Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN: ĐỔI MỚI GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG X PHÙ HỢP VỚI XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.42 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1.
Những vấn đề chung về xu thế phát triển giáo dục
1.1.

Một số khái niệm về xu thế phát triển giáo dục

1.2.
2.

Xu thế phát triển giáo dục của thế giới và Việt Nam
Những thành tựu và bất cập, yếu kém của giáo dục

2.1.

Việt Nam giai đoạn hiện nay
Những thành tựu đạt được

2.2.

Những bất cập và yếu kém

Trang
4
5
5
8
9
9


10

3.

Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
11

3.1.

phù hợp với xu thế giáo dục
Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục

11

3.2.

Việt nam trong giai đoạn hiện nay
Nội dung đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa

12

4.

và hội nhập quốc tế
Đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường X phù

16

4.1.


hợp với xu thế phát triển giáo dục
Nội dung chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế trong giáo dục, đào tạo ở nhà

4.2.

trường X hiện nay
Giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo ở nhà trường X phù

hợp với xu thế phát triển giáo dục
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

16
20
24
25

MỞ ĐẦU
Nghiên cứu, hiểu sâu sắc xu thế phát triển giáo dục có một ý nghĩa rất
quan trọng đối với tất cả mọi người, trước hết đối với các nhà quản lý các cấp
3


của Đảng, Nhà nước, các cán bộ quản lý giáo dục các cấp và đội ngũ thầy cô
giáo các ngành học, cấp học, đặc biệt quan trọng đối với các cán bộ nghiên
cứu khoa học về con người và khoa học giáo dục. Ngoài ra hiểu xu thế giáo
dục sẽ giúp tất cả mọi người như các bậc cha mẹ, các nhà quản lý kinh tế,
khoa học công nghệ, sinh viên các trường Đại học khối sư phạm... chủ động

sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức giáo dục, kinh nghiệm hoạt động giáo
dục, văn hố xã hội, có khả năng tự lý giải được những tồn tại, những biểu
hiện tích cực và tiêu cực trong cuộc sống thực tế và trong giáo dục.
Xu thế phát triển giáo dục thực chất là sự vận động của các quy luật
khách quan chi phối, chế ước quá trình giáo dục nhằm phát triển nguồn lực
người. Đồng thời, sự sáng tạo của con người trong việc vận dụng những quy
luật khách quan để phát triển con người, phát triển xã hội và khai thác tài
nguyên thiên nhiên. Nghiên cứu nắm vững xu thế phát triển giáo dục giúp nhà
quản lý, các cán bộ nghiên cứu khoa học đề xuất được những phương hướng,
xác định chiến lược, đề xuất những biện pháp... phát triển giáo dục nhằm khai
thác nguồn tài nguyên người có hiệu quả nhất, tối ưu nhất, chắc chắn sẽ tránh
được sự mò mẫm, lúng túng, thất bại. Nắm vững xu thế phát triển giáo dục
giúp tránh được hiện tượng duy ý chí trong hoạt động nghiên cứu khoa học,
trong quản lý và hoạt động giáo dục. Nắm vững xu thế phát triển giáo dục qua
các thời kỳ lịch sử, nhất là trong giai đoạn hiện nay giúp chúng ta biết tiếp thu
có chọn lọc lý luận và kinh nghiệm, từ đó tìm ra con đường riêng rút ngắn
khoảng cách phát triển giáo dục so với các nước phát triển để giáo dục thực
sự là nhân tố góp phần quyết định thành cơng của cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.

NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về xu thế phát triển giáo dục
1. 1. Một số khái niệm về xu thế phát triển giáo dục
1.1.1. Xu thế phát triển giáo dục
4


Xu thế phát triển giáo dục là một quá trình vận động, phát triển của lý
luận và thực tiễn giáo dục một cách khách quan do bị chế ước, chi phối đan xen,
giao thoa của các yếu tố tự nhiên, xã hội và con người trong điều kiện lịch sử

nhất định. Sự vận động và phát triển đó tồn tại khách quan ngoài ý muốn chủ
quan của mỗi cá nhân. Con người chỉ có thể vận dụng quy luật đưa ra những
định hướng phát triển phù hợp với quy luật thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát
triển giáo dục, phát triển con người, xã hội và sự ổn định của điều kiện tự nhiên.
Xu thế phát triển giáo dục có những đặc trưng sau đây:
Bị giao thoa, chế ước lẫn nhau của hàng loạt các yếu tố
Nội hàm cơ bản của phạm trù xu thế phát triển giáo dục cũng có các
tầng bậc khác nhau xuất phát từ mức độ của khái niệm giáo dục theo 3 cấp độ
(theo góc độ xã hội học giáo dục, giáo dục nhà trường, giáo dục đạo đức) và
xu thế phát triển giáo dục còn theo từng mặt giáo dục, từng nội dung giáo
dục, các cấp học… Mỗi lĩnh vực hoạt động đó cũng có những xu thế riêng
biệt, nhưng cũng có mối quan hệ lẫn nhau.
Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục ln ln vận động
Hoạt động giáo dục, q trình giáo dục xã hội là một hoạt động đặc
trưng của xã hội người và của con người, vừa có tính vật chất, vừa có tính ý
thức xã hội. Vì vậy, giáo dục không chỉ thuộc thượng tầng kiến trúc mà nó
cịn thuộc hạ tầng cơ sở.
Xu thế phát triển giáo dục là các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục tồn tại
khách quan, luôn luôn vận động, tác động lẫn nhau thúc đẩy nhau phát triển. Đó là
một quy luật tồn tại ngoài ý muốn của con người, con người ngày càng nhận thức
sâu sắc hơn và tìm cách vận dụng quy luật đó để phát huy vai trị của giáo dục.
Giữa lý luận và thực tiễn luôn thúc đẩy nhau cùng phát triển
Lý luận giáo dục cũng có các cấp độ khác nhau vì lý luận được tổng kết từ
những thực tiễn ở các mức độ khác nhau, có những lý luận giáo dục bắt nguồn
từ thực tiễn và ngược lại có những lý luận chi phối, định hướng của sự phát
triển thực tiễn. Lý luận là tri thức rút ra từ hoạt động thực tiễn, bắt nguồn từ
hoạt động thực tiễn và lại là kim chỉ nam cho hoạt động. Dù lý luận ở cấp độ
5



