LUẬN VĂN:
Một số kiến nghị về chính sách hỗ trợ kinh tế
nhằm điều chỉnh cơ cấu sinh viên đào tạo
bậc đại học cho phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế của Việt nam trong thời gian tới
Lời nói đầu
Trong bối cảnh của sự hợp tác và liên kết giữa các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới yêu cầu phải có nguồn nhân lực có đủ trình độ và năng lực trong các lĩnh vực và
cơ cấu ngành nghề khác nhau. Trong thời gian qua, giáo dục bậc đại học của chúng ta đã
đạt được một số thành tựu đáng kể trong việc xây dựng một cơ cấu đào tạo nguồn nhân
lực có trình độ. Cơ cấu thị trường và những nhân tố khách quan đã tác động mạnh đến
việc hình thành và phát triển cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học.Việc xây dựng một cơ
cấu đào tạo đó có tính hiệu quả cao với yêu cầu của nền kinh tế - xã hội là một vấn đề
phức tạp đòi hỏi phải có sự định hướng bằng các chính sách điều chỉnh có chủ định của
Nhà nước trong hiện tại và thời gian tới. Nhằm phân tích thực trạng cơ cấu sinh viên đào
tạo bậc đại học của Việt Nam hiện nay, sự tác động của cơ cấu sinh viên đó đến phát
triển kinh tế và sự tác động có ý thức của Nhà nước đến cơ cấu sinh viên đó thông qua
các chính sách hỗ trợ kinh tế. Nên tôi đã chọn đề tài.
"Một số kiến nghị về chính sách hỗ trợ kinh tế nhằm điều chỉnh cơ cấu sinh
viên đào tạo bậc đại học cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của Việt nam
trong thời gian tới" làm luận văn tốt nghiệp.
Bố cục đề tài gồm :
Lời nói đầu
Chương I : Sự cần thiết phải có một cơ cấu sinh viên bậc Đại học phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế và vai trò của các chính sách hỗ trợ kinh tế.
Chương II : Thực trạng cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học của Việt nam và các
chính sách hỗ trợ kinh tế hiện nay.
Chương III : Phương hướng điều chỉnh chính sách hỗ trợ kinh tế nhằm tạo sự phù
hợp giữa cơ cấu sinh viên đào tạo Đại học với yêu cầu phát triển kinh tế.
Chương I
Sự cần thiết phải có một cơ cấu sinh viên Đại học phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế và vai trò của các chính sách hỗ trợ kinh tế
I - Cơ cấu sinh viên hợp lý với sự phát triển kinh tế xã hội :
1. Khái niệm và phân loại cơ cấu sinh viên :
1.1. Khái niệm cơ cấu sinh viên.
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà trí tuệ con người là tài sản quý giá nhất của
các dân tộc thì “đi lên bằng giáo dục” là chân lý của sự phát triển. Mặt bằng dân trí càng
cao cùng với những đỉnh cao về trí tuệ là điều kiện tiên quyết quyết định sự thắng lợi của
mỗi quốc gia trong qúa trình hội nhập và phát triển về kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật
mang tính toàn cầu hiện nay.
Giáo dục luôn theo sát với sự vận động, phát triển của mỗi giai đoạn lịch sử, đáp
ứng một phần yêu cầu về nguồn nhân lực được đào tạo cho các lĩnh vực kinh tế của xã
hội đó. Đồng thời,hoạt động giáo dục là công cụ phục vụ mục tiêu chính trị của mỗi giai
cấp thống trị. Giáo dục đào tạo những con người có phong cách đạo đức, lối sống và tư
tưởng chính trị theo đường lối của giai cấp thống trị. Theo quy luật đó, nền giáo dục Việt
Nam phải là công cụ phục vụ mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam với giai
cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân. Trong gia đoạn hiện nay, mục tiêu chính của Đảng và
Nhà nước ta là tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước, rút ngắn
khoảng cách của sự phát triển giữa nước ta với các nước khác trên thế giới và trong khu
vực. Vì thế, việc xây dựng và đổi mới hệ thống giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có trình
độ kỹ thuật, quản lý cao và nâng cao mặt bằng dân trí nhân tài cho đất nước v.v là vấn
đề mang tính thiết yếu.
Hệ thống giáo dục Đại học là nhân tố cấu thành quan trọng của hệ thống giáo dục.
Nó đóng vai trò là cung cấp nguồn đầu vào lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật, quản
lý cao cho nền kinh tế. Với vai trò đó, việc đổi mới hệ thống giáo dục Đại học là vấn đề
thiết yếu cần được chú trọng công cuộc đổi mới hệ thống giáo dục, nhằm tạo ra sự thích
ứng với nền kinh tế và mục tiêu của Đảng và Nhà nước.
