm tự hào vinh
quang cho dân tộc. Đất nước đã thống nhất, non sông thu về một mối, từ dây cách mạng Việt
nam chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn cả nước tiến lên CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.


Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Cà mau bắt tay vào việc hàn gắn vết thương
chiến tranh, xóa bỏ, cải tạo những tàn dư của chế độ cũ, khôi phục kinh tế, phấn đấu phát triển
về mọi mặt để đưa tỉnh nhà cùng cả nước vững bước tiến lên CNXH. Thuận lợi là cơ bản,
xong nhân dân Cà Mau cũng đứng trước những khó khăn thử thách rất nặng nề.


1-Cà Mau trước những khó khăn, thử thách sau giải phóng:


Trước hết, phải chuyển từ bộ máy quản lý, phục vụ, chỉ đạo chiến tranh mang sang
quản lý kinh tế, xã hội trong điều kiện thiếu cán bộ, thiếu kinh nghiệm thực tế; vừa cải tạo xây
dựng CNXH; vừa hàn gắn vết thương chiến tranh; vừa xóa bỏ cái lạc hậu tàn dư của chế độ cũ
để lại; vừa xây dựng CNXH từ gốc đến ngọn, từ cơ sở kinh tế đến nếp nghĩ, lối sống, phong
cách làm việc đến tâm hồn con người. Vừa xây dựng vừa phải đối phó với âm mưu phá hoại
nhiều mặt của kẻ thù.


+Về kinh tế: Cà Mau là căn cứ địa cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến chống thực


dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Vì vậy, Cà Mau bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Thế mạnh
của kinh tế Cà Mau là lâm nghiệp và đánh bắt, chế biến hải sản thì chưa được khai thác và
cũng chưa có đủ điều kiện để khai thác. Nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu thì sản xuất độc
canh, đất đai chưa được cải tạo, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, mỗi năm chỉ sản xuất
một vụ. Cải tạo nền kinh tế nông nghiệp tỉnh nhà theo hướng sản xuất XHCN là một vấn đề
hết sức khó khăn, phức tạp. Trong khi đó, Cà Mau khơng có một nền công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp khá để làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Kinh tế thương mại – dịch
vụ thì nhỏ bé, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của cuộc sống hằng ngày.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

của “Mỹ – Nguỵ”; Chiến tranh ác liệt liên miên cho nên nhân dân khơng có điều kiện học
hành.


Tồn tỉnh mới chỉ có 2 trường cấp 3 cịn lại chủ yếu là trường Tiểu học. Hệ thống
trường lớp chỉ tập trung ở hai thị xã Cà Mau – Bạc Liêu và dọc theo quốc lộ 1A. Nạn thất học
mù chử là một tồn tại to lớn một yêu cầu bức xúc cần phải giải quyết đối với chính quyền
cách mạng.


Phát triển kinh tế gắn liền với việc nâng cao trình độ dân trí. Xây dựng mạng lưới
trường lớp để phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế, đội ngũ CBQL, giáo viên hầu như
khơng có là một thử thách không nhỏ đối với tỉnh nhà.


+Về an ninh chính trị: Hệ thống chính quyền của Mỹ – Nguỵ đã sụp đổ nhưng hậu quả
của nó để lại còn rất nặng nề. Số lượng nguỵ quân, nguỵ quyền ở Cà Mau rất lớn. Chưa kể
đến số trốn tránh cải tạo, trốn tránh sự trừng trị của chính quyền cách mạng ở các nơi khác
chạy về, số phản động tạm thời nằm yên chờ thời cơ nổi dậy, gây khó khăn rất lớn cho chính
quyền cách mạng.


Năm 1976, tỉnh Cà Mau kết hợp với Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải. Với địa hình phức
tạp, ba mặt giáp biển, bờ biển dài, nội địa sông ngịi chằng chịt, dân cư phân tán, giao thơng đi
lại khó khăn... lợi dụng điều này các thế lực phản động ở nước ngoài cấu kết với thế lực phản


cách mạng ở trong nước, đẩy mạnh hoạt động chống phá, tổ chức đưa người vượt biên, nhập
biên, âm mưu gây bạo loạn, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng phục hồi chế độ cũ. Điều này
gây khó khăn cho việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của tỉnh, gây hoang
mang dao động cho một bộ phận ngụy quân, ngụy quyền đang có ý thức phấn đấu sửa chữa
những lỗi lầm và góp phần xây dựng q hương.


2-Nhiệm vụ của tồn Đảng, toàn quân và toàn dân Cà Mau:


Với việc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ, phát huy chủ nghĩa anh
hùng cách mạng tinh thần đoàn kết nhất trí bằng sự năng động sáng tạo của mình, nhân dân
Cà Mau xác định những nhiệm vụ cần phải thực hiện. Đó là nhanh chóng:


-Xác định và củng cố hệ thống chính trị.
-Cải tạo và xây dựng nền kinh tế XHCN.


-Phát triển GD – ĐT, xây dựng nền văn hóa mới con người mới XHCN.
-Giữ gìn cà củng cố an ninh quốc phịng.


Thực hiện cơng cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kể từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay. Nhờ vậy, đã nhanh chóng vượt qua mọi khó khăn giành
được nhiều kết quả tốt đẹp trong công cuộc xây dựng CNXH bảo đảm an ninh chính trị và
bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.


Câu hỏi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

2-Nêu những nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn quân, toàn dân của Cà Mau phải thực hiện
sau giải phóng ? Vì sao phải thực hiện những nhiệm vụ ấy Cà mau mới vượt qua được những
khó khăn, vững chắc tiến lên xây dựng CNXH ?



Bài 20


NHỮNG THÀNG TỰU CỦA TỈNH MINH HẢI (CÀ MAU – BẠC LIÊU) SAU 22
NĂM GIẢI PHÓNG (1975 – 1997)


1-Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị:


Đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng. Trong điều kiện từ chiến
tranh chuyển sang hồ bình; từ qn sự chuyển sang xây dựng, phát triển kinh tế; từ chiến
tranh cách mạng chuyển sang đấu tranh xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng... Yêu cầu
cấp bách là phải xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.


-Ngay sau ngày giải phóng, trong vùng giải phóng và căn cứ kháng chiến của ta trước
đây, hệ thống chính trị được củng cố, nhanh chóng chuyển sang thích ứng với vai trị chức
năng của tình hình mới.


-Tại các vùng mới giải phóng: Ta thực hiện tốt việc tiếp thu các cơ quan, công sở do
chế độ cũ để lại. Ban hành những chính sách nhằm củng cố chính quyền cách mạng, xóa bỏ
mọi tàn dư của chế độ phong kiến, thực dân.


Hệ thống chính trị (các cơ quan Đảng, chính quyền đồn thể, các tổ chức chính trị, xã
hội...) được thiết lập từ tỉnh đế cơ sở. Phát huy quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ, đại diện
qua mỗi lần bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, bầu cử Quốc hội, bầu người lãnh đạo cơ quan
Đảng, Nhà nước, quyền làm chủ và ý thức trách nhiệm công dân ngày càng được tăng cường,
củng cố (thể hiện các cuộc bầu cử đều đạt 97% trở lên số cử tri đi bầu). Các cơ quan Đảng,
chính quyền, đoàn thể... ngày càng thực hiện tốt chức năng của mình theo qui định của Hiến
pháp, pháp luật, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.



Các đoàn thể quần chúng đã góp phần tích cực trong việc củng cố khối đoàn kết toàn
dân. Động viên và tạo điều kiện cho nhân dân vượt qua những khó khăn trong sản xuất và đời
sống. Với tinh thần “Lấy dân làm gốc” vai trò của quần chúng được phát huy trên mọi lĩnh
vực. Nhờ vậy đã tạo được sức mạnh tổng hợp trong xây dựng CNXH, bảo đảm giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội của tỉnh nhà.


2-Cải tạo và xây dựng nền kinh tế XHCN:


Nông nghiệp là một thế mạnh kinh tế của tỉnh. Nông nghiệp cung cấp lương thực thực
phẩm cho đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh lương thực, là nguồn xuất khẩu quan trọng, tạo
nguồn vốn tích lũy để thực hiện cơng nghiệp hố.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

đã chủ động đề ra các chủ trương, biện pháp cụ thể đáp ứng yêu cầu sản xuất, mở rộng giao
lưu hàng hoá, hội nhập với kinh tế thị trường.


Công tác thủy lợi nội đồng giữ vai trị quan trọng trong phát triển nơng nghiệp . Hàng
chục km kinh mương được nạo vét; Kinh xáng Quản Lộ – Phụng hiệp được quy hoạch khai
thác; công tác tháo chua rửa mặn được đẩy mạnh cùng với việc áp dụng những tiến bộ của
KHKT vào sản xuất đã làm thay đổi tâm lý, tập quán cuả người nông dân Từ sản xuất một
vụ đã trở thành 2,3 vụ lúa một năm. Cơ cấu mùa vụ sản xuất nông nghiệp chuyển đổi khá
nhanh. Diện tích cây nơng nghiệp trong tỉnh từ chỗ chỉ chiếm 1% đã tăng lên 10%. Cơ cấu
trồng trọt và chăn nuôi chiếm 16% năm 1976 nay đã tăng lên đến 30%. Lương thực từ chỗ
thiếu ăn đã dần dần đủ ăn, có tích lũy và xuất khẩu.