nào cũng nẩy sinh từ thực tế, đó là một hệ thống học thuyết, tư tưởng hay kinh
nghiệm cụ thể... cũng nẩy sinh từ hoạt động thực tiễn. Nhưng khi đã xuất hiện
lý luận. Dù đơn giản thì hoạt động thực tiễn của con người có hiệu quả hơn.
Con người càng hoàn thiện, xã hội loài người càng phát triển hoạt động thực
tiễn của con người càng đa dạng, càng phong phú, càng phức tạp… thì những
kinh nghiệm càng nhiều, càng đa dạng… và hệ thống lý luận càng sâu sắc.
1.1.2. Dự báo giáo dục
Dự báo giáo dục là một khoa học, có liên quan mật thiết với xu thế
phát triển giáo dục, nhưng không phải là một. Xu thế phát triển giáo dục và
dự báo phát triển giáo dục cũng có quan hệ gần như vậy. Nghiên cứu xu thế
phát triển giáo dục là tìm ra những logic biện chứng khách quan của những
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành phát triển giáo dục có tính phổ
biến và đặc trưng. Trên cơ sở đó, so sánh với các yếu tố đang tồn tại và diễn
biến sắp tới đưa ra những phương hướng, những khả năng cần thực hiện để
phát triển giáo dục cả về mặt nghiên cứu lý luận, cách thức tổ chức hoạt động
giáo dục và các phong trào giáo dục.
Dự báo giáo dục là một khoa học dựa trên xu thế phát triển giáo dục đưa ra
những khả năng cần nghiên cứu về lý luận, đề xuất những phương hướng tổ chức
đổi mới hoạt động quản lý, tổ chức hoạt động dạy học, giáo dục toàn diện hay từng
thành tố từng bộ phận của hệ thống giáo dục như mục tiêu, nội dung chương trình,
phương pháp, điều kiện, phương tiện… của hoạt động giáo dục của một ngành,
một cấp học, một môn học. Dự báo là điều sẽ có thể xẩy ra.
Đặc trưng thứ nhất của dự báo giáo dục là sẽ xẩy ra, có thể xẩy ra,
nhưng cũng có thể khơng xẩy ra, hoặc mới manh nha trong thực tiễn, chưa
trở thành phổ biến đại trà trên một diện rộng
Đã là dự báo thì có nghĩa là điều đó chưa xẩy ra, hoặc đang mới hình thành
, vì vậy có thể xẩy ra. Điều đó phụ thuộc vào sự phân tích các nhân tố chủ
quan và khách quan ảnh hưởng đến sự kiện dự báo. Dự báo giáo dục là một
việc làm khó vì mỗi hiện tượng giáo dục bị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Nhất là những dự báo giáo dục có tính chiến lược bị chế ước càng nhiều

6


những yếu tố tự nhiên - xã hội và bản thân các yếu tố nhất là các yếu tố xã hội
lại luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng.
Đặc trưng thứ 2 của dự báo là các đề xuất có thể trở thành hiện thực và
cũng có thể khơng trở thành hiện thực vì phụ thuộc vào nhà quản lý
Trở thành hiện thực với hai điều kiện: thứ nhất những dự báo đề xuất
được đưa ra dựa trên xu thế phát triển giáo dục, phân tích tổng hợp những quy
luật, những yếu tố khách quan phổ biến và đặc thù liên quan đến vấn đề dự
báo. Điều kiện thứ 2, những người quản lý (yếu tố chủ quan) có Tâm, có Tầm,
có Năng lực tổ chức thực hiện phương hướng phát triển giáo dục vì sự phát
triển xã hội, vì tương lai hay khơng.
Trong thực tế khơng phải khơng có những nhà quản lý nhận thức được
xu thế phát triển cần phải thực hiện những dự báo phát triển kinh tế, khoa học
cơng nghệ, văn hố giáo dục… Nhưng, vì quyền lợi của cá nhân họ không
thực hiện những nhiệm vụ, mà họ làm những việc để có lợi kinh tế hoặc tạo ra
một danh vọng trước mắt…
Đặc trưng thứ 3 của dự báo là dự báo giáo dục chỉ có thể đưa ra những
phương hướng chung cần nghiên cứu, cần thực hiện để phát triển giáo dục
Vì dự báo là những đề xuất chưa trở thành hiện thực hoặc mới bắt đầu
hình thành nên chưa có kinh nghiệm, chưa có biện pháp và hình thức thực
hiện. Tuỳ theo nội dung dự báo mà khả năng đưa ra biện pháp có tính khả thi
nhiều hay ít. Có những dự báo chiến lược có tính lâu dài, liên quan đến nhiều
lĩnh vực của giáo dục và xã hội thì lại càng khó có những biện pháp cụ thể.
Căn cứ vào xu thế phát triển chung, mỗi quốc gia có thể có những dự báo
giáo dục và tìm cách thực hiện những vự báo đó theo những cách khác nhau
phù hợp với thực tế của mỗi nước. Dự báo là cái chưa xẩy ra, sẽ xẩy ra, có thể
xẩy ra vì vậy kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng cụ thể để thực hiện chưa được
tổng kết, vì vậy các dự báo chỉ là phương hướng có tính mục tiêu, giải pháp

lớn. Trừ những dự báo trong một thời gian ngắn, một hoạt động cụ thể ví dụ
dự báo hiệu quả của một giờ lên lớp, một hoạt động giáo dục…
1.2. Xu thế phát triển giáo dục thế giới và Việt Nam
7