Đổi mới hệ thống giáo dục bậc Đại học là đổi mới cơ cấu khối lượng, cơ cấu sinh
viên, cơ cấu giảng viên và những nội dung khác của hệ thống. Hệ thống giáo dục bậc Đại
học với tính chất là cung cấp nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, quản lý cao cho nhu
cầu về nhân lực của các ngành kinh tế vì thế đổi mới và xây dựng cơ cấu sinh viên phù
hợp, hợp lý là điểm chủ yếu trong chiến lược đổi mới. Chúng ta phải xây dựng một cơ
cấu phải đảm bảo về số lượng và nội dung với điều kiện kinh tế. Trong điều kiện Việt
nam, tầng lớp nông dân chiếm một số lượng lớn trong tổng số dân cả nước, thì lượng sinh
viên xuất thân từ tầng lớp nông dân phải chiếm một tỷ trọng tương ứng, làm cho tỷ lệ
sinh viên đó tương xứng với vị trí của lực lượng lao động nông nghiệp trong lực lượng
lao động của toàn xã hội. Do tính chất, vai trò của cơ cấu sinh viên đào tạo trong chiến
lược phát triển, đổi mới hệ thống giáo dục bậc Đại học nên cơ cấu sinh viên đào tạo bậc
Đại học phải có sự nhìn nhận chuẩn xác.
Cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học là trạng thái cấu thành nội bộ của hệ thống
giáo dục bậc Đại học. Cơ cấu sinh viên đó bao gồm: Cơ cấu ngành nghề theo khối
trường, cơ cấu phân theo địa lý, cơ cấu giới tính, cơ cấu văn hoá, cơ cấu độ tuổi
Việc phân tích cơ cấu sinh viên bậc Đại học xét trên tất cả về các khía cạnh về cơ
cấu là một vấn đề rộng và phức tạp. Vì thế, bài viết chỉ xin tập trung vào hai khía cạnh
lớn của cơ cấu sinh viên.
* Cơ cấu sinh viên theo khối trường học.
* Cơ cấu sinh viên theo vùng .
1.2. Phân loại cơ cấu sinh viên :
1.2.1. Cơ cấu sinh viên theo khối trường học.
Cơ cấu sinh viên theo khối trường học là trạng thái khối lượng sinh viên cấu thành
hệ thống giáo dục đào tạo bậc Đại học của nhóm trường dựa trên tiêu thức phân định
nhóm trường bậc Đại học của mỗi quốc gia.
1.2.2. Cơ cấu sinh viên theo vùng.
Trong tiêu thức cơ cấu sinh viên phân theo vùng, cơ cấu sinh viên được phân làm
hai tiêu thức :
1.2.2.1 Cơ cấu sinh viên phân theo vùng kinh tế
Cơ cấu sinh viên phân theo vùng kinh tế là trạng thái số lượng sinh viên cấu thành
cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học dựa trên tiêu thức phân định địa giới vùng kinh tế
của mỗi quốc gia.
1.2.2.2. Cơ cấu sinh viên phân theo khu vực thành thị - nông thôn.
Cơ cấu sinh viên phân theo khu vực thành thị - nông thôn là trạng thái số lượng
sinh viên bậc Đại học thuộc khu vực đó, dựa trên sự phân định tiềm thức thành thị- nông
thôn của mỗi quốc gia.
1.3. Tiêu thức đánh giá tính hợp lý của cơ cấu sinh viên :
Như trên đã phân tích, sự phát triển nền kinh tế đặt ra yêu cầu về sự phù hợp của
nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, quản lý cao đối với hệ thống giáo dục bậc Đại học,
có nghĩa là phải có một cơ cấu sinh viên hợp lý.
Hiện nay còn có nhiều quan niệm khác nhau về tính hợp lý của cơ cấu sinh viên.
Trên khía cạnh nền kinh tế, cơ cấu sinh viên hợp lý là sự phù hợp với yêu cầu sử dụng
nguồn nhân lực có trình độ cao. Tính hợp lý này của cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học
được đánh giá trên một số tiêu thức sau.
* Sự cân đối giữa số lượng đào tạo của hệ thống giáo dục bậc Đại học và sử dụng
của thị trường lao động nhằm đảm bảo đào tạo đến đâu sử dụng với hiệu suất tối đa đến
đó. Tránh tình trạng thất nghiệp và chờ việc không tự nguyện của nguồn nhân lực có
trình độ ở mức cao.
* Cơ cấu sinh viên đó phải phù hợp yêu cầu của nền kinh tế với việc phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước trong từng thời kỳ, để tạo ra sự phát triển đầu tiên
của ngành kinh tế mũi nhọn đó. Cơ cấu phải đáp ứng được về số lượng chất lượng của
nguồn nhân lực đó.