-Rừng trong một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá, sau giải phóng lại bị khai thác bừa
bãi nhất là nạn chặt phá cây rừng để nuôi tôm, để hầm than đước, cộng với nạn cháy rừng
xảy ra liên tục trong các mùa khơ làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp đáng kể.
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương giao đất giao rừng cho huyện, Hợp tác xã và nhân
dân quản lý đã hạn chế được nạn khai thác bừa bãi, phịng chống có hiệu quản nạn cháy rừng.
Cơng tác trồng, bảo vệ rừng có chuyển biến tích cực góp phần làm tăng vốn rừng, khai thác


hiệu quả tài nguyên rừng, đất rừng. Đã trồng mới, khoanh nuôi tái sinh gần 20 ngàn ha rừng,
tăng độ che phủ từ 42% năm 1996 lên 53% năm 2000. Môi trường sinh thái nhiều khu vực
đang được hồi phục . Tình trạng cháy rừng, chặt phá cây rừng giảm rõ rệt, cơ cấu kinh tế
nông- lâm nghiệp của tỉnh đến năm 2000 đã chiếm tỷ trọng 56%.


-Kinh tế thủy sản tăng trưởng nhanh, từng bước phát huy vai trò ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh. Hoạt động theo hướng hạch toánh kinh doanh, từng bước đổi mới cơ chế quản
lý, cải tiến kỹ thuật đánh bắt, mở ra hợp tác liên doanh kết với các tỉnh bạn, với các công ty
của nước ngồi. Diện tích đánh bắt ni trồng ngày càng tăng. Dịch vụ thủy sản được đầu tư
đồng bộ với sản xuất như xây dựng nhà máy đông lạnh, cơ sở cung ứng nhiên liệu, nước đá,
phát triển trên 300 trại sản xuất tôm giống, xây dựng cảng cá... Công tác bảo vệ nguồn lợi
thủy sản được quan tâm. Giá trị sản lượng ngành thủy sản tăng nhanh bình quân 9,5%. Giá trị
chế biến xuất khẩu năm 2000 đạt gần 200 triệu USD.


-Giao thông vận tải, thông tin liên lạc được chú trọng. Hệ thống đường bộ, đường thủy
được quy hoạch , trùng tu nâng cấp, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Từng
bước lắp đặt tổng đài tự động đến các huyện và một số xã, thị trấn.


-Lưới diện quốc gia năm 1997 đã kéo về 7/7 huyện, thành phố. Một số ngành công
nghiệp quốc doanh đạt giá trị sản phẩm cao. Năm 1997 tôm đông lạnh đạt 5.700 tấn, muối i ốt
1.300 tấn, nước máy đô thị 2.000 m3/ ngày... Tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 479.744
triệu đồng/ ngày.


3-Phát triển giáo dục - đào tạo, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN.
Phát huy truyền thống giáo dục trong kháng chiến và tính ưu việt của chế độ mới, sau
ngày giải phóng các chiến dịch “ánh sáng văn hoá hè” được phát động nhằm nhanh chóng xố
bỏ tình trạng thất học và nạn mù chữ trong nhân dân. Năm 1976 tỉnh Minh Hải đã thanh toán
xong nạn mù chữ (tương đương lớp 1) và là một trong những tỉnh sớm nhất ở khu vực Đồng
bằng sơng Cửu long hồn thành cơng tác này.



</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

Cà Mau đã có 379 trường học, bao gồm: 234 trường tiểu học, 86 trường THCS, 17 trường
PTTH, 42 trường mẫu giáo, 7 trung tâm GDTX. Với tổng số 11.261 cán bộ, giáo viên và
287.088 học sinh. Mạng lưới trường lớp đã vươn tới tận xóm ấp xa xơi nhất của tỉnh, đáp ứng
cơ bản nhu cầu học tập của con em nhân dân. Hệ thống các trường cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, các trung tâm GDTX được xây dựng và hoạt động có hiệu quả
trong việc đào tạo cán bộ, đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế –văn hoá - xã hội của địa phương.


+Cơng tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, mạng lưới y tế cơ sở
được xây dựng, củng cố. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có cơng với nước được đẩy
mạnh; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển đúng hướng, đổi mới về
nội dung, hình thức và chất lượng nghệ thuật... Góp phần đẩy lùi từng bước văn hoá lạc hậu,
đồi trụy, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiều cá nhân và tập thể
điển hình tiên tiến xuất hiện là nhân tố quan trọng để xây dựng nền văn hoá mới, con người
mới XHCN.


4-Giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo an tồn xã hội , củng cố quốc phòng.


Thành quả nổi bật trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội của quân và
dân trong tỉnh là xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân và phong trào toàn dân tham
gia bảo vệ an ninh tổ quốc. Nhờ vậy, ngay sau giải phóng, trật tự an tồn xã hội của tỉnh đã
được thiết lập, trấn áp kịp thời, có hiệu quả các tổ chức phản cách mạng, các tổ chức tội
phạm, phá vỡ âm mưu đưa người nhập biên trái phép. Góp phần cùng cả nước đánh bại hai
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; góp phần giúp bạn Campuchia
thanh tốn nạn diệt chủng, làm trịn nghĩa vụ quốc tế.


Những thành quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế –văn hoá - xã hội , an ninh quốc
phòng của nhân dân Minh Hải từ 1975 đến 1997) là hết sức to lớn, hết sức quan trọng. Điều
ấy chứng tỏ:



-Ý chí kiên cường, tinh thần quyết tâm vượt khó của nhân dân tỉnh nhà trong cơng cuộc
xây dựng chế độ xã hội mới.


-Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là Tỉnh ủy, UBND
tỉnh, của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp.


-Những kết quả đạt được đã đặt nền móng vững chắc để Minh Hải vững bước tiến lên
xây dựng CNXH, trong cơng cuộc đổi mới tồn diện do Đảng cộng sản Việt Nam khởi
xướng, lãnh đạo, tổ chức; vì mục tiêu “Dân giàu –nước mạnh- xã hội công bằng – dân chủ –
văn minh” .


Câu hỏi:


1-Nêu tóm tắt những kết quả nổi bật trong công cuộc xây dựng CNXH của Minh Hải
sau 22 năm giải phóng ?


2-Những kết quả đó có ý nghĩa như thế nào trong công cuộc xây dựng CNXH hiện
nay ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Bài 21


TỈNH CÀ MAU SAU BA NĂM TÁI LẬP (1997 – 2000)


Trước yêu cầu công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế –xã hội –văn hoá của địa phương; để tăng
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước ; để tăng cường đầu tư các nguồn vốn của Trung ương,
của tỉnh và của các tổ chức quốc tê... Thể theo đề nghị của HĐND tỉnh Minh Hải ... Ngày
06/11/1996, Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 10 đã phê chuẩn việc tách tỉnh Minh Hải
thành hai tỉnh: Cà Mau và Bạc liêu. Việc tách tỉnh được thực hiện kể từ ngày 01/01/1997.


1-Tỉnh Cà Mau ở cực nam của Tổ quốc, Đông giáp với tỉnh Bạc Liêu, Bắc giáp với
tỉnh Kiên giang, Đông và Nam giáp biển Đông. Bờ biển dài 251 km. Có một thị xã (nay là
thành phố) Cà Mau và 6 huyện: Thới Bình, U Minh, Cái Nước, Trần Văn Thời, Đầm Dơi,
Ngọc Hiển. Với diện tích 5.211 km2, 1.133.747 người.


“Là vùng đất trẻ, là tỉnh mới được thành lập, nhưng Cà mau là một tỉnh có rất nhiều bè
bạn. Mảnh đất hào hiệp và phóng khống này đã tiếp hàng vạn người phiêu bạt đi tìm đất
sống trước đây. Trong hai cuộc kháng chiến hàng vạn người khắp nước đã về đây chiến đấu
và ngã xuống tại đây, để lại biết bao là kỷ niệm”. (Trích phát biểu của đồng chí Võ Văn Kiệt,
nguyên Thủ tướng Chính phủ tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Minh Hải tháng 7/1983).


Việc tách tỉnh thành lập tỉnh mới Cà Mau là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình
phát triển của lịch sử Cà Mau . Với niềm hân hoan, phấn khởi, với truyền thống đồn kết gắn
bó lâu đời, từ đây nhân dân Cà Mau tiếp tục sát cánh với nhân dân Bạc Liêu, với nhân dân các
tỉnh bạn trong sự nghiệp xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.


2-Những thành tựu nổi bật của Cà Mau sau ba năm tái lập (1997- 2000):


Phát huy những kết quả đã đạt được của tỉnh Minh Hải sau 22 năm thành lập, kể từ khi
tách tỉnh (1997) tỉnh mới Cà Mau tiếp tục vững bước tiến lên giành được nhiều thắng lợi mới.


Trong ba năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như hậu quả
nặng nề của cơn bão số 5, thời tiết khắc nghiệt, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính kinh
tế trong khu vực Châu á... Nhưng nền kinh tế tỉnh nhà vẫn tiếp tục phát triển tương đối ổn
định, tốc độ tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân hàng năm 8,4%, GDP
bình quân đầu người đạt 341 USD (tương đương 4,8 triệu đồng) tăng 44% so với năm 1996.


-Sản lượng lương thực đạt gần 1 triệu tấn, tăng 17,5% (so với năm 1996);
-Sản lượng thủy hải sản đạt 190.000 tấn, tăng 18,7% (so với năm 1996);


-Kim ngạch xuất khẩu đạt 178 triệu USD, tăng 18,7% (so với năm 1996);


Cơ cấu kinh tế Nhà nước giữ vai trò chi phối trong lĩnh vực chế biến hàng xuất khẩu và
một số hàng chiến lược, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân phát triển theo hướng đổi mới đúng
hướng và phát huy tác dụng tích cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

được làm mới chắc chắn thay thế cầu khỉ, tạo điều kiện đi lại cho nhân dân, góp phần tăng
trưởng kinh tế và đổi mới bộ mặt nông thôn.


Hiện nay 100% số xã có điện quốc gia về đến trung tâm xã, 35% số dân được dùng
điện, trong đó khu vực nơng thơn chiếm 20%. Bưu chính viễn thơng tiếp tục phát triển và hiện
đại hơn. Số máy điện thọai thuê bao tăng nhanh, bình quân 2,04 máy/ 100 người dân.