Giáo dục là quốc sách hàng đầu
Vào thập niên 70 của thế kỷ XX, UNESCO đã đưa ra quan điểm: “Con
người đứng ở trung tâm của sự phát triển”, giáo dục đã được thừa nhận là nhân
tố hàng đầu để con người thực hiện vai trị đó. Hiện nay, trước sự phát triển của
kinh tế - xã hội, con người được giáo dục tốt và biết tự giáo dục vừa là mục đích
vừa là tác nhân của sự phát triển. Trong cạnh tranh để tự khẳng định và đề phát
triển các nước, các dân tộc trên thế giới coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Ở
Việt Nam từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII cho đến nay, Đảng ta luôn
xác định: giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển.
Giáo dục mang tính đại chúng
Giáo dục là của đơng đảo quần chúng nhân dân. Tính đại chúng được thể
hiện ở sự bùng nỗ sĩ số học sinh, sinh viên. Giáo dục phổ cập đang diễn ra ở
nhiều nước. Giáo dục cho mọi người đang là mối quan tâm hàng đầu.
Giáo dục phát triển theo xu thế học suốt đời
Học suốt đời là học tập liên tục trong suốt cả cuộc đời; học trong nhà trường,
học trong công việc; học trong cuộc sống, sinh hoạt. Vai trò của học suốt đời: Học
suốt đời có thể tận dụng được thời gian trong học tập; học suốt đời làm cho kiến
thức thu nhận được có ý nghĩa thực tiễn, có kỹ năng và phương pháp để vận dụng
lý luận vào thực tiễn; người học có cơ hội cập nhật những tri thức hiện đại.
Giáo dục hướng vào mục tiêu phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại
Trong thời đại văn minh hậu công nghiệp, khuynh hướng nâng cao giá trị
của con người trong sự phát triển càng được quan tâm. Xu thế hịa bình, hợp tác,

nhân quyền đang đặt ra cho con người hiện đại những phẩm chất và năng lực mới.
Con người hiện đại cần phải có các năng lực như: tư duy sáng tạo, hợp tác, làm
việc nhóm, phát hiện và giải quyết vấn đề,... học thường xuyên và học suốt đời.
Trong mối quan hệ giữa người dạy với người học vai trò người học ngày
càng được đề cao

8


Giáo dục truyền thống ln đề cao vai trị của người dạy, người dạy làm
trung tâm, “sư phạm quyền uy”. Giáo dục hiện đại vai người học được đề cao;
người học thực sự là người đi học chứ không phải là người được dạy. Dạy học dựa
trên quan điểm tiếp cận “lấy học sinh làm trung tâm”. Vai trò của người học được
thể hiện trong từng khâu, từng bước của q trình dạy học.
Tăng cường ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giáo dục
Công nghệ thông tin làm thay đổi mơ hình giáo dục, làm xuất hiện mầm
mống sư phạm trong giáo dục. Giáo dục trong thời công nghệ thông tin, một
trong những phương tiện chủ yếu là dựa vào máy tính cá nhân, mạng internet.
Cơng nghệ thơng tin thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của giáo dục như: hoạt
động dạy, hoạt động học và quản lý giáo dục.
2. Những thành tựu và bất cập, yếu kém của giáo dục Việt Nam giai
đoạn hiện nay
2.1. Những thành tựu đạt được
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu học tập của nhân dân. Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo
tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ. Trình
độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng
cao một bước.
Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đó được cải thiện, đặc biệt

người dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối tượng
bị thiệt thịi ngày càng được quan tâm.
Cơng tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực. Đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất lượng, từng
bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục
và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo.
Cơng tác xã hội hóa giáo dục đã đạt được những kết quả quan trọng.
Các nguồn đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát chặt chẽ và tăng
dần hiệu quả sử dụng.
9


Giáo dục ngồi cơng lập phát triển, đặc biệt trong giáo dục nghề nghiệp
và đại học. Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện. Cơ sở vật chất, thiết bị
giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học
sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân
tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong
giáo dục và đào tạo.
2.2. Những bất cập và yếu kém
Hệ thống giáo dục quốc dân thiếu tính thống nhất, thiếu liên thơng giữa
một số cấp học và một số trình độ đào tạo, chưa có khung trình độ quốc gia về
giáo dục; cịn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành.
Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong
thời kỳ mới và so với trình độ của các nước có nền giáo dục tiên tiến trong khu
vực, trên thế giới, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ơm đồm, sự
vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi
đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính.
Một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu,

nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu cục
bộ, vừa không đồng bộ về cơ cấu chun mơn.
Nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, công tác thi, kiểm tra,
đánh giá chậm được đổi mới.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chính sách, cơ chế tài chính cho
giáo dục và đào tạo chưa phù hợp.
Nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục còn
hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển giáo dục. Chất lượng và
hiệu quả nghiên cứu khoa học trong các trường đại học còn thấp; chưa gắn
kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất.