* Cơ cấu sinh viên đó phải phù hợp với cơ cấu giai tầng xã hội. Cụ thể là giữa khu
vực thành thị và nông thôn, vùng kinh tế trọng điểm và không trọng điểm, đảm bảo sự
công bằng trong phát triển kinh tế xã hội.
* Tỷ trọng của số lượng sinh viên đào tạo trong các nhóm ngành đào tạo phải có
sự cân đối với yêu cầu của ngành đó trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Số
lượng sinh viên phục vụ đúng chuyên ngành đào tạo phải cao.
2. Mối quan hệ giữa cơ cấu sinh viên :
2.1. Đặc điểm của cơ cấu sinh viên.
Cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học được cấu thành bởi các phân tử đó chính là
các sinh viên. Các sinh viên này tồn tại và phát triển dưới sự tác động của hàng loạt nhân
tố chính trị, văn hoá, đời sống v.v. Mặt khác các sinh viên này trong tương lai là sản
phẩm của hoạt động giáo dục đối với thị trường lao động. Những nguyên nhân đó của
đối tượng sinh viên đã tác động và tạo ra cho cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học những
đặc điểm.:
*Cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học hình thành và phát triển một cách khách
quan theo yêu cầu của thị trường lao động. Điều kiện phát triển và thay đổi của nền kinh
tế trong mỗi giai đoạn phát triển khac nhau đòi hỏi một sự đáp ứng khác nhau về nhân lực
của hệ thống giáo dục bậc Đại học. Các nhóm ngành trong nền kinh tế thay đổi làm cho
nhu cầu về nhân lực có trình độ kỹ thuật, quản lý cao trong nền kinh tế thay đổi. Điều đó
tác động đến sự lựa chọn nhóm ngành theo học của sinh viên và cơ cấu sinh viên đào tạo
trong hệ thống giáo dục bậc đại học.Sự lựa chọn nhóm ngành học của sinh viên căn cứ
vào triển vọng của ngành nghề đó với các điều kiện ở hiện tại như thu nhập,mức sống,cơ
hội thăng tiến Trong điều kiện của Việt Nam ở những năm đầu tiên của thập kỷ 90, cơ
chế kinh tế thị trường thực sự phát triển trong nền kinh tế nước ta. Thời gian này, các
ngành kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh phát triển mạnh mẽ tạo ra nhu cầu về đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh và sự am hiểu các chính sách quản lý.
Điều kiên đó đã tạo ra cho các cán bộ quản lý làm việc trong lĩnh vực này có một điều
kiện về thu nhập, đời sống, cơ hội thăng tiến cao. Sự thể hiện trong thu nhập, đời sống
v.v của nhóm ngành này là tiêu chí cho sinh viên trong thời gian đó lựa chọn khối trường
kinh tế - luật để theo học. Việc theo học cao làm cho cơ cấu sinh viên của khối trường
kinh tế -luật trong giai đoạn này tăng cao, đồng thời nó cũng tác động đến tỷ trọng của cơ
cấu sinh viên trong các khối trường khác. Vậy cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học cũng
thành cách khách quan theo đúng tính chất của sản phẩm (sản phẩm giáo dục) trong thị
trường (thị trường lao động).
* Cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học có độ trễ cao trong quá trình sản xuất của
hệ thống giáo dục bậc Đại học. Khoảng thời gian cho ra đời một sản phẩm của hệ thống
giáo dục bậc Đại học là 4 - 5 năm do đó cơ cấu sản phẩm đó có một độ trễ tương đương
với khoảng thời gian đó. Khoảng thời gian này đối với các sản phẩm hàng hoá thông
thường thì nó vừa đủ khép kín một vòng đời sản phẩm và bước sang giai đoạn. Với sản
phẩm giáo dục bậc Đại học thì đó chỉ là khoảng thời gian trang bị kiến thức nhằm hoàn
thiện sản phẩm. Nhân tố độ trễ tạo ra khoảng cách giữa đào tạo hiện tại với nhu cầu trong
thời gian tới là 4 - 5 năm, do đó những gì mà cơ cấu sinh viên căn cứ để hình thành cơ
cấu có hiện nay có thể sau khi ra trường không đúng nữa. Nguyên nhân về độ trễ làm
cho chúng ta phải có những dự báo dựa trên định hướng phát triển kinh tế trong khoảng
thời gian từ 4 - 5 năm hoặc dài hơn là từ 5 - 10 năm cho cơ cấu sinh viên.