Hệ thống trường học, trạm y tế được đầu tư mạnh. Có 100% số trạm ytế, 75% số trường
học được xây dựng cơ bản, bán cơ bản; 65% hộ dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch để
sinh hoạt.


Nhiều cơng trình văn hố, phúc lợi cơng cộng đơ thị, nhất là ở Thành phố Cà Mau
được chỉnh trang, xây dựng. Tới đây dự án khu công nghiệp Khí, điện. đạm (với quy mơ nhà
máy điện 720 MW, nhà máy phân đạm 800.000 tấn/ năm...) được xây dựng và đưa vào hoạt
động sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa nền kinh tế –xã hội của tỉnh nhà.


Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố. Qua các kỳ Đại hội đảng các cấp và việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), tổ chức Đảng được củng cố, tăng cường cả về số và
chất lượng. Tổng số đảng viên của tỉnh hiện nay là 14.828 người. Trong đó đảng viên có trình
độ cao đẳng và đại học trở lên chiếm 30%; số đảng viên phát huy tác dụng tốt chiếm 82%
toàn đảng bộ.


Việc tăng cường kết nạp đảng viên trẻ, quan tâm công tác nữ, cơ cấu cán bộ đảm bảo
tính liên tục và tính kế thừa giữa các thế hệ; quan tâm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt từ


tỉnh đến cơ sở cả về trình độ lý luận, trình độ chun mơn nghiệp vụ... đã củng cố khối đồn
kết nhất trí trong Đảng, tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ,
nâng cao hiệu lực điều hành và quản lý của các cơ quan Nhà nước, giữ vững trật tự an tồn xã
hội , an ninh chính trị ở địa phương.


Văn hoá, giáo dục tiếp tục khởi sắc. Cà Mau là tỉnh đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập
giáo dục tiểu học, chống mù chữ năm 1998. Hệ thống các trường THCN, dạy nghề đã và đang
được xây dựng và phát huy tác dụng tốt. Nhiều thầy cô giáo đã được Chủ tịch nước phong
tặng danh hiệu cao quý: Nhà giáo ưu tú. Nhiều đơn vị trường học, cơ sở giáo dục được đón
nhận Huân chương lao động hạng Nhì, hạng Ba.


Phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc phụng dưỡng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng,
chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có cơng với nước được đẩy mạnh. Những năm
qua bằng việc huy động nguồn lực trong nhân dân (15 tỷ đồng) và nguồn đầu tư của Nhà
nước đã xây dựng trên 2.200 ngơi nhà tình nghĩa, góp phần giải quyết khó khăn về nhà ở và
chăm sóc tốt hơn các đối tượng thuộc diện chính sách, thực hiện các chính sách xã hội đối với
người già, cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật...


Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hố ở các khu dân cư được
tồn dân ủng hộ. Đến nay có 127 ấp, khóm, 3 xã, phường, thị trấn, 592 công sở và gần
100.000 hộ gia đình được cơng nhận đạt chuẩn văn hố. Đây là những mơ hình văn hố mới,
đáp ứng u cầu của nhân dân, là cơ sở để tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng nền văn
hoá mới, con người mới XHCN.


3-Cà Mau vững bước đi lên theo định hướng XHCN:


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

quan trọng. Những kết quả ấy là nền móng, là cơ sở để Cà Mau vững bước tiến lên theo định
hướng XHCN trong công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng, tổ
chức và lãnh đạo, vì mục tiêu “dân giàu –nước mạnh- xã hội công bằng – dân chủ – văn
minh”.



Dự thảo báo cáo chính trị của BCH tỉnh Đảng bộ nhiệm kỳ XI trình Đại hội đại biểu
tỉnh Đảng bộ lần thứ XII đã xác định phương hướng, nhiệm vụ tổng quát đến năm 2005 như
sau:


“Kiên định mục tiêu đi lên CNXH, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, phát huy sức
mạnh toàn dân, ra sức khai thác tốt tiềm năng, lợi thế tài nguyên... để tăng trưởng kinh tế với
nhịp độ cao, chất lượng, hiệu quả, tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo sự chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; tăng trưởng kinh tế gắn liền với nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân; bảo vệ vững chắc quốc phòng an ninh. Nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng bộ và sự điều hành của bộ máy Nhà nước các cấp... Góp phần
cùng cả nước thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội IX của Đảng đề ra” (Báo
cáo chính trị... tháng 7/2000; trang 27).


Chỉ tiêu phấn đấu cần phải đạt được là:


-Nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) bình quân hàng năm khoảng 16,5%.
Đến năm 2005 GDP bình qn đầu người 700 USD.


-Giá trị xuất khẩu cơng nghiệp bình quân hàng năm 3,2%.


-Sản lượng lương thực 1.000.000 tấn. Đàn heo 350.000 con. Diện tích rừng 130.000 ha.
Tỷ lệ hộ nghèo dưới 6%. 50% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hố và cịn nhiều chỉ tiêu
văn hoá - giáo dục –y tế... quan trọng khác cần phải đạt được.


Phát huy những thành tích đã đạt được trong những năm đến và bài học kinh nghiệm rút
ra từ thực tiễn hoạt động của toàn Đảng, toàn qn và tồn dân Cà Mau đồn kết một lịng,
quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng tỉnh Cà Mau giàu mạnh,
xứng đáng với truyền thống của quê hương Đất mũi anh hùng.



Câu hỏi:


1- Yêu cầu của việc tái lập tỉnh Cà Mau là gì ? Việc tái lập đó có ý nghĩa như thế nào ?
2- Nêu những thành quả nổi bật về tất cả các mặt chính trị –kinh tế –văn hoá - xã hội
của Cà Mau sa ba năm tách tỉnh. Những kết quả ấy có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp
xây dựng CNXH, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của nhân dân Cà Mau ?


3- Nêu những định hướng lớn để Cà Mau vững bước đi lên CNXH ?
DANH SÁCH


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

---01- Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Cà Mau;
02- Tiểu đoàn U Minh II tỉnh Cà Mau;


03- Xưởng quân giới tỉnh Cà Mau;


04- Đội biệt động Hồ Thị Kỷ thị xã Cà Mau, tỉnh Cà Mau;
05- Đồn biên phòng 692 Bộ đội Biên phòng tỉnh Cà Mau;


06- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau;
07- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau;
08- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau;
09- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau;
10- Lực lượng vũ trang huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;


11- Dân quân du kích xã Phú Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
12- Dân quân du kích xã Tân Thành,Thị xã Cà Mau, tỉnh Cà Mau;
13- Dân quân du kích xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau;
14- Dân quân du kích xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau;
15- Dân quân du kích xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;



16- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà
Mau;


17- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà
Mau;


18- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Biển Bạch, huyện Thới Bình, tỉnh Cà
Mau;


19- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tạ An Khương, huyện Đầm Dơi, tỉnh
Cà Mau;


20- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà
Mau;


21- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã An Xuyên,Thị xã Cà Mau, tỉnh Cà
Mau;


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

23- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hàm Rồng, huyện Ngọc Hiển, tỉnh
Cà Mau;


24- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tan Hưng Tây, huyện Cái Nước, tỉnh
Cà Mau;


25- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời,
tỉnh Cà Mau;


26- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, tỉnh
Cà Mau;



27- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà
Mau;


28- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn
Thời, tỉnh Cà Mau;


29- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà
Mau;


30- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà
Mau;


31- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Quách Văn Phẩm, huyện Đầm Dơi,
tỉnh Cà Mau;


32- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà
Mau;


33- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước,
tỉnh Cà Mau;


34- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh
Cà Mau;


35- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tam Giang, huyện Ngọc Hiển, tỉnh
Cà Mau;


36- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Thành Phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau;
37- Lực lượng giao bưu- thông tin liên lạc Cà Mau (Bưu điện Cà Mau );



38- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hoà Thành, Thành phố Cà Mau, tỉnh
Cà Mau;


39- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Khánh Bình Đơng, huyện Trần Văn
Thời, tỉnh Cà Mau;


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

41- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà
Mau;


42- Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xãViên An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà
Mau.


DANH SÁCH


ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU


01- Liệt sĩ Nguyễn Việt Khái - xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
02- Liệt sĩ Lý Ngọc Báo (Lý Văn Lâm), Phường 4, Thị xã Cà Mau, tỉnh Cà Mau;
03- Liệt sĩ Huỳnh Phi Hùng - xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau;
04- Liệt sĩ Hồ Thị Kỷ - xã Tân Hợi, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau;


05- Liệt sĩ Lê Cơng Nhân - xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau;
06- Liệt sĩ Lê Hoàng Thá - xã Biển Bạch, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau;
07- Đồng chí Bông Văn Dĩa - xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau;
08- Đồng chí Nguyễn Trung Thành, Phường 4, Thị xã Cà Mau, tỉnh Cà Mau;
09- Đồng chí Trần Văn Phú - xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau;


10- Đồng chí Nguyễn Thị Nho – xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau;
11- Đồng chí Phạm Thị Đẹt - xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau;



12- Đồng chí Phạm Thị Bay - xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
13- Đồng chí Đặng Tấn Triệu - xã Phú Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
14- Đồng chí Dương Văn Thà - xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau;
15- Đồng chí Trần Văn Ngơ - xã Nguyễn Viết Khái, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
16- Đồng chí Nguyễn Văn Tiết – xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
17- Đồng chí Hồ Trung Thành - xã Phú Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;
18- Đồng chí Trương Thị Mỹ - xã Đông Thới, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau;


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

CUỘC ĐỜI HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ ANH HÙNG LIỆT SĨ CÁCH MẠNG Ở
CÀ MAU


Nhân dân Cà Mau đã sản sinh nhiều anh hùng, chiến sĩ cách mạng, nhiều người đã anh
dũng hy sinh cho dân tộc, cho Đảng. Chúng tôi xin giới thiệu một số người tiêu biểu cho mỗi
thời đại.