10


Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đầu tư cho giáo dục và
đào tạo chưa hiệu quả.
3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam phù hợp với
xu thế giáo dục
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt nam trong giai đoạn hiện nay
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục đã và đang đặt ra như một tất
yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay, đó chính là điểm tựa cơ bản để tiếp
tục gợi mở tư duy và cách làm mới đối với sự phát triển giáo dục nước nhà.
Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam xuất phát
từ những nhân tố cơ bản sau:
Một là, từ khi giành được độc lập (năm 1945) đến nay, nước ta đã ba lần
tiến hành cải cách giáo dục vào năm 1950, năm 1956 và năm 1979. Cùng với
công cuộc đổi mới đất nước, Ngành Giáo dục đã có nhiều đổi mới ở các cấp học
và trên nhiều lĩnh vực. Năm 1996, Hội nghị Trung ương 2 (khoá VIII) đã ban

hành Nghị quyết về chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố và nhiệm vụ đến năm 2000. Các cuộc cải cách và đổi
mới này về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn
phát triển, góp phần to lớn vào thanứg lợi của cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, giáo dục, đào tạo cũng đã tích tụ nhiều hạn chế và yếu kém kéo
dài, chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được u cầu cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Hai là, nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng
và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh, đòi hỏi phải xây dựng được nguồn lực chất lượng cao trong thời gian
tương đối ngắn. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo là yêu
cầu cấp thiết để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đưa đất nước cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và tạo tiền đề vững chắc cho
phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

11


Ba là, trong nền kinh tế tri thức và quá trình tồn cầu hố, cạnh tranh giữa
các quốc gia suy cho cùng là cạnh tranh về năng lực trí tuệ, thể hiện qua chất
lượng nhân lực, trình độ khoa học và công nghệ. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra
con người Việt Nam có tri thức, có khả năng sáng tạo, tiếp thu và làm chủ khoa
học và công nghệ hiện đại. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Giáo dục và đào
tạo có xứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
góp phần quan trọng vào xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hoá và con
người Việt Nam. Phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục, đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất
lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập

quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh
xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập
suốt đời”. Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục trong Chiến lược phát triển
giáo dục Việt Nam chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc
tế”. Trong bối cảnh nêu trên, cần phải thực hiện đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục, đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. 2. Nội dung đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế
Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục không phải là làm lại tất cả,
làm lại từ đầu mà là kế thừa, phát triển những quan điểm, chỉ đạo đúng đắn của
Đảng, Chính phủ và của ngành giáo dục. Trên cơ sở đó, đổi mới từng bước, có
trọng tâm ở những khâu then chốt và có tác dụng đột phá nhằm tạo được những
chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo, khắc phục dứt điểm những
yếu kém, bức xúc kéo dài trong hệ thống giáo dục, đào tạo.

12


Yêu cầu phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo, hệ thống tổ
chức, loại hình giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp dạy và học đến cơ
chế vận hành, cơ chế quản lý, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật
chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới toàn bộ hệ thống giáo dục,
bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, đào tạo nghề.
Đây là những vấn đề hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác
nhau, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn trọng,
tạo sự thống nhất cao để ban hành Nghị quyết vào thời gian thích hợp.
Nội dung chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc

tế về giáo dục được thể hiện trên những vấn đề cơ bản như sau:
Chuẩn hóa
Chuẩn hố giáo dục là việc xác lập và thực hiện những tiêu chuẩn, tiêu chí
cơ bản cần đạt tới, nhằm làm cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo phát triển đúng
hướng. Những tiêu chuẩn cơ bản được xác lập phải phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và theo hướng giáo dục
tiên tiến, hiện đại. Chuẩn hoá giáo dục bao gồm nhiều lĩnh vực như: chuẩn quốc
gia đối với các loại hình trường lớp; chuẩn đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo
viên về trình độ đào tạo, năng lực chun mơn, phẩm chất đạo đức; chuẩn về cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học, các tổ chức và hoạt động giáo dục, chất lượng
đào tạo, nội dung chương trình, sách giáo khoa, yêu cầu cơ bản kiến thức kỹ
năng cần đạt tới ở từng mơn học, cấp học…Chuẩn hố và hiện đại hố giáo dục
có quan hệ mật thiết với nhau. Hoạt động theo hướng chuẩn hoá phát triển sẽ đạt
được yêu cầu của hiện đại hoá. Hiện đại hoá thành cơng sẽ đạt được chuẩn hố.
Hiện đại hóa
Hiện đại hố giáo dục, đào tạo trong giai đoạn hiện nay là việc phát triển
giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, làm cho giáo dục nước nhà từng bước đuổi kịp sự phát triển giáo dục các
nước tiên tiến. Hiện đại hoá trên các lĩnh vực như: mạng lưới trường lớp, cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy học, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nội dung
chương trình, phương pháp dạy học…
13


Hiện đại hóa giáo dục nước ta hàm nghĩa phát huy truyền thống giáo
dục Việt Nam với sự sáng tạo mới, mang lại sức sống mới cho nền giáo dục.
Đó là một nền giáo dục thu hút tiếp nhận được những tư tưởng giáo dục mới,
nội dung giáo dục, hình thức giáo dục mới đa dạng, phong phú tiên tiến, hiện
đại… của nhân loại; kết hợp hài hoà với nền giáo dục Việt Nam truyền thống
một mặt vốn đang tích trữ và lưu giữ lịch sử dựng nước và giữ nước, mặt

khác cũng đang là sự tồn tại của hiện thực.
Xã hội hóa
Xã hội hố giáo dục là định hướng hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức xã
hội đối với giáo dục. Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là nhà nước phải tạo ra
không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo
dục mà ở đó ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh
tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội. Xã hội hóa
giáo dục, do đó, cần phải chỉ ra vai trị của xã hội trong sự nghiệp xã hội hóa
giáo dục. Trong xã hội hoá giáo dục mỗi cá nhân tham gia vào quá trình giáo
dục đồng thời thơng qua hoạt động giáo dục mỗi người tự điều chỉnh mình, huy
động mọi nguồn lực phát triển sự nghiệp giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức Đảng,
các cấp chính quyền, các đồn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế- xã hội, các gia
đình và các cá nhân có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo
dục, đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục, đào tạo.
Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội tạo nên mơi
trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể...
Dân chủ hóa
Dân chủ hóa giáo dục thực chất là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong giáo dục, đảm bảo quyền dân chủ của mọi người tham gia hoạt động giáo dục.
Thực hiện dân chủ hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực căn bản của
công cuộc đổi mới giáo dục. Dân chủ hóa mọi hoạt động giáo dục sẽ làm cho
mọi tiềm năng sáng tạo của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và học
sinh, sinh viên được phát huy, tính tích cực, chủ động tham gia và quá trình