* Đặc điểm không tuân thủ một cách khách quan theo thị trường lao động đó
chính là yếu tố đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục của người sinh viên trong cơ cấu
đào tạo. Những nhân tố đạo đức, lối sống v.v là nhân tố không định hình trong sinh viên,
nó luôn được chú trọng và xây dựng trong mỗi cá nhân ngày càng tốt hơn và không có
giới hạn nào cho mình. Do đó, thị trường lao động không thể nêu ra mức cầu là bao nhiêu
với nhân tố đạo đức, lối sống v.v khi yêu cầu với nguồn lao động có trình độ kỹ thuật,
quản lý cao, và càng không thể tác động nhằm xây dựng một định chuẩn về đạo đức, lối
sống v.v gắn với cơ cấu nhân lực có trình độ bậc Đại học. Nhân tố không định hình về
đạo đức, lối sống v.v luôn thể hiện trong những hoạt động của đời sống thường ngày, tác
động đến sự phát triển trong đời sống văn hoá - tinh thần của xã hội.
Bên cạnh những đặc điểm về sự hình thành mang tính khách quan, độ trễ, hay sự
không định hình của đạo đức, lối sống của cơ cấu sinh viên, thì cơ cấu sinh viên còn có
những đặc điểm về giai tầng, trình độ nhận thức, độ tuổi v.v. Những đặc điểm đó tạo cho
cơ cấu sinh viên có đặc điểm giống đặc điểm của sản phẩm thông thường và cũng có sự
khác biệt với các sản phẩm thông thường trong thị trường.
2.2. Vai trò của cơ cấu sinh viên hợp lý với sự phát triển kinh tế.
Vai trò của giáo dục với sự phát triển ngày càng thể hiện rõ thông qua các dấu ấn
trực tiếp của sản phẩm giáo dục trong bất kỳ một sản phẩm nào dưới dạng hàm lượng trí
tuệ và kỹ năng lao động cần thiết để làm gia sản phẩm đó.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển còn được thể hiện ở hệ thống giáo dục
bậc Đại học thông qua một cơ cấu đào tạo hợp lý với yêu cầu của nền kinh tế trong từng
giai đoạn phát triển.
- Cơ cấu sinh viên đào tạo hợp lý tạo ra động lực phát triển cho nền kinh tế thông
qua tính hiệu quả làm việc của các thành viên trong cơ cấu khi làm việc. Giáo dục bậc
Đại học cung cấp cho nền kinh tế những con người lao động có trình độ và khả năng
thích ứng cao. Trình độ, năng lực, khả năng làm việc tốt đã mang lại cho họ một năng
suất cao trong lao động. Năng suất làm việc cao và tổ chức công việc khoa học đã làm
cho quy trình sản xuất đạt hiệu quả , tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
xã hội, nhờ đó quốc gia có thể đẩy mạnh tối đa sự tăng trưởng của mình và nâng cao vị
thế cạnh tranh của mình trên trường quốc tế. Cơ cấu sinh viên đào tạo hợp lýkhắc phục sự
thiếu hụtnguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật,quản lý cao trong hoạt động sản xuất của
các ngành sản xuất. Điều đó tạo ra sự phát triển cân đối về trình độ sản xuất của đội ngũ
lao động trong các ngành, đáp ứng yêu cầu phát triển cân đối với các ngành khác trong
nền kinh tế. Vì thực tế, trong nền kinh tế, các nhóm ngành sản xuất nằm trong sự liên hệ
mang tính tương hỗ,một số ngành yếu kém trong trình độ sẽ gây ra tình trạng kém hiệu
quả trong sản xuất và không đáp ứng được yêu cầu của các nhóm ngành khác. Nguyên
nhân đó gây ra những cản trở trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
- Cơ cấu sinh viên đào tạo hợp lý tạo ra nguồn lực phát triển mới cho các lĩnh vực
khác của nền kinh tế. Hàng năm, lượng ngân sách Nhà nước chi cho phát triển giáo dục
nói chung và giáo dục Đại học nói riêng chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư phát triển. Cơ
cấu sinh viên hợp lý sẽ tạo ra sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng giảm tối thiểu tình trạng
thừa thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao giữa các nhóm ngành. Điều đó tiết kiệm cho
ngân sách đầu tư giáo dục bậc Đại học và đồng thời nguồn vốn đó có thể di chuyển sang
các lĩnh vực khác của nền kinh tế,mục đích tạo sự phát triển tốt hơn cho lĩnh vực đó trong
những giai đoạn mà yêu cầu phải có sự phát triển cao về số lượng và chất lượng.
- Cơ cấu sinh viên hợp lý góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong lực lượng lao
động làm phát triển về mặt xã hội. Đội quân thất nghiệp có trình độ có thể ảnh hưởng rất
tiêu cực đến vấn đề xã hội.Đội ngũ này tham gia vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện
hút, mại dâm, gây rối kích động v.v làm cho xã hội ngày càng phức tạp trong quá trình
phát triển. Điều đó cũng xuất phát từ nguyên nhân là họ chán nản trong cuộc sống bao
nhiêu hoài bão và ước vọng khi còn theo học trở thành con số không khi ra trường, bên
cạnh đó gánh nặng về kinh tế trong cuộc sống và tâm lý thất nghiệp của họ khi ra trường
đối với gia đình. Chính vì thế, một cơ cấu sinh viên đào tạo hợp lý làm cho tỷ lệ thất
nghiệp và chờ việc không tự nguyện sau khi ra trường giảm. Con số thất nghiệp qua đào
tạo giảm cũng góp phần giải quyết phần nào những tồn tại về mặt xã hội.