LÂM THÀNH MẬU (1898 – 1942)
Một trong những Đảng viên tiên
phong của Đảng bộ Minh Hải


Lâm Thành Mậu, mà những người thân quen thời ấy thường gọi với cái tên trìu mến là
Bảy Mậu. Trong những năm đầu cách mạng, (1928 – 1930) với bí danh là ái Việt; đến thới kỳ
Đơng Dương Đại hội (1936 – 1939), đồng chí hoạt động với cái tên là Bình Dân để trách mọi
chú ý của kè thù.


Lâm Thành Mậu sinh ngày 17/8/1898, giữa lúc thực dân Pháp dùng sức mạnh súng đạn
và bộ máy cai trị tàn bạo để đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta; nhiều cuộc đấu tranh quật khởi do
các sĩ phu yêu nước lãnh đạo đã chìm vào bể máu. Cuộc sống đói nghèo lầm than cơ cực là
nỗi ám ảnh triền miên đối với những người dân hiền lành ở địa phương... đồng chí Lâm
Thành Mậu là một trong những Đảng viên đầu tiên ở chi bộ thị trấn Cà Mau, và là chi bộ


được thành lập sớm nhất lúc bấy giờ ở Minh Hải (tháng 11/1930). Đồng chí ln gương mẫu
về mọi mặt trong công tác, cũng như trong sinh hoạt đời thường, nghiêm chỉnh chấp hành mọi
chủ trương của Đảng, quan hệ mật thiết với quần chúng, kiên quyết đấu tranh không mệt mỏi
chống kẻ thù xâm lược, bọn phong kiến và bọn tay sai đến khi bị địch bắt, tù đày và hy sinh
tại nhà lao Cơn Đảo.


Thân sinh của đồng chí Bảy Mậu là ơng Lâm Mẫn Huệ, người rất am hiểu chữ nho, làm
thầy thuốc Đơng y. Ơng là nhà u nước được nhân dân địa phương kính trọng và tín nhiệm
bầu ơng làm Hội đồng Quản trị hạt tỉnh Bạc Liêu.


Lúc còn nhỏ, đồng chí Lâm Thành Mậu được theo học lớp 4 trường tiểu học, nhưng vì
nhà nghèo nên khơng tiếp tục theo học nữa, đồng chí về nhà giúp cha làm thuốc Đơng y.
Trong lúc này, đồng chí thường nghe cha cùng với một số sĩ phu bàn bạc về quốc sự, nhắc
đến những chiến công hiển hách của Hồng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Trương Cơng
Định, Nguyễn Trung Trực... hoặc đề cập đến hai anh em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự lập
căn cứ ở U Minh chống Pháp. Tuy còn ở tuổi thiếu niên, nhưng với trí thơng minh sẳn có,
đồng chí dần dần hiểu được đế quốc Pháp là kẻ cướp nước và bọn quan làng, mật thám làm tai
sai cho quân bán nước, trực tiếp đàn áp, bóc lột nhân dân, vì thế đồng bào ta bị bần cùng khổ
nhục.


Trong những năm 1920 – 1925, các phong trào yêu nước của các cụ Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh lan rộng đến Cà Mau và khắp nơi trong tỉnh. Đồng chí
Lâm Thành Mậu với tấm lòng tràn đầy nhiệt huyết của tuổi thanh niên, đã cùng một số bạn bè
đồng chí hướng, hăng hái tham gia vào các phong trào yêu nước. Với tinh thần tích cực, hăng
say và lịng dũng cảm, đồng chí hoạt động khắp mọi vùng, từ thị trấn Cà Mau đến các xã Tân
Thành, An Trạch, Thạnh Phú, Tân Hưng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

Tháng 01/1928 đồng chí cùng với các anh Nguyễn Văn Chánh (Tư Rạch), Đặng Văn
Ninh (Hai Thanh) và một số anh em khác xin gia nhập vào Thanh niên cách mạng Đồng chí
hội và thành lập chi bộ Hội ở thị trấn Cà Mau do cán bộ của đặc khu Hậu Giang tổ chức. Chi


bộ có mở nhà bán sách lấy tên là “Hồng Anh Thư quán” và một quán bán cơm cà phê “Tâm
Đồng” vừa buôn bán gây quỹ hoạt động, vừa làm nơi hội họp trao đổi ý kiến và nói chuyện
thời sự...


Cuối năm 1929, sau khi ba tổ chức cộng sản lần lượt xuất hiện ở Ba kỳ và Đặc ủy Hậu
giang ra đời và cử cán bộ xuống Cà Mau tìm hiểu và học tập điều lệ. Đến tháng 01/1930,
đồng chí Ba Huân (Ung Văn Khiêm), Bí thư đặc ủy Hậu Giang trực tiếp xuống địa phương
làm thủ tục kết nạp bốn đồng chí: Lâm Thành Mậu, Nguyễn Văn Chánh, Tăng Văn Hai và tổ
chức cho Phạm Ngọc Cừ vào Đảng. Đồng thời thành lập chi bộ An Nam Cộng Sản thị trấn Cà
Mau do đồng chí Lâm Thành Mậu làm Bí thư.


Để chào mừng Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời (03/02/1930), đồng chí cùng chi bộ đi
rãi truyền đơn, dán biểu ngữ, treo cờ đỏ búa liềm ở những nơi công cộng như chợ, trường học,
bến đò trong thị trấn và nhiều nơi trên đường số 4 (Quốc lộ 1A ngày nay)... Thật không thể
tưởng nổi, lần đầu tiên nhân dân Cà mau nhìn thấy lá cờ của Đảng đung đưa trên sợi dây thép
căng ngang sông Cà Mau (tại bến đò kinh 16). Từ đêm mùng 02 đến trưa ngày 03/02/1930, lá
cờ vẫn kiêu hãnh trước mắt đồng bào qua lại. Bọn thống trị vừa hằn học, vừa khiếp sợ cái tài
treo cờ của cộng sản.


Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/5/1930, ở thị trấn Cà Mau, một lần nữa chi bộ
Đảng tổ chức treo băng cờ, khẩu hiệu và rải truyền đơn ở nhiều nơi đông dân cư.


Tháng 8/1936, phong trào Đông Dương Đại Hội đã rầm rộ diễn ra khắp nơi. Tại thị
trấn Cà Mau, chi bộ công khai quyết định cử hai đồng chí Lâm Thành Mậu và Văn Trung
Thành, là hai đồng chí có tên tuổi và uy tín trong nhân dân đứng ra vận động các giới và lập
ủy ban hành động thị trấn Cà Mau.


Bọn thực dân phản động ở địa phương thật sự hoảng sợ trước một phong trào đang lôi
cuốn hàng ngàn quần chúng tham gia. Ngày 15/9/1939 chúng ra lệnh cấm và giải tán các ủy
ban hành động, khủng bố bắt giam một số đại biểu của nhân dân.



Đến đầu năm 1941, đồng chí Lâm Thành Mậu bị bọn thống trị theo dõi và bắt được tại
ấp Ô Rô, xã An Xuyên. Sau một thời gian bị địch giam cầm và tra tấn dã man, nhưng đồng
chí vẫn giữ vững khí tiết của người Đảng viên Cộng sản. Chúng bảo “Nếu ông thôi không
hoạt động cho cộng sản nữa thì mỗi tháng chúng tơi cho ông 1.200 đồng, ở không mà tha hồ
ăn sung, mặc sướng...”. Chẳng những đồng chí khơng nhận lời mà còn chửi thẳng vào mặt
bọn chúng: “Bọn cướp nước và bán nước, các người đừng dùng tiền mà mua được ai. Tao làm
cách mạng không phải để dể khai báo cho các người đặng hưởng sung sướng cho riêng tao,
mà nhằm tống cổ bọn đế quốc Pháp xâm lược và bè lũ bán nước, hại dân như các người, đem
lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nghèo khổ... Tao
thà chết vinh còn hơn sống nhục...”.


Sau đó bọn thống trị thực dân đã kết án đồng chí 15 năm tù và đày ra Cơn Đảo. Nhưng,
vì bị tra tấn thương tật rất nặng nề cộng với chế độ nhà tù đế quốc vô cùng khắc nghiệt, đồng
chí Lâm Thành Mậu đã hy sinh trong vịng tay thân thương của đồng chí, đồng đội tại nhà lao
Côn Đảo vào tháng 7/1942.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với lý tưởng cộng sản, không ngại hy sinh, gian
khổ, suốt đời khơng ngừng hoạt động vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân. Tấm gương trong sáng ấy, đáng cho cán bộ Đảng viên hơm nay và mai sau học tập.
Chính vì vậy mà sau ngày Miền Nam hồn tồn giải phóng tên của đồng chí đã được chọn
điểm đặt cho con đường đi ngay qua nhà của đồng chí trước đây: Đường Lâm Thành Mậu
phường 4 thị xã Cà Mau.


PHẠM HỒNG THÁM (1902 – 1978)


Người có cơng lao lớn trong việc khôi phục và
phát triển phong trào cách mạng ở địa phương.


Đồng chí Phạm Hồng Thám, có Bí danh là Phạm Thái, Đông Phương, Thanh Phong,


Hai Phước trong năm 1929- 1954. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, anh em thường gọi là
Hai Côn - Đuôi , sinh ngày 06/2/1902 ở Thuận Vi, nay là xã Bách Thuận, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình, nơi có phong trào cách mạng sớm.