14


dạy và học được tăng lên tạo cho sự nghiệp đổi mới giáo dục ngày càng nâng
cao chất lượng và có hiệu quả cao.
Dân chủ trong giáo dục được thực hiện trực tiếp và chủ yếu trước hết thông

qua sự lãnh đạo và quản lý bằng các đạo luật và các văn bản pháp quy, bằng xây
dựng quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng pháp quyền vì nhân dân, của nhân
dân, do nhân dân và thực sự vì lợi ích của nhân dân; ngành Giáo dục tạo điều kiện
để thầy và trò và những người đang hoạt động giáo dục tham gia vào quản lý nhà
nước về giáo dục thông qua kiểm tra, giám sát các cơ quan quản lý nhà nước và các
cán bộ quản lý về giáo dục. Để đối mới căn bản nền giáo dục theo hướng dân chủ
còn cần tăng cường vai trò của Cơng đồn ngành Giáo dục và vai trị khơng thể
thiếu của các hiệp hội về giáo dục như hội Khuyến học, hội Giáo chức, hội các
trường ngồi cơng lập…
Hội nhập quốc tế
Với nhận thức chung: “nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”
nền giáo dục nước ta trước đây về quan hệ quốc tế được thực hiện chủ yếu
với các nước xã hội chủ nghĩa; 25 năm nay, ngành giáo dục đã mở rộng quan
hệ theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế về giáo dục với
tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới ở tất cả các cấp độ song
phương, khu vực và toàn cầu.
Trong xu thế toàn cầu hóa về giáo dục, các cơ quan quản lý nhà nước về
giáo dục ở nước ta, các cơ sở giáo dục cần chủ động và tích cực hội nhập sâu và
rộng trong hội nhập giáo dục quốc tế, đặc biệt với các nước có nền giáo dục tiên
tiến, hiện đại và nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ
chức Thương mại Thế giới WTO, giáo dục nước ta phần nào cũng đã được nâng
lên tầm cao mới và đang có chiều hướng phát triển mạnh. Đây là cơ hội và thời
cơ lớn để có điều kiện mở rộng thêm quan hệ hợp tác về giáo dục, mở rộng các
dịch vụ giáo dục, tranh thủ thêm nhiều nguồn lực cho phát triển giáo dục giáo
dục trong đó có cả tiền của, cơng nghệ và kinh nghiệm phát triển giáo dục.
Quản lý ngành giáo dục cần thực sự giao quyền tự chủ và nâng cao trách
nhiệm cho các cơ sở giáo dục trong hợp tác quốc tế về giáo dục theo hướng phát
15



huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả giáo dục và xây dựng thương hiệu giáo dục
trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc hai bên hoặc nhiều bên cùng có
lợi và có bước đi, cách làm hợp lý trong hội nhập quốc tế và xu hướng tồn cầu hóa
về giáo dục.
4. Đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường X phù
hợp với xu thế phát triển giáo dục
4.1. Nội dung chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội
nhập quốc tế trong giáo dục, đào tạo ở nhà trường X hiện nay
Những năm qua, các nhà trường X đã bám sát đường lối, chủ trương của
Đảng, Nhà nước, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành, trực tiếp là Bộ Giáo
dục và Đào tạo để triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nội dung,
chương trình đào tào. Bộ X cũng đang xây dựng và hướng tới hoàn thiện, triển
khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong X giai đoạn mới trên
cơ sở quán triệt chủ trương, định hướng lớn trong Chiến lược phát triển giáo dục
của Chính phủ. Quan điểm “Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế” trong đổi mới giáo dục, đào tạo ở nhà trường X được thể hiện
trên những nội dung cơ bản sau:
Chuẩn hóa trong giáo dục, đào tạo ở nhà trường X
Trong các nhà trường, quan điểm “chuẩn hóa” phải được tiến hành đồng
bộ từ cơ cở hạ tầng đến các khâu, các bước, các thành tố của quá trình giáo dục,
đào tạo. Chuẩn hóa q trình đào tạo là hạt nhân của của chuẩn hóa nhà trường.
Đối với các nhà trường X, vấn đề “chuẩn hóa” giáo dục, đào tạo hiện nay tập
trung vào chuẩn hóa về mục tiêu, yêu cầu, ngành nghề, lưu lượng, trình độ, cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường
chính quy; quy hoạch đồng bộ hệ thống nhà trường quân đội; xây dựng chuẩn
"đầu vào", "đầu ra" các đối tượng đào tạo tại các nhà trường; xây dựng quy
hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo. Hệ thống nhà trường X quy hoạch theo
hướng trường trọng điểm quốc gia, gắn với chuẩn quy định của Nhà nước và Bộ
Quốc phòng. Các nhà trường tập trung phấn đấu xây dựng đạt chuẩn, đặc biệt là