- Cơ cấu sinh viên hợp lý còn tác động đến sự phát triển về mặt xã hội thông qua
sự phù hợp cơ cấu giai tầng trong xã hội. Cơ cấu hợp lý tạo ra sự phát triển bình đẳng
trong mặt bằng dân trí giữa các giai tầng trong xã hội. Cơ cấu sinh viên hợp lý đó góp
phần rút ngắn khoảng cách về trình độ dân trí của khu vực nông thôn - thành thị, vùng
kinh tế trọng điểm với vùng kinh tế khó khăn bằng chính lực lượng cán bộ có trình độ
kỹ thuật và quản lý phù hợp với sự phát triển của từng vùng kinh tế và khu vực khác
nhau. Từ đó, nâng cao nhận thức trong mỗi người dân về vai trò và quyền lợi của họ,
đồng thời khuyến khích họ tham gia tích cực hơn để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế
và xã hội.
Nhận thức được vai trò của cơ cấu sinh viên hợp lý trong sự phát triển kinh tế xã
hội làm cho các quốc gia luôn quan tâm chú trọng đến việc hình thành và xây dựng một
cơ cấu sinh viên hợp lý với giai đoạn phát triển của mình.
II - Vai trò của các chính sách kinh tế đến việc hình thành một cơ cấu sinh viên hợp
lý :
1. Nhân tố chung tác động đến sự hình thành cơ cấu sinh viên.
Cơ cấu sinh viên nằm trong tổng thể hệ thống giáo dục bậc Đại học nói riêng và hệ
thống giáo dục nói chung, nên sự hình thành và phát triển của nó chịu ảnh hưởng mạnh
của các nhân tố khách quan tồn tại trong xã hội. Các nhân tố đó tác động đến việc hình
thành cơ cấu sinh viên trong từng nhóm ngành và từng vùng với chất lượng, số lượng cụ
thể trong từng giai đoạn phát triển. Bên cạnh đó cơ cấu sinh viên còn là một sự vận động
nội thân của bản thân nó.
Các nhân tố khách quan tác động sự hình thành và phát triển của cơ cấu sinh viên
chủ yếu bao gồm các nhân tố sau :
* Nhân tố khoa học kỹ thuật : Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm biến đổi
mọi mặt của đời sống xã hội. Đổi mới và phát triển khoa học kỹ thuật làm cho các yếu tố
đời sống cơ cấu xã hội biến đổi về nội dung. Trong điều kiện đó, sự hình thành và phát
triển cơ cấu sinh viên đào tạo Đại học cũng không tránh khỏi sự tác động của nhân tố
khoa học kỹ thuật. Hàng loạt các ngành nghề đào tạo mới ra đời nhằm tiếp thu những
thành tựu của khoa học kỹ thuật và nâng cao đời sống xã hội. Đáp ứng yêu cầu phát triển
của những ngành nghề đó phải có một đội ngũ lao động có trình độ và kỹ thuật cao, do đó
đã tác động đến sự hình thành và phát triển cơ cấu sinh viên trong các nhóm trường Đại
học. Trong thực tế, với yêu cầu lực lượng cán bộ trong những ngành công nghiệp mới
như điện tử, viễn thông thông tin học v.v đã thu hút một lượng lớn sinh viên theo học các
ngành mới này. Sự phát triển các ngành mới này làm cho số lượng sinh viên theo học các
ngành thuộc khối trường kinh tế tăng lên, tỷ trọng cơ cấu sinh viên của khối trường này
cũng tăng lên trong toàn bộ hệ thống giáo dục Đại học. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập
và toàn cầu hoá nền kinh tế trình độ quản lý kinh tế cũng mang nhiều nội dung và sắc thái
mới. Việc áp dụng tin học, các lý thuyết kinh tế mới vào quản lý đã góp phần phát triển
năng suất trong nghiều doanh nghiệp, đòi hỏi sinh viên phải được trang bị một trình độ
quản lý khoa học hơn, có áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ thu hút nhiều
hơn lượng sinh viên theo học trong các khối trường kinh tế - luật.