Vì gia đình nghèo khơng có ruộng đất canh tác, cũng khơng có việc làm nên năm 17
tuổi đồng chí xin cha mẹ cho theo người chú ra vùng Cẩm Phả để xin làm phu mỏ kiếm tiền
sinh sống. ở đây, đồng chí bị bọn chủ mỏ bắt làm những việc nặng nhọc, vất vả, mỗi ngày 10
tiếng đồng hồ. Không thể chịu đựng được cảnh đời khổ nhục ấy, đồng chí đã nhiều lần đấu
tranh chống lại nên bị bọn chủ mỏ là tư sản Pháp đuổi không cho làm nữa.


Tháng 8/1920, đồng chí Thám xin vào lính mộ. Đến đầu năm 1921,Thực dân Pháp đưa
hàng ngàn lính Việt Nam sang Đại Pháp để chiến đấu, trong đó có đồng chí Thám.


Trong thời gian ở Paris, đồng chí nhận thấy rõ bộ mặt xấu xa của xã hội tư sản Pháp,
thực tế trái ngược với sự tuyên truyền dối trá của chúng về “Bình đẳng, bác ái”, về sự giàu
đẹp của nước Pháp... Từ đó đồng chí càng ý thức sâu sắc bản chất của tư sản và những thủ
đoạn áp bức, bóc lột hết sức dã man, tàn bạo của đế quốc thực dân đối với các dân tộc thuộc
địa, qua đó đã đánh thức trong đồng chí lịng u nước, thương nịi; căm ghét bọn thực dân
cướp nước và bè lũ tay sai bán nước.


Năm 1925, đồng chí cùng các lính tập được đưa về nước. Trở lại quê nhà, đồng chí
ngày càng chứng kiến thêm biết bao cảnh tượng mà nhân dân ta phải còng lưng gánh chịu do
bọn thực dân, phong kiến gây ra. Đối với bọn sĩ quan Pháp thường hay khinh rẻ, hiếp đáp
binh sĩ người Việt, đồng chí rất căm thù và thường vận động anh em chống lại. Có lần đồng
chí đánh nhau với tên sĩ quan huấn luyện Pháp vì hắn lên mặt hống hách và đàn áp anh em,
đồng chí bị chúng bắt lột lon (cấp hiệu) và phạt ngồi tù, sau ít ngày bọn chúng đưa đồng chí
về đơn vị lính tập ở thị xã Bắc Ninh.


Năm 1926, được biết đồng chí Thám là một binh sĩ có tinh thần đấu tranh chống bọn sĩ
quan Pháp, Chi bộ Việt Nam Thanh niện cách mạng đồng chí Hội ở Bắc Ninh do đồng chí


Ngơ Gia Tự làm bí thư liền cử cán bộ đến tìm hiểu nguyện vọng, đồng thời tuyên truyền, giác
ngộ cách mạng cho đồng chí. Qua gần một năm được chăm bồi và thử thách, ngày 01/5/1927
đồng chí cùng vài đồng nghiệp tích cực được tổ chức kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng
chí Hội, và thành lập chi bộ ngay trong đơn vị lính tập do đồng chí Thám làm bí thư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

Văn Trọng... tất cả gồm 9 người lần thứ tư đã vượt trùng dương trót lọt và đã cập bến thuộc
vùng Bạc Liêu –Vĩnh Châu một cách an tồn. Từ đây các đồng chí chia tay nhau mỗi tốp đi
về một hướng. Đồng chí Thám xi về vùng Năm Căn, cịn các tốp kia toả về miệt Vĩnh
Long, Châu Đốc, Cần Thơ...


Ở Năm Căn, đồng chí Phạm Hồng Thám tìm hiểu và gia nhập vào số bà con làm nghề
rừng nơi đây, hàng ngày đi đốn củi về bán cho bọn chủ lò để hầm than. Khi có tiền đồng chí
nhờ người thân quen tìm mua giùm được một giấy thuế thân mang tên là Lê Đông Phương, và
từ ấy tên đồng chí là Lê Đơng Phương để được hợp pháp hố, tránh mọi nghi ngờ của bọn tai
mắt địch. Đến tháng 8/1935, đồng chí cùng hai anh Nguyễn Văn Hồng và Nguyễn Thông
đến ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân để gây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức các đồn thể trong ngư
dân ở làng cá. Sau đó, đồng chí chuyển dần sang các xã Tân Hưng Tây, Thới Bình, Tân Phú,
Chợ Hội... Nơi nào đồng chí đã đến là nơi đó có phong trào quần chúng đấu tranh chống áp
bức, bóc lột của bọn thực dân, địa chủ, quan làng. Và qua đó mà chọn lọc, đào tạo những
quần chúng giác ngộ tiến lên để thành lập chi bộ đảng, làm hạt nhân lãnh đạo phong trào ở địa
phương. Đồng chí thám có biết ít nhiều nghề thuốc Đông y, nên trên đường hoạt động thường
mang bên mình một va li bằng mây đựng các loại thuốc, vừa tạo thế hợp pháp hoá che mắt
bọn mật thám theo dõi, vừa xem mạch cho thuốc giúp đồng bào nghèo ốm đau không tiền
mua thuốc điều trị. Vì vậy mọi người thường gọi đồng chí là thầy Hai Phước một cách mến
yêu và quý trọng.


Tại thị trấn Cà Mau, đồng chí Thám cùng với các đồng chí Bảy Mậu, Chiến Trưởng,
Tiến Cụt, Tư Chơi, Ba Trực, Giáo Hiển... đã khôi phục và phát triển cơ sở Đảng, các tổ chức
quần chúng và đưa phong trào ở đây ngày một lên mạnh.



Để lãnh đạo thống nhất phong trào cách mạng trong quận, sau khi được sự đồng ý của
cấp trên, đồng chí Thám đã đứng ra triệu tập Đại hội đại biểu quận Đảng bộ lần đầu vào ngày
5/7/1937, tại nhà đồng chí Lâm Thành Mậu. Về dự có đồng chí Tạ Uyên và Phan Văn Bảy đại
diện cho Tỉnh ủy Hậu giang cùng 20 đại biểu của 12 chi bộ trong toàn quận, để thành lập
Quận ủy Cà Mau và cũng là quận ủy đầu tiên của tỉnh Bạc Liêu từ khi Đảng ra đời (năm
1930). Tại hội nghị này đồng chí Phạm Hồng Thám được bầu làm bí thư quận ủy. Sự kiện này
khơng những đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng của riêng quận Cà Mau mà cịn có ý
nghĩa quan trọng đối với phong trào chung trong toàn tỉnh.


Cuối tháng 7/1937, đồng chí Phạm Hồng Thám được Xứ ủy Nam Kỳ chỉ định vào Liên
Tỉnh ủy Hậu Giang, phụ trách 3 tỉnh Bạc Liêu, Rạch Giá, Sóc Trăng.


Năm 1951, vì lý do sức khoẻ, đồng chí được ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ
bổ nhiệm làm phó giám đốc Sở Lao động –thương binh Nam Bộ; đến năm 1953, làm giám
đốc Sở kho thóc Nam Bộ cho đến khi Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết năm 1954.


Sau Hiệp định đình chiến, đồng chí được tổ chức Đảng phân cơng bảo vệ đồng chí Lê
Duẩn, người lãnh đạo tối cao còn lại ở Miền Nam. Đến đầu năm 1959, đồng chí được Tỉnh ủy
Bạc Liêu phân cơng về làm cố vấn tiểu đồn Ngô Văn Sở, là đơn vị bảo vệ căn cứ trực thuộc
Tỉnh ủy. Năm 1964, vì tuổi cao sức yếu, đồng chí được Khu ủy Miền Tây Nam Bộ rút về
công tác ở Ban tổ chức Khu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

Đồng chí Phạm Hồng Thám là một trong những đảng viên kỳ cựu, người có nhiều cơng
lao cống hiến to lớn trong công cuộc khôi phục, xây dựng, phát triển tổ cức Đảng và phong
trào cách mạng ở nhiều tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là ở tỉnh Bạc Liêu (Cà Mau) trong những năm
1935 – 1945 và trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng chí đã
để lại cho đồng bào, đồng chí chúng ta tình thương u sâu sắc, luôn là tấm gương sáng ngời
về phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản, suốt đời vì lợi ích của Đảng,
của dân tộc. Để ghi nhớ cơng lao của đồng chí, tên của đồng chí Phạm Hồng Thám được đặt
tên một con đường quan trọng ở Thị xã Cà Mau: Đường Phạm Hồng Thám – Phường 4, Thị


xã Cà Mau, nơi có nhiều cơ sở cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ.


TRẦN VĂN THỜI (1902 – 1942)


Bí thư Tỉnh ủy năm 1940, người giữ vai trò quyết định
trong khởi nghĩa Nam Kỳ ở Cà Mau – Bạc Liêu.


Hơn nửa thế kỷ đã đi qua, nhưng đối với đồng bào, đồng chí ở Bạc Liêu vẫn khơng sao
qn được cơng lao to lớn của đồng chí Trần Văn Thời trong những năm sôi động cách mạng,
và cũng là những năm địch ra sức đàn áp khốc liệt phong trào giải phóng dân tộc ở quê
hương. Sống vì Đảng, vì dân, đồng chí hết lịng đấu tranh vì sự nghiệp chung cho cách mạng;
ln trầm tĩnh nhưng linh hoạt, có tính quyết đốn cao, thể hiện bản lĩnh trong lãnh đạo... nhất
là trong cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai năm 1940 của tỉnh nhà.


Song thân của đồng chí là Ơng Trần Văn Tám và Bà Ngơ Thị Hưỡn, một gia đình trung
nơng có nề nếp, lại có chút ít thân thế trong xã hội lúc bấy giờ; nhưng là một nhà có tinh thần
yêu nước, thương dân rất sâu đậm. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, gia đình khơng cịn ruộng
đất như xưa, nhưng hai ơng bà rất tích cực ni dưỡng, bảo vệ cán bộ Đảng; thường xuyên
giáo dục và khuyến khích con cháu tham gia hoạt động cách mạng. Chính vì vậy mà sau khi
khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bọn cầm quyền phản động ở địa phương ra lệnh cho tay sai đốt
nhà và tìm bắt gia đình ông. Nhưng ông đã trốn thoát để cùng với các chiến sĩ còn lại vào
rừng U Minh lập căn cứ, sản xuất vũ khí tiếp tục chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai.