16


đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ
dạy và học, nghiên cứu khoa học.
Hiện nay, vấn đề đang nổi lên đáng quan tâm ở các nhà trường X là chuẩn
hóa về mơ hình, mục tiêu đào tạo. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
trùng lặp về nội dung và thiếu tính thuyết phục trong đổi mới phương pháp dạy
học ở nhà trường X hiện nay là do mô hình mục tiêu đào tạo chưa rõ ràng. Mâu
thuẫn đang nổi lên trong chuẩn hóa mục tiêu đào tạo của hệ thống nhà trường X
là thiếu tính hệ thống, nhất quán, thiếu sự rạch ròi giữa mục tiêu đào tạo theo
chức vụ và mục tiêu đào tạo theo học vấn, giữa các cấp học và bậc học. Vì vậy,
phương hướng chuẩn hóa mục tiêu đào tạo của các nhà trường X hiện nay là
phải nghiên cứu, phát triển lý luận nhằm giải quyết mâu thuẫn đó, cụ thể hóa
mục tiêu, biến những thơng số định tính về mục tiêu thành các chỉ số định lượng
có thể phân biệt được. Cùng với việc quy hoạch, nâng cấp quy mô đào tạo, các
nhà trường X phải triển khai đồng bộ, có hiệu quả xây dựng quy trình, chương
trình, nội dung, tổ chức, phương pháp giáo dục, đào tạo, tổ chức đào tạo theo
chương trình mới đã được Bộ X phê duyệt ban hành; thực hiện nghiêm quy chế
đào tạo đại học, vừa bảo đảm thống nhất theo quy định chung của Nhà nước,
vừa đáp ứng đặc thù, quy định của Bộ X.
Hiện đại hóa trong giáo dục, đào tạo ở nhà trường X
Hiện đại hóa là yêu cầu khách quan trong quá trình đổi mới, phát triển
giáo dục, đào tạo ở các nhà trường X; đồng thời vừa là một mục tiêu, vừa là
động lực của chuẩn hóa. Nội dung hiện đại hóa trong đổi mới giáo dục, đào tạo ở
nhà trường X hiện nay là phải gắn quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo với công
cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ mới. Quá trình đổi mới phải đứng vững trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng về giáo dục; đồng thời, phải sử dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ, tâm lý học, giáo dục học hiện đại để xây dựng những hệ dạy học tối ưu;

phải bám sát thực tiễn, đi trước, đón đầu sự phát triển của thực tiễn xã hội. Bên
cạnh đó, cần tập trung đầu tư, hiện đại hóa hệ thống X phục vụ cho giáo dục, đào
tạo và nghiên cứu khoa học.
17


Xã hội hóa trong giáo dục, đào tạo ở nhà trường X
Xã hội hóa giáo dục là xu hướng phát triển của nền giáo dục hiện đại. Đối
với các nhà trường X, thực hiện xã hội hóa giáo dục trước hết là gắn nhà trường
với đơn vị, nhà trường với thao trường và chiến trường. Một mặt đưa học viên,
cán bộ, giảng viên ra thực tiễn đơn vị để học trong thực tiễn; mặt khác, phải huy
động cán bộ các đơn vị về nhà trường tham gia giảng dạy các chuyên đề về thực
tiễn liên quan đến nội dung môn học. Trong thời đại ngày nay, xã hội háo giáo
dục phải gắn với hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo quân sự nhằm thu hút các
nguồn lực từ bên ngồi để đẩy mạnh q trình chuẩn hóa, hiện đại hóa cảu các
nhà trường X.
Trong xã hội hố giáo dục, mỗi cá nhân tham gia vào quá trình giáo dục,
đồng thời thông qua hoạt động giáo dục mỗi người tự điều chỉnh mình, huy
động mọi nguồn lực phát triển sự nghiệp giáo dục. Với quan điểm: giáo dục, đào
tạo là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân, các nhà trường X cần tạo
điều kiện tối đa cho mọi học viên, cán bộ, giảng viên được học tập, rèn luyện,
không ngừng trau dồi phẩm chất, năng lực nghệ nghiệp. Cấp ủy, chỉ huy các cấp
và các tổ chức đồn thể có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp
giáo dục, đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục, đào
tạo của nhà trường. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở nhà trường, đơn vị. Bảo đảm
chất lượng, từng bước nâng số lượng, mở rộng đào tạo nghề dài hạn.
Dân chủ hóa trong giáo dục, đào tạo ở nhà trường X
Dân chủ hóa giáo dục trong các nhà trường X hiên nay cần quán triệt và
thực hiện tốt quyền dân chủ của của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục

và học viên trong tham gia các hoạt động giáo dục; tạo điều kiện cho họ được
phát huy tính tích cực, chủ động và tiềm năng sáng tạo của mình. Các nhà
trường X cần xây dựng chuẩn hệ thống văn bản pháp quy về giáo dục (nghị
quyết, chỉ thị, kế hoạch, quy chế, quy định…) để thống nhất về nhận thức, hành
động, cách thức, nội dung thực hiện; trên cơ sở hệ thống văn bản đó, cán bộ,
giảng viên, học viên tham gia đóng góp ý kiến, bày tỏ nhận thức, quan điểm của
18


mình trong quán trình quán triệt và tổ chức thực hiện. Tạo điều kiện cho cán bộ,
giảng viên, học viên, nhân viên tham gia vào công tác quản lý giáo dục thông qua
kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức, các lực lượng trong nhà trường. Bên
cạnh đó cần phát huy vai trị của các tổ chức đồn thanh niên, tập thể quân
nhân… trong tổ chức các hoạt động giáo dục, đào tạo.
Một vấn đề hết sức quan trọng đối với công tác giáo dục, đào tạo của các nhà
trường X trong thực hiện dân chủ hiện nay là giải quyết mối quan hệ thầy - trò. Do
yêu cầu đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy nên mối
quan hệ thày - trò cũng phải được đổi mới. Các nhà trường X cần quan tâm tạo điều
kiện cho học viên tiếp xúc, trao đổi với giáo viên nhiều hơn trong quá trình học tập.
Học viên có thể bày tỏ quan điểm của mình về nội dung học tập cũng như góp ý
cho giáo viên về phương pháp giảng bài để cùng hướng tới cái đích chung là nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường.
Hội nhập quốc tế trong giáo dục, đào tạo ở nhà trường X
Các cấp, các ngành trong X phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của
Đảng, Nhà nước trong việc đầu tư các nguồn lực cho công tác giáo dục, đào
tạo, xây dựng nhà trường X. Nâng cao hiệu quả hợp tác, mở rộng liên kết đào
tạo với nước ngoài; đầu tư cho việc mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy một
số ngành trong nhà trường X theo đúng quy định; tích cực nghiên cứu kinh
nghiệm đào tạo của các nước; mở rộng đào tạo học viên quân sự nước ngoài
trong các nhà trường X; củng cố cơ quan quản lý học viên nước ngoài các cấp

theo yêu cầu mới.
Tích cực tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ, giảng viên, học viên cử ra nước
ngoài đào tạo, nghiên cứu các ngành khoa học; tập trung vào những chuyên ngành
kỹ thuật mũi nhọn, đào tạo kỹ sư đầu ngành. Thực hiện tốt liên kết đào tạo giữa các
trường trong và ngoài để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, nghiên
cứu khoa học.
4.2. Giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo ở nhà
trường X phù hợp với xu thế phát triển giáo dục