Nhân tố xã hội : Sự tác động của các nhân tố xã hội trong việc hình thành và
phát triển cơ cấu sinh viên cũng thường xuyên thay đổi trong các giai đoạn
phát triển khác nhau. Sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác
so với định hướng phát triển kinh tế xã hội theo cơ chế quản lý tập trung.Sự
biến đổi làm thay đổi cơ cấu hành chính, các khuôn khổ pháp luật để phù hợp
với yêu cầu phát triển v.v. Điều này đòi hỏi phải có một lực lượng lớn cán bộ
am hiểu được luật pháp trong nước cũng như luật pháp quốc tế. Điều đó đã thu
hút sinh viên theo học các trường luật hay chuyên ngành về quan hệ quốc tế
trong các nhóm trường . Nhân tố khác là mặt bằng dân trí, trong điều kiện xã
hội mới, yêu cầu đặt ra là phải có sự nâng cao trình độ dân trí trong các giai
tầng xã hội. Điều đó tác động đến cơ cấu sinh viên giữa các giai tầng xã hội và
vùng kinh tế. Số sinh viên của các vùng kinh tế, khu vực xét trên tiêu thức dân
số tăng lên.
Ngoài ra sự tác động của nhân tố xã hội đến cơ cấu sinh viên còn thể hiện
ở số lượng dân số, mức tăng dân số thông qua sự biến đổi về cơ cấu giới tính, trình
độ văn hoá, cơ cấu độ tuổi của cơ cấu sinh viên v.v.
* Nhân tố giáo dục : Quy luật của giáo dục hay quy luật trong đào tạo cũng có sự
tác động đến sự hình thành và phát triển cơ cấu sinh viên trong hệ thống giáo dục bậc Đại
học. Các quy luật đó như quy luật xã hội hoá giáo dục, quy luật học để tồn tại hay quy
luật học để biết đã làm cho số lượng sinh viên tăng lên, đáp ứng yêu cầu của các ngành
khác nhau trong xã hội. Quy luật xã hội hoá giáo dục làm tăng số lượng sinh viên và làm
biến đổi cơ cấu sinh viên đào tạo theo yêu cầu của xã hội. Điều này phản ánh qua sự đa
dạng của các loại hình trường đào tạo như dân lập, quốc lập, tại chức, trường học buổi tối
v.v Quy luật học để tồn tại đã thu hút sinh viên theo học các nhóm trường khối ngành
mà khả năng kiếm việc làm và mức thu nhập cao trong xã hội. Do đó, cơ cấu sinh viên có
sự biến đổi mạnh, thiên về những nhóm trường có khả năng hấp dẫn cao sau khi ra
trường làm cho tỷ trọng và số lượng sinh viên tăng lên trong toàn bộ hệ thống. Trong
điều kiện nước ta ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới với sự hấp dẫn trong các lĩnh
vực kinh tế và luật pháp đã thu hút một số lượng lớn sinh viên theo học trong khi đó thì
số lượng sinh viên trong nhóm ngành sư phạm tăng nhưng không cao.
Vậy nhân tố giáo dục cũng ảnh hưởng trong việc hình thành và phát triển cơ cấu
sinh viên theo một hướng nhất định đáp ứng yêu cầu của xã hội trong sự phát triển.
*Nhân tố kinh tế : Nhân tố kinh tế đóng vai trò quan trọng trong hàng loạt các
nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của cơ cấu sinh viên. Sự thay đổi của
nền kinh tế làm cho cơ cấu ngành nghề thay đổi ,với sự phát triển của một số nhóm ngành
mũi nhọn nhằm tạo động lực cho sự phát triển của nền kinh tế và sự giảm tỷ trọng của
những ngành không thiết yếu. Sự tăng giảm tỷ trọng giữa các ngành đặt ra một yêu cầu
mới về nguồn nhân lực cho sự phát triển của nó. Do đó, nói thu hút một lượng lớn nguồn
nhân lực theo học các khối trường của mà ngành nó cung cấp nhân lực . Sự tăng giảm đã
làm cho cơ cấu sinh viên phân theo tiêu thức các khối trường thay đổi tương ứng. Trong
sự phát triển của nền kinh tế, các vùng kinh tế và khu vực trọng điểm kinh tế luôn được
coi trọng do đó nó thu hút một lượng lớn lao động có trình độ tương ứng vào đây. Làm
cho cơ cấu đào tạo thay đổi về khu vực ,vùng kinh tế.Sự thay đổi trong yêu cầu về nguồn
nhân lực đã làm cho cơ cấu đào tạo đa dạng hơn về trình độ văn hoá, lứa tuổi , phát triển
theo sự phát triển của lĩnh vực mà nó liên quan.
Cơ cấu sinh viên bậc Đại học còn chịu sự tác động của các nhân tố khác như
chính trị văn hoá truyền thống, sự hợp tác quốc tế v.v những nhân tố này làm cho cơ cấu
sinh viên phát triển để thích nghi với yêu cầu trong nền kinh tế. Sự phát triển đó đã hình
thành cơ cấu đào tạo bậc Đại học theo nhóm ngành và theo một số tiêu thức như khu vực
vùng kinh tế.