Đồng chí Trần Văn Thời có vợ, hai con nhưng đều chết trước và sau cách mạng tháng
tám năm 1945. Nhà đồng chí tại Lung Lá Nhà thể, thuộc ấp Rạch muỗi, xã Tân Hưng. Từ
những năm 1936 – 1040 và cả hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, nơi đây là địa điểm quan
trọng mà các cấp lãnh đạo từ quận ủy đến tỉnh ủy thường lấy làm nơi hội họp, huấn luyện cán
bộ, đảng viên. Và cũng chính tại khu vườn của đồng chí, tháng 11/1940 Tỉnh ủy Bạc Liêu
quyết định cuộc khởi nghĩa trong tỉnh mà đồng chí Trần Văn Thời là người trực tiếp chỉ đạo.



Trần Văn Thời là con thứ ba trong gia đình mười anh em, nên đồng chí cịn có tên là Ba
Thời; sinh năm 1902 tại ấp Giao Vàm, xã Phong Lạc, quận Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu. Lúc nhỏ
đồng chí khơng có điều kiện để học. Tuy vậy, đồng chí có tinh thần hiếu học lại siêng năng.
Những đêm rảnh rỗi đồng chí tranh thủ nhờ bà con trong xóm chỉ dạy đến biết đọc và biết viết
thành thạo chữ quốc ngữ. Là một thanh niên khoẻ mạnh, biết võ dân tộc, với lòng vị tha, cho
nên đối với láng giềng chịm xóm, đồng chí là người bạn tốt, đồn kết thân ái và ln chân
thành giúp đỡ khơng ngại khó khăn, được mọi người thương yêu tin cậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

Bạc Liêu do Xứ ủy Nam Kỳ triệu tập tại khu rừng thuộc xã Tân Hưng Tây, trong cuộc hội
nghị này đồng chí Trần Văn Thời được cử làm Bí thư.


Với cương vị lãnh đạo cao nhất của tỉnh, đồng chí Thời cùng Ban thường vụ khẩn
trương xuống các quận, xã trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Trong hồn
cảnh hoạt động khó khăn nguy hiểm, bọn mật thám, tay sai của Pháp biết đồng chí là một cán
bộ lãnh đạo quan trọng cuả Đảng bộ địa phương, nên chúng ráo riết cho truy lùng tìm bắt.


Vào năm 1940, cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Bạc Liêu cũng như các tỉnh khác ở Nam Kỳ tuy
bị địch đàn áp, nhưng dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy – mà trực tiếp là đồng chí Trần Văn Thời
đã phát huy được truyền thống quật cường, anh dũng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh,
đồng thời gây ngọn lửa cách mạng trong tâm hồn người dân địa phương. Song, vì tình hình
đất nước chưa có gì chuyển biến có lợi cho ta, nên cuối tháng 3/1941, theo quyết định của
Liên Tỉnh uỷ, căn cứ du kích rừng U Minh tạm thời giải tán để đưa lực lượng cán bộ, đảng
viên và các chiến sĩ du kích trở về từng địa phương nhằm bám sát quần chúng. Đồng chí Trần
Văn Thời được cấp trên điều động về phụ trách tỉnh Châu đốc.


Sau ngày 01/5/1941, do tên Tư Trà (ủy viên Liên tỉnh ủy Hậu Giang, tỉnh ủy Long
xuyên) chỉ điểm, giữa đêm khuya bọn mật thám Pháp bao vây nhà bắt đồng chí cùng nhiều
đồng chí khác đưa về thị xã Sa Đéc. Mặc dầu bị địch tra tấn vô cùng dã man, tàn bạo nhưng
đồng chí vẫn chịu đựng khơng khất phục, khơng khai báo điều gì, kể cả tên thật, q qn của
mình. Sau đó Tồ án thực dân Pháp xử đồng chí 10 năm cấm cố, 15 năm lưu đày biệt xứ và


đưa ra Côn Đảo. Vì bị địch tra tấn vơ cùng tàn bạo cộng với chế độ nhà tù thực dân vô cùng
khắc nghiệt, nên ngày 05/5/1942, đồng chí Trần Văn Thời đã trút hơi thở sau cùng tại nhà tù
Côn Đảo.


Đồng chí Trần Văn Thời hy sinh là một tổn thất lớn của Đảng bộ và quân dân Bạc Liêu.
Để ghi nhớ cơng lao của đồng chí, một chiến sĩ cộng sản kiên cường và dũng cảm, một cán bộ
lãnh đạo xuất sắc của Đảng bộ, năm 1948 Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh
Bạc Liêu đã lấy tên đồng chí đặt cho một quận mới ở U Minh là quận Trần Văn Thời. Và từ
đó tên tuổi của đồng chí đã trở thành tên đất, tên quê hương và sống mãi vơi nhân dân miền
đất thân thương cuối cực nam của Tổ quốc.


PHAN NGỌC HIỂN (1910 – 1941)
Người thầy giáo, người chiến sĩ văn hoá,
người chiến sĩ cách mạng kiên cường


Cách đất mũi cuối cùng cực nam của Tổ quốc chừng 10 hải lý về phía Đơng Nam, một
đảo nhỏ với cái tên rất bình thường, giản dị “Hịn Khoai”, nơi đây tiếp nối ngọn lửa Nam Kỳ
khởi nghĩa bùng cháy (năm 1940), và cũng từ Hòn Khoai thân yêu này vẫn vang mãi lời ca
chiến công của người anh hùng liệt sỹ Phan Ngọc Hiển. Từ đó cuộc đời cách mạng và cuộc
sống của anh đi vào trang sử vàng của Cà Mau.


Sau cách mạng tháng tám thành công, một phần đất yêu thương nơi anh sống và hoạt
động vinh dự được mang tên anh: Huyện Ngọc Hiển .


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

Tại trường sư phạm Sài Gòn, anh tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên
và cùng đồng bào ở Sài Gòn đưa đám tang cụ Phan Chu Trinh. Đây là một hình ảnh tiếp nối
cho anh suy nghĩ về sự yêu nước.


Cuối mùa hè năm 1931, khi ra trường anh bị đẩy xuống vùng đất xa xôi Rạch gốc Cà
Mau. Nơi đây đúng là thật gian khổ: muỗi mòng, nước mặn, đất bùn lầy, dân cư thưa thớt...


Nhưng người thanh niên 21 tuổi đã đến với bà con chịm xóm nơi đây với một tấm lịng chân
thật.


Đối với học sinh, anh thể hiện rõ vừa là người thầy vừa là người anh rất thân thiết với
các em. Những ngày hoạt động ở Rạch Gốc, “Anh rất thích tổ chức những trận bóng đá giao
hữu, tạo điều kiện giao lưu văn hóa giữa vùng này với vùng khác. Thỉnh thoảng anh làm thơ,
viết bài cho báo, hoặc khi nhận được những tờ báo tiến bộ, anh mang đi đọc cho dân nghe,
giải thích cho dân rõ.


Cuối năm 1935, anh làm phóng viên cho tuần báo “Tân Tiến” của Hồ Văn Sao ở thị xã
Sa Đéc. Lúc này anh hoạt động rộng rãi, đưa nhiều tin đấu tranh của quần chúng trên tờ báo.


Năm 1936, anh trở về hoạt động tại thị trấn Cà Mau. Đến khoảng tháng 03/1936, anh
được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ đó ý thức hoạt động cách mạng của anh được
sâu sắc hơn. Tháng 7/1937, anh được huyện ủy Cà Mau phân công phụ trách cơ quan công
khai của Đảng ở thị xã Cà Mau. Anh làm báo, thể hiện rõ bản lĩnh của mình, phản ánh trung
thực với thực tế, quan điểm vững vàng trong các cuộc bút chiến với kẻ thù, luôn luôn binh
vực quyền lợi cho quần chúng. Đối với người yêu, anh cũng thể hiện lý tưởng cao cả (gắn tình
riêng của mình với đất nước), như trong bài thơ của anh viết từ giã người yêu:


“... Anh không thể nào lưu luyến với em mãi
Em yêu anh sao bằng hai mươi lăm triệu đồng bào.
Nếu ngày nào đời anh là đời đau khổ


Một mình em khơng thể an ủi được lịng


Thơi đi! Em có u anh, hãy trơng vào Tổ quốc
Có nhớ đến anh hãy ngó lại đồng bào !..”


Năm 1938, đồng chí được Tỉnh ủy xin về. Tháng 6/1940, đồng chí được phân cơng ra


Hịn Khoai. Thời gian ở Hịn Khoai đồng chí làm nhiệm vụ chuẩn bị mọi điều kiện cho khởi
nghĩa.


Ngày 13/12/1940, đồng chí cùng cùng đồng đội khởi nghĩa Hịn Khoai giành thắng lợi.
Sau đó đồng chí cùng các chiến sĩ khởi nghĩa giương cờ đỏ búa liềm và tấm băng, chạy thẳng
về đất liền. Khi đế Rạch Gốc khơng liên lạc được với tổ chức, đồng chí linh hoạt dẫn đoàn
quân khởi nghĩa đi đánh tiếp đồn Kiểm Lâm ở Tam Giang, sau đó đồng chí dẫn đoàn quân
khởi nghĩa về giúp đỡ nhân dân Rạch Gốc sơ tán vào rừng để tránh khủng bố của địch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

Chúng đánh đập đồng chí rất tàn nhẫn và đưa đồng chí về giam nhiều nơi ở Cà Mau,
Bạc Liêu, Sài Gòn. Những ngày ở tù chúng tra tấn đồng chí rất tàn nhẫn, chết đi sống lại
nhiều lần nhưng đồng chí vẫn giữ khí tiết của người cộng sản.