19


Một là, đẩy mạnh việc quy hoạch hệ thống nhà trường X; nâng cao hiệu
quả chỉ đạo, quản lý đào tạo và xây dựng nhà trường.
Thực hiện công tác này, các cơ quan chức năng, nhà trường, đơn vị cần
bám sát hướng tổ chức trong những năm tới để xây dựng quy hoạch hệ thống
nhà trường X sao cho tinh, gọn, ổn định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, bậc
học, ngành nghề và lưu lượng đào tạo; trong đó, ưu tiên xây dựng trường trọng
điểm đạt chuẩn quốc gia, khu vực và quốc tế. Việc quy hoạch mạng lưới nhà
trường X, một mặt, phải chú ý góp phần giảm sự mất cân đối giữa các vùng,
miền, phù hợp với nhu cầu đào tạo thời bình; mặt khác, vẫn bảo đảm đủ năng
lực để mở rộng quy mô đào tạo khi cần thiết.
Cùng với quá trình quy hoạch, cơ quan chức năng cần phối hợp với các
nhà trường đẩy mạnh việc hồn thiện cơ chế phân cơng, phân cấp chỉ đạo, đầu
tư, bảo đảm, tránh chồng chéo, phân tán; đồng thời, hoàn thiện hệ thống văn
bằng của các bậc học và xây dựng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà trường
quân đội. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bên cạnh việc tổ chức luyện tập,
diễn tập đánh giá kết quả huấn luyện, đào tạo, các nhà trường còn phải tích cực
tham gia các hoạt động diễn tập của tồn quân và thực hiện nghiêm chế độ sẵn
sàng chiến đấu gắn với xây dựng và củng cố địa bàn nơi đóng qn.

Hai là, tiếp tục kiện tồn, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lý giáo dục
Từng trường căn cứ vào nhiệm vụ, quy mô đào tạo để xây dựng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý đạt chuẩn theo quy định của Chính phủ. Lãnh đạo, chỉ huy
các nhà trường đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo bảo đảm đủ số
lượng và chất lượng, có lượng dự trữ đúng theo quy định của Bộ X. Trong quá
trình phát triển đội ngũ, trường nào cũng phải chú ý xây dựng các chuyên gia đầu
ngành, các nhà giáo có trình độ cao; kết hợp chặt chẽ việc tạo nguồn với đào tạo và
sử dụng; tận dụng kinh nghiệm của các nhà giáo đã qua thực tiễn chiến đấu, xây
dựng đơn vị vào hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh việc tự
đào tạo, từng trường căn cứ vào nhu cầu, điều kiện cụ thể để hợp tác, liên kết đào
tạo với các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm,
20


các nhà trường thường xuyên đưa cán bộ, giảng viên đi thực tế đơn vị, cần tăng
cường mời lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia đầu ngành và chỉ
huy các đơn vị tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đó là cách thiết thực
giúp cho nhà trường gắn liền với địa phương, đơn vị; giúp người học, kể cả đội ngũ
giảng viên, rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết với thực tế.
Ba là, đổi mới quy trình, chương trình, nội dung và
phương pháp giáo dục, đào tạo
Mục tiêu đổi mới quy trình, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo
thống nhất với mục tiêu xây dựng ….. Do đó, phải đổi mới quy trình, chương
trình, nội dung giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phù hợp
với mặt bằng chung của hệ thống giáo dục quốc gia và phản ánh hoạt động đặc
thù của lĩnh vực ….. Để đảm bảo việc đổi mới quy trình đạt kết quả thiết thực,
các nhà trường cần chủ động rà soát kỹ các đối tượng; trên cơ sở đó, xây dựng
chương trình chuẩn, phù hợp; khắc phục sự trùng lắp về kiến thức ở các bậc học;
dành thời gian để cập nhật sự phát triển mới về khoa học - kỹ thuật, khoa học xã

hội nhân văn trong điều kiện mới. Yêu cầu của việc đổi mới chương trình, nội
dung là: tồn diện, đồng bộ, coi trọng cả giáo dục và đào tạo, cả rèn luyện phẩm
chất, nhân cách và huấn luyện về năng lực chỉ huy, chuyên môn nghiệp vụ.
Đi đôi với đổi mới quy trình, chương trình, nội dung, đổi mới phương
pháp dạy - học cần phải được các nhà trường coi là giải pháp đột phá để nâng
cao chất lượng đào tạo. Về đổi mới cách dạy, cần khắc phục lối truyền thụ một
chiều (thầy đọc, trị ghi, thầy nói, trị cơng nhận); thay vào đó, người dạy và
người học tăng cường đối thoại, tranh luận, gợi mở, nêu vấn đề; người dạy dạy
người học phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo, phát hiện cái mới. Đổi mới
cách dạy còn là việc đa dạng hóa các loại hình, phương pháp dạy - học nhằm
khai thác, ứng dụng triệt để các thành tựu về khoa học và công nghệ, nhất là
công nghệ viễn thông, tin học, ngoại ngữ vào việc nghiên cứu, xây dựng hệ
thống bài giảng điện tử, thiết bị mô phỏng để tăng cường tính trực quan cho
người học. Đào tạo con người hoạt động trong lĩnh vực …, nên người dạy phải
luôn đặt người học vào môi trường tác chiến, rèn luyện tác phong sát thực tế, sát
21