2.2. Chính sách hỗ trợ kinh tế nhằm điều chỉnh cơ cấu sinh viên.
Cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học hình thành một cách khách quan theo nhu
cầu của thị trường lao động ở thời hiện đại, và độ trễ của thời gian đào tạo đã làm cho cơ
cấu sinh viên đào tạo Đại học có thể không đúng với yêu cầu của thị trường trong thời
gian tới. Để cơ cấu đó phát huy hiệu quả cao trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường
lao động thì Nhà nước phải có sự can thiệp có chủ định nhằm điều chỉnh cơ cấu sinh viên
đó. Một trong những biện pháp xác định là chính sách hỗ trợ kinh tế.
2.2.1. Chính sách đầu tư giáo dục.
Giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp về học tập là bao gồm mọi dạng học tập của con
người dưới bất kỳ hình thức nào. Trong phạm vi hẹp, giáo dục đào tạo được chuyên môn
hoá trong một tổ chức gọi là trường học. Trong hệ thống giáo dục nước ta trường học là
trung tâm giáo dục quan trọng nhất, phổ biến và là nơi thu hút nguồn đầu tư ngân sách
chủ yếu của Nhà nước trong hoạt động đầu tư cho giáo dục.
Hoạt động đầu tư cho giáo dục luôn được các học giả đánh giá cao trong hoạt
động đầu tư phát triển. Vì thế hoạt động đầu tư giáo dục luôn được coi là sự đầu tư cho
tương lai. Grry Becher nhà kinh tế học Hoa Kỳ, giải thưởng Nobel năm 1992, đã khẳng
định "không có nguồn đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư giáo dục" vì :
* Sản phẩm của hoạt động giáo dục có giá trị tiêu dùng cao.
* Làm năng suất lao động tăng cao.
* Làm giảm quá trình tái sản xuất dân số.
Hoạt động đầu tư giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí, đào tạo đội ngũ lao
động có trình độ cao sẽ khuyến khích phát triển sản xuất. Đồng thời với sự hỗ trợ một
cách nhất quán các chính sách kinh tế khác sẽ đem lại lợi ích cao nhất cho xã hội.
Trong hoạt động đầu tư giáo dục nguồn vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng.
Nguồn vốn đó được phân định theo hai tiêu thức đó là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
Nhà nước và nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách.
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tập trung xây dựng cơ sở vật chất giáo
dục, đào tạo "cú huých" ban đầu trong việc nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ giáo viên
của những ngành quan trọng và có một sự ưu tiên cho các khu vực khác nhau.
Nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước là của các tổ chức, các khâu, vốn
viện trợ nhân đạo của các nước phát triển ,vay của các nước v.v. Nguồn vốn này cũng
góp phần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục và đồng thời tạo điều kiện xây
dựng và nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục. Nguồn vốn ngoài ngân sách này của
mỗi quốc gia là sự bù đắp một phần cho việc đầu tư giáo dục của ngân sách quốc gia.
Trong hệ thống giáo dục đào tạo Đại học, nguồn vốn đầu tư giáo dục nhằm giúp
việc mở rộng quy mô đào tạo của khối trường, quy mô ngành nghề, xây dựng và thành
lập các loại hình trường lớp, cơ sở mới. Từ đó, chúng ta thu hút sinh viên theo học nhằm
điều chỉnh cơ cấu sinh viên đào tạo trong từng khối trường, vùng kinh tế hay khu vực
nông thôn thành thị.
Sự phát triển của hoạt động giáo dục là nguyên nhân của sự phát triển kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư cho giáo dục sẽ tăng lên trong điều kiện phát triển kinh tế cả số lượng
và tỷ trọng trong nguồn vốn đầu tư phát triển của ngân sách, nhằm đáp ứng sự định
hướng trong phát triển giáo dục của chúng ta hiện nay. Giáo dục đào tạo bậc Đại học
cũng chịu sự ảnh hưởng đó. Nguồn vốn đầu tư tăng giúp cho việc mở rộng các cơ sở
trường lớp thu hút lượng lớn sinh viên theo học. Sự tăng lên về số lượng sinh viên đã ảnh
hưởng đến cơ cấu sinh viên. Tỷ trọng sinh viên trong nhứng nhóm ngành mới và những
nhóm trường có cơ sở thuận tiện thích ứng cao với nhu cầu học tập của sinh viên sẽ tăng
lên. Đầu tư nguồn vốn xây dựng các khối trường trọng điểm qua việc tăng chỉ tiêu đào
tạo, xây dựng cơ sở vật chất cho sinh viên v.v. Đó chính là sự tác động của hoạt động đầu
tư giáo dục tới cơ cấu sinh viên theo khối trường với cơ cấu sinh viên phân theo vùng,
trong đó là cơ cấu sinh viên phân theo khu vực thành thị - nông thôn và các vùng kinh tế
thì chính sách đầu tư giáo dục bậc Đại học sẽ phát triển hình thức xây dựng các trường
Đại học tại chính khu vực và vùng kinh tế đó. Qua cách làm đó đã thu hút lượng sinh
viên trong các khu vực và vùng kinh tế đó theo học, dần dần khắc phục tình trạng mất cân
đối giữa cơ cấu sinh viên phân theo vùng kinh tế trọng điểm với các vùng kinh tế khác
và khu vực nông thôn thành thị. Đồng thời đối với vùng đã có trường Đại học, có thể
dùng nguồn vốn đầu tư giáo dục Đại học để mở rộng và tăng quy mô đào tạo trong các
khối ngành thuộc các trường.