Đầu năm 1941, bọn mật thám đưa đồng chí Phan Ngọc Hiển và đồng đội vào ở chung
khám. Nhân dịp gặp được đủ mặt, anh trao đổi với đồng đội rút kinh nghiệm cuộc khởi nghĩa
vừa qua và anh động viên đồng đội là: “Chúng ta làm cách mạng vì độc lập cho tổ quốc, tự do
cho đồng bào; dù phải hy sinh tánh mạng hay bị đày ra Côn Đảo, hoặc nơi nào khác, chúng ta
quyết khơng sờn lịng, nản chí và luôn tin tưởng thắng lợi cuối cùng thuộc về nhân dân ta”.


Gần sáu tháng giam cầm và tra tấn của bọn thực dân Pháp, tháng 7 năm 1941, chúng
đưa Phan Ngọc Hiển và 9 đồng chí tham gia cuộc khởi nghĩa Hịn Khoai ra tồ và kết án tử
hình. Ngày 12/7/1941 (tức ngày 14 tháng 6 âm lịch), tại Sân vận động thị trấn Cà Mau vào
buổi sáng, chúng đưa đồng chí Phan Ngọc Hiển cùng đồng đội ra pháp trường để hành quyết.
Hàng ngàn đồng bào đứng vây quanh Sân vận động thấy rất rõ từng đồng chí khởi nghĩa Hịn
Khoai. Tuy tay bị còng cứng, nhưng Phan Ngọc Hiển và đồng đội vẫn bình tĩnh, ung dung
bước ra pháp trường giữa rừng lê sáng quắc của kẻ thù. Đặc biệt đồng chí Phan Ngọc Hiển
xin chúng cho anh nói chuyện với đồng bào thân yêu trước khi vĩnh biệt. Chúng không cho
nhưng anh vẫn nói: “...Những người cộng sản coi cái chết rất tầm thường. Chúng tôi sẵn sàng
chết để tranh đấu cho đồng bào được ấm no. Nhất định những người kế tục chúng tôi sẽ tiêu
diệt thực dân Pháp ! Nhất định Việt Nam sẽ được độc lập ...”



Và anh cùng đồng đội hô vang:
-Đả đảo đế quốc Pháp !


-Việt Nam độc lập muôn năm !


-Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm !


Anh và các chiến sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai ngã gục trước những loạt đạn trả thù đê hèn
của bọn thực dân Pháp và tay sai.


Bà con ra về ai nấy đều khâm phục sự dũng cảm bất khuất của anh và nhớ mãi:
“... Buổi sáng mai hồng trước chợ Cà Mau


Phan Ngọc Hiển đem mặt trời làm trái tim trong ngực
Trái tim mặt trời sáng mãi mai sau.”.


(Trường ca “Hòn Khoai” của nhà thơ Nguyễn Bá).


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

Đồng chí Đồn Thanh Vị- nguyên ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng,
Bí thư Tỉnh ủy Minh Hải đã nói:” Chúng ta không sao quên được người cộng sản kiểu mẫu
đầu tiên Phan Ngọc Hiển cùng các liệt sĩ Hịn Khoai đã lấy máu của mình viết lên trang sử
oanh liệt chưa bao giờ có trên mảnh đất này”.


Đồng chí Trần Hữu Vịnh –ngun Phó Bí thư Tỉnh ủy Minh Hải đã nói: “nếu liên hệ lại
lẽ sống cuả người cộng sản, thì Phan Ngọc Hiển và đồng đội của anh là tấm gương sáng mà
chúng ta và các thế hệ mai sau, mãi mãi học tập và noi theo”.


Đồng chí Nguyễn Thanh Vân –ngun Phó Bí thư Thị xã ủy Cà Mau đã nói: “Đồng chí
Phan Ngọc Hiển và các chiến sĩ khởi nghĩa Hịn Khoai đã vĩnh biệt chúng ta qua nửa thế kỷ,


nhưng những tấm lịng mến thương kính trọng của đồng bào, của Đảng bộ Cà Mau đối với
đồng chí khơng giấy mực nào ghi hết, có chăng chỉ là sự hiểu biết hạn chế của mình. Dù sao
đi nữa chúng ta cũng nhận được máu xương, khí phách các đồng chí đã thấm sâu lịng đất,
lịng người !Ngày nay cái gì Cà Mau có được, đó là một phần xương máu, ý chí của các chiến
sĩ khởi nghĩa Hịn Khoai tạo nền móng”.


LÝ VĂN LÂM (1941 – 1969)
Anh hùng liệt sĩ của


lực lượng võ trang tỉnh Cà Mau


“... Bất kỳ lúc nào và trong hồn cảnh khó khăn nào, đồng chí cũng ln bám đất, bám
dân, dũng cảm, ngoan cường, tích cực tiến cơng địch, lập nhiều thành tích xuất sắc; được
đồng chí, đồng bào yêu thương và tin cậy...”. Đấy là một nhận xét, một đánh giá hết sức khái
quát, cô đọng và cũng hết sức sâu sắc đối với tầm vóc và sự cống hiến của người chiến sĩ cách
mạng anh hùng Lý Văn Lâm, người con yêu quí của quê hương Cà Mau.


Lý Văn Lâm sinh năm 1941, là con của ông Lý Văn Kiển (Mười Kiển) và bà Nguyễn
Thị Tài ở ấp Giồng Kè, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Là một gia đình nơng
dân rất nghèo khổ, khơng có ruộng đất để cày cấy, ngoài việc đi làm tá điền cho bọn địa chủ,
còn phải đi làm mướn, làm thuê để sống qua ngày tháng.


Tất cả những cảnh tượng đau thương, tang tóc do Mỹ Diệm gây ra ở q hương đã
nung sơi lịng u nước, thương nịi và chí căm thù giặc của người thanh niên tràn đầy nhiệt
huyết.


Trong lúc đang nóng lịng trơng đợi tìm đến ước mơ, bỗng một đêm khuya vắng lặng
anh nghe tiếng loa từ xa văng vẳng về: “... Đồng bào hãy đoàn kết đấu tranh, đánh đuỗi Mỹ
Diệm giải phóng q hương, giải phóng đất nước...” Ơ ! Cách mạng đây rồi anh reo lên sung
sướng và đinh ninh rằng mình sẽ tìm được cách mạng. Sáng dậy, anh thấy truyền đơn rải


trắng ngoài đường. Nhưng ai đã rải truyền đơn ? Làm sao gặp được mấy anh cách mạng ?...
Những câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu anh, thật khó tìm ra giải đáp.


Một hôm anh Lâm cùng chị Mẫn đi cấy, bất chợt chị Mẫn hỏi:
-Anh Lâm này anh, có muốn tìm cách mạng khơng ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

-Em có phải là cách mạng không ? Và thế là đã rõ, qua trao đổi hai người thật sự hiểu
nhau, chia sẽ cho nhau những ý nghĩ thầm kín. Thật, anh vơ cùng sung sướng, hân hoan vì tìm
gặp được cách mạng, hay nói đúng hơn là cách mạng đã đến với anh như mong ước mà bấy
lâu nay anh ấp ủ.


Sau khi được chi Mẫn báo cáo và giới thiệu, tháng 7/1959 anh được tổ chức công nhận
là nồng cốt thanh niên hoạt động trong vùng địch hậu, thuộc khu vực I thị xã Cà Mau. Và
cũng từ năm ấy, anh trở thành một đồng chí trong hàng ngũ cách mạng, một chiến sĩ ngoan
cường và anh dũng của quê hương.


Qua thời gian thử thách, tháng 11/1959, đồng chí Lý Văn Lâm chính thức được cơng
nhận là đội viên đội du kích xã Tân Lợi. Và ngày 20/12/1960, đồng chí được kết nạp vào
Đồn thanh niên cách mạng với niềm vinh dự và tự hào của một thanh niên.


Ngày 15/07/1961, đồng chí Lý Văn Lâm được vinh dự đứng vào hàng ngũ Đảng nhân
dân cách mạng và được đề bạt làm Trung đội phó du kích xã Lợi An. Đây là ngày mà đồng
chí cho là bước ngoặt của cuộc đời và cũng là ngày vinh quang nhất của một chiến sĩ cách
mạng trong suốt q trình chiến đấu của đồng chí. Tháng 11/1961, vì sơ hở đồng chí bị lựu
đạn gài nổ làm mất bàn tay mặt, tay trái cũng bị thương và đơi mắt bị khói thuốc làm mờ đi.
Mặc dù tay bị cụt, mắt bị mờ nhưng đồng chí sử dụng vũ khí rất thành thạo và chính xác, mỗi
lần đồng chí nổ súng là coi như một tên thù ngã gục. Đặc biệt, có lần chỉ với một viên đạn
đồng chí đã bắn chết hai tên giặc đi càn.


Đồng chí Lý Văn Lâm không những chỉ đánh giỏi, bắn giỏi đối với bọn giặc ở dưới đất,


mà giặc “trên trời” anh cũng bắn chính xác khơng kém, có lần chỉ với 5 viên đạn súng trường
bá đỏ đồng chí hạ một máy bay trinh sát L19 của địch, khiến bọn chúng hết sức bàng hoàng,
kinh ngạc. Bọn giặc rất sợ đường đạn vơ cùng chính xác của đồng chí, mỗi khi chạm mặt
nhau chúng ra lệnh cho bọn tay chân: “Nếu ai bắt được “thằng cụt” sẽ được thưởng 40.000đ
và một khẩu súng col...”