chiến trường, sát chức trách của đối tượng đào tạo; từng bước hình thành cho
người học khả năng thích ứng với thực tiễn.
Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kết hợp chặt chẽ giáo
dục, đào tạo với nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học nói chung là nhiệm vụ đặt ra cho mọi cơ quan, đơn
vị; trong đó, nhà trường X có vai trị hết sức quan trọng. Để làm tốt nhiệm vụ
này, từng trường cần tạo ra phong trào nghiên cứu khoa học sâu rộng trong cán
bộ, giảng viên và học viên, hướng chủ thể nghiên cứu vào các đề tài trực tiếp
phục vụ nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nhiệm vụ mà nhà trường có nhiệm vụ đào
tạo. Các học viện, nhà trường đào tạo bậc đại học và sau đại học còn phải hướng
cán bộ, giảng viên, học viên nghiên cứu sâu về các đề tài khoa học xã hội nhân
văn, khoa học kỹ thuật, lý luận và thực tiễn.

Năm là, tăng cường phối hợp giữa các học viên, nhà trường và các đơn vị
cơ sở, giữa các nhà trường X với các nhà trường ngoài X và phát triển hợp tác
quốc tế về giáo dục, đào tạo
Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, nhà trường gắn với chiến
trường, nhà trường gắn với đơn vị là những phương châm chỉ đạo chiến lược,
đồng thời là nguyên tắc cơ bản của hoạt động giáo dục, đào tạo ở các nhà trường
X hiện nay. Do vậy, cần chú trọng thực hiện tốt liên kết đào tạo giữa các trường
trong và ngoài X để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa
học; đồng thời, tham gia đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; tăng cường chất lượng quan hệ giữa các nhà trường và đơn
vị trong việc cử cán bộ về học tập, trong sử dụng cán bộ ra trường, trong đánh giá
kết quả thực tập của học viên và trình độ, năng lực của học viên tốt nghiệp. Thực
hiện tốt phương châm “đào tạo theo địa chỉ”, “đào tạo theo đơn đặt hàng” của đơn
vị. Triển khai nghiên cứu, khảo sát toàn diện nhu cầu các đơn vị sử dụng sản
phẩm đào tạo của các nhà trường. Mặt khác, các nhà trường quân sự cần từng
bước hoạch định, xây dựng chiến lược phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục, đào
tạo phù hợp với thay đổi của tình hình thế giới, khu vực và trong nước; nâng cao
hiệu quả hợp tác, mở rộng liên kết đào tạo với nước ngoài; tích cực nghiên cứu
22


kinh nghiệm đào tạo của các nước. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và các
mặt công tác bảo đảm khác cho việc mở rộng đào tạo học viên quân sự nước
ngoài trong các trường quân đội. Củng cố cơ quan quản lý học viên nước ngoài
các cấp theo yêu cầu mới.
Sáu là, tăng cường đầu tư theo hướng “chuẩn hóa” cơ sở vật chất và ứng
dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại cho công tác quản lý giáo dục, đào tạo ở các
học viện, nhà trường.
Trước hết cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho phòng quản
lý và điều hành huấn luyện đáp ứng yêu cầu thu thập, nắm tình hình, xử lý và

quản lý thông tin để phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Mặt khác,
cần đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng và phát triển các
phần mềm chuyên dụng để quản lý từng nội dung của nhiệm vụ giáo dục, đào
tạo ở các cơ sở đào tạo và cả hệ thống giáo dục, đào tạo trong X bằng mạng vi
tính; tập trung đầu tư nâng cấp thao trường, bãi tập, trung tâm huấn luyện dã
ngoại, thư viện, phòng học chuyên ngành, cơ sở thực hành. Ưu tiên đầu tư
phịng thí nghiệm cơng nghệ cao cho một số ngành mũi nhọn phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy, thực hành và sản xuất; sử dụng tốt các trang bị hiện có, mua
sắm, điều động vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới cho nhà trường. Quản lý chặt
chẽ cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện có; khai thác và sử dụng có hiệu quả các
loại cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy - học trong quá trình đào tạo.

KẾT LUẬN
23


Xu thế phát triển giáo dục là một quá trình vận động, phát triển của lý
luận và thực tiễn giáo dục một cách khách quan. Sự vận động và phát triển đó
tồn tại khách quan ngồi ý muốn chủ quan của mỗi cá nhân. Con người chỉ có
thể vận dụng quy luật đưa ra những định hướng phát triển phù hợp với quy
luật thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển giáo dục, phát triển con người, xã
hội và sự ổn định của điều kiện tự nhiên. Nhận thức được vấn đề đó, nền giáo
dục Việt Nam đã có sự điều chỉnh phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa
với quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”. Đó là định
hướng lớn cho sự phát triển giáo dục nước ta hiện nay.
Quán triệt quan điểm “đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hố, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”
vào đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường X là hết sức quan trọng và
cần thiết. Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà

trường X sẽ đáp ứng được yêu cầu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, bảo đảm cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
đồng thời đáp ứng được u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
24


1. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Đề án trình Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI) Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo đáp ướng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hoá trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
2. Đặng Quốc Bảo (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TƯ 8, Khóa XI về đổi mới căn
bản, tồn diện giáo dục và đào tạo.
4. Trần Khánh Đức, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ
XXI, Nxb giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
5. Bùi Minh Hiền, Quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006.
6. Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội, 2009.
7. Đặng Bá Lãm (2005), Quản lý nhà nước về giáo dục - Ý nghĩa lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
8. Nghị quyết 86/NQ-ĐUQSTƯ của Quân ủy Trung ương về phát triển
giáo dục, đào tạo thời kỳ mới.

25




×