Tiếng tăm của anh “Hai cụt” cả vùng Cà Mau ai ai cũng biết đến. Đại đội anh hùng
chiến sĩ thi đua miền Tây Nam Bộ (ngày 17/9/1967) đồng chí vinh dự được cấp trên cho đi dự
Đại hội. Và cũng ngay trong cuộc Đại hội này, đồng chí Lâm được Mặt trận Dân tộc giải
phóng cùng bộ chỉ huy các lực lượng võ trang nhân dân giải phóng Miền Nam tặng danh hiệu
anh hùng Quân giải phóng Miền Nam và thưởng: Một Huân chương quân công hạng ba; một
huy hiệu anh hùng; một bằng dũng sĩ quyết thắng cấp I; một huy hiệu Bắc – Nam; một khẩu
súng K54 và một khẩu K1.


Chiến cơng nối tiếp chiến cơng, đồng chí Lý Văn Lâm đã trực tiếp tham gia rất nhiều
trận chiến đấu lập nên thành tích vẻ vang. Với khẩu súng trong tay đồng chí đã diệt và làm bị
thương hàng trăm tên giặc, bắt sống 4 tù binh, thu nhiều vũ khí, đạn dược cùng nhiều tài liệu
quan trọng khác. Ngày 03/9/1969, một lần đồng chí được cấp trên chọn đi dự Đại hội anh
hùng chiến sĩ thi đua lần thứ hai ở Tây Nam Bộ. Nhưng trên đường đi vừa đến xã Kháng Bình
Đơng, bất ngờ lọt vào vịng phục kích của địch, đồng chí cùng với người em trai (Người em
trai duy nhất của Lý Văn Lâm) bị chúng vây chặt. Đồng chí bình tĩnh vừa bắn trả quyết liệt,
vừa cùng em mở đường máu thoát ra, thà chết chứ nhất định không cho địch bắt được. Địch
nhận thấy đối phương có hai người nên chúng cố đuổi theo bắn vãi đạn như mưa. Biết khơng
thể thốt khỏi, đồng chí cùng em trụ lại sánh vai chiến đấu rất kiên cường đến khi cả hai đều
ngã xuống trút hơi thở cuối cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

một mất mát lớn lao, đã để lại cho chúng ta một tấm gương chiến đấu sáng ngời của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng cao cả.


Để nhớ công lao to lớn của anh hùng Liệt sĩ Lý Văn Lâm, chính quyền cách mạng và


nhân dân Cà Mau lấy tên đồng chí đặt tên cho con đường từ Thị xã Cà Mau về quê hương đã
sinh ra đồng chí và đặt tên cho một xã mới thành lập ven Thị xã Cà Mau – xã Lý Văn Lâm –
vùng đất mà suốt 10 năm người chiến sĩ du kích đã chiến đấu không rời tay súng.


HỒ THỊ KỶ (1949 – 1970)
Nữ anh hùng liệt sĩ của


lực lượng vũ trang tỉnh Cà Mau.
“...Từ trái tim em bừng tiếng nổ
Cuối trời Tổ quốc lửa dâng cao
Từ trái tim em nung thép đỏ
Chảy vào mạch sống vạn đời sau”.


Thật vậy, tiếng mìn của Hồ Thị Kỷ ở đầu thập niên 1970 đã đi vào lịch sử, đã góp phần
nâng tầm vóc của người con gái Việt Nam ngang tầm thời đại oai hùng của dân tộc. Làm cho
kẻ thù phải một phen khiếp hồn, bạt vía trước một nữ biệt động mảnh mai, nhưng ngoan
cường và dũng cảm. Tiếng nổ từ trái tim nồng cháy vì tình yêu quê hương, đất nước; vì lý
tưởng cao cả của mọi người và cũng vì lẽ sống cho hơm nay, ngày mai và mãi mãi mai sau
của dân tộc.


Nữ anh hùng Hồ Thị Kỷ, sinh năm 1949, trong một gia đình nông dân nghèo khổ ở ấp
Cây Khô, xã Tân Lợi, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Cha là Hồ Văn Thiên và mẹ là Đào Thị
Nhung phải đi làm mướn cho địa chủ để kiếm tiền mua gạo sinh sống.


Lớn lên giữa lúc quê hương không ngớt tiếng bom đạn, mỗi tiếng bom rơi, mỗi tiếng nổ
của đại bác từ các chi khu Thới Bình, Cà mau bắn vào nhằm triệt hạ nhà cửa, ruộng vườn
cùng tính mạng của nhân dân vô tội là mỗi lần Kỷ vô cùng xót xa và căm thù quân cướp nước
dã man.


Tháng 02/1968, Hồ Thị Kỷ được tổ chức kết nạp vào Đoàn thanh niên nhân dân cách


mạng Việt Nam . Từ đấy Kỷ càng phấn đấu tích cực, ln tỏ ra là cánh tay đắc lực, là đội hậu
bị của Đảng, dù khó khăn, gian khổ nhưng lúc nào Kỷ cũng tươi vui, phấn khởi và tin tưởng
vào tương lai tươi sáng của cách mạng, ra sức hồn thành tốt mọi nhiệm vụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

chí trực tiếp đánh hai trận vào bọn giang thuyền tại bến sơng Cà Mau, làm chìm 5 tàu địch và
được tặng thưởng hai Huân chương chiến công hạng nhất.


Ngày 06/10/1969, Hồ Thị Kỷ được kết nạp vào Đảng. Với nỗi vui mừng vô hạn và là
niềm vinh dự to lớn ấy làm tăng thêm tinh thần và nghị lực của đồng chí trên bước đường
hoạt động cách mạng; luôn tỏ ra xứng đáng là một đảng viên ưu tú của Đảng ngày càng đạt
thêm nhiều thành tích xuất sắc. Đồng chí đã bí mật xây dựng, tổ chức rèn luyện được một tổ
nữ biệt động ngay trong lòng địch, và cùng chị em này đánh nhiều trận tại Thị xã Cà Mau,
diệt được 10 tên ác ôn và làm bị thương nhiều tên khác, trong đó có một tên trung úy đền tội.


Sáng ngày 03/4/1970, xuồng cập bến chợ Cà Mau, theo dự kiến của kế hoạch là đồng
chí sẽ đặt chất nổ ở vị trí đã định trước. Thế nhưng tình huống xảy ra khơng như ý định của
đồng chí, trái ngược với điều nghiên ban đầu. Bọn địch tập trung nhốn nháo trước cổng để
chuẩn bị hành quân, càn quét. Trước tình huống bất ngờ ấy, Hồ Thị Kỷ tỏ ra rất bình tĩnh,
mưu trí và xử lý rất linh hoạt. Với bước đi nhẹ nhàng, thanh thản, đồng chí tay xách vỏ “quà”
tiến thẳng đến đồn xe của địch, đồng chí tươi cười bắt chuyện làm quen để xin đi nhờ xe một
đoạn đường. Bọn chó đói như gặp mồi ngon, thèm thuồng trêu chọc, những tên sĩ quan kéo
đến xin thuốc vây quanh. Đồng chí đặt giỏ xuống mặt đường và ngồi xuống với tư thế sẳn
sàng, giả vờ lấy thuốc ra mời, bọn chúng tranh nhau vồ lấy. Chờ có thế, đồng chí nhanh tay
điều chỉnh mìn và ấn kíp. Một tiếng nổ kinh hoàng làm chấn động thị xã lúc ban mai; khói
phụt lên phủ đầu quân giặc, 18 tên cướp nước và bán nước đền tội, trong đó có một tên sĩ
quan Mỹ, một Trung úy và Thiếu úy ngụy; bị thương 9 tên khác, có một Đại úy, phá hủy một
xe Zeep, 2 xe quân sự GMC, sập một lô cốt, hỏng một mảng tường rào và một góc phịng
qn cảnh. Đặc biệt là bẻ gãy hoàn toàn kế hoạch hành quân của địch tại nơi xuất phát của
chúng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do Đảng và tổ chức phân công. Và đồng chí Hồ Thị Kỷ,
nữ biệt động ngoan cường, dũng cảm đã hy sinh ngay sau tiếng nổ ở chính tay mình. Nguyễn


Hải Tùng đã viết những vần thơ về giây phút ấy:


“... Phút thiêng liêng đến vội vàng
Làm sao nhắn gởi lại người thân
Cám ơn đồng chí nâng tầm vóc
Cho Kỷ nên người gái Việt Nam ...”


Đồng bào Cà Mau vô cùng khâm phục và thương tiếc người con gái anh hùng, dám hy
sinh cả cuộc đời đang thời son trẻ cho sự nghiệp vinh quang của đất nước.


Sau chiến thắng oanh liệt ấy, một phong trào noi gương Hồ Thị Kỷ nổi lên đều khắp
trong các đơn vị quân giải phóng và các đoàn thể thanh niên, phụ nữ ở địa phương. Từ địa
phương quân đến đơn vị du kích xã, ấp bừng bừng một sinh khí náo nức lập cơng với khẩu
hiệu “Sống và chiến đấu theo gương nữ liệt sĩ anh hùng Hồ Thị Kỷ”.


Tháng 5/1971, Hồ Thị Kỷ được Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam truy tặng
danh hiệu “Anh hùng các lực lượng võ trang nhân dân giải phóng Miền Nam”. Hồ Thị Kỷ đã
ngã xuống, nhưng tấm gương chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng của đồng chí vẫn cịn
sống mãi trong lòng các lực lượng võ trang và nhân dân ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

Để ghi nhớ tên tuổi và chiến công oanh liệt của nữ anh hùng liệt sỹ Hồ Thị Kỷ, quân và
dân xã Lợi An, đội biệt động Thị xã Cà Mau và nhiều trường học, đơn vị lấy tên “Hồ Thị Kỷ”
mãi đến ngày nay.


</div>

<!--links-->

×