Vậy hoạt động của các chính sách đầu tư giáo dục bậc Đại học đã tác động nhằm
điều chỉnh cơ cấu sinh viên trong thời khối trường và các vùng kinh tế, thông qua việc
sử dụng nguồn vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng và các điều kiện mới cho việc học
tập của sinh viên.
2.2.2. Chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất.
Giáo dục đào tạo Đại học là một trong những hoạt động tạo ra phúc lợi xã hội mà
mọi thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng thụ lợi ích do nó đem lại. Khi nền kinh
tế phát triển thì hoạt động phúc lợi đó không chỉ phát triển về số lượng mà còn tăng lên
về chất lượng tạo ra lợi ích cao hơn cho mọi người. Nhưng bên cạnh đó, sự phân cực về
đời sống trong nền kinh tế đã làm cho một số người không được hưởng hoạt động phúc
lợi đó. Điều đó xảy ra với tầng lớp nông dân, gia đình ở các vùng kinh tế có điều kiện
khó khăn.Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải có những biện pháp khuyến khích
giúp đỡ vật chất, nhằm tạo tính công bằng trong việc tham gia hưởng thụ phúc lợi đó.
Trong thời gian hiện tại, chúng ta dùng chính sách khuyến khích vật chất để làm
điều đó .
Chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất nhằm tạo ra điều kiện hỗ trợ một phần
cho nhứng nhóm đối tượng có sự hạn chế trong hoàn cảnh sống, giúp họ khắc phục
những khó khăn trong học tập để tiếp thu những kỹ năng cần thiết cho sự tham gia hoạt
động sản xuất của họ sau này.
Các chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất chủ yếu gồm có :
* Chính sách miễn giảm học phí và học bổng hiện hành.
* Chính sách cho vay tín dụng sinh viên của hệ thống Ngân hàng.
Chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất đã góp phần điều chỉnh cơ cấu sinh viên
trong các khối trường của hệ thống giáo dục Đại học,vì trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, lượng lớn sinh viên theo học các khối trường mà nó có nhiều khả năng và cơ hội
sau khi ra trường. Sự thu hút một lượng lớn sinh viên theo học làm cho cơ cấu sinh viên
của khối trường đó tăng lên, tác động một phần đến việc giảm tỷ trọng cơ cấu sinh viên
của các khối trường khác. Bên cạnh đó cũng tạo ra xu hướng là số những người giỏi sẽ
theo học những khối trường sư phạm, khoa học cơ bản, nông lâm ngũ nghiệp v.v sẽ giảm,
tác động đến chất lượng của đội ngũ lực lượng đào tạo trong khối trường Sư phạm và
khoa học cơ bản. Để thu hút và nhằm điều chỉnh cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học
cho phù hợp chúng ta đã sử dụng các chính sách học bổng và miễn học phí trong các khối
trường thiết yếu. Chính sách miễn giảm học phí và học bổng đã thu hút lượng lớn sinh
viên theo học trong các khối khối trường Sư phạm và khoa học cơ bản, và nó còn động
viên khuyến khích những người có ở hoàn cảnh khó khăn theo học vì nó giúp họ giảm
được một phần gánh nặng về tài chính trong quá trình học tập.Sự tăng lên về số lượng
sinh viên trong khối trường này đã làm cho tỷ trọng cơ cấu sinh viên của nó tăng lên một
cách tương đối khắc phục sự chênh lệch quá lớn về tỷ trọng với các khối trường khác.
Đồng thời thông qua chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất đã thu hút được đối tượng
sinh viên theo học các nhóm trường mà xã hội cần.
Đối với sinh viên theo khu vực thành thị nông thôn hay vùng kinh tế, chính sách
khuyến khích hỗ trợ vật chất đã điều chỉnh cơ cấu sinh viên giữa các khu vực và vùng
kinh tế nhằm xây dựng một cơ cấu hợp lý với điều kiện kinh tế và yếu tố xã hội. Thông
qua các hình thức miễn giảm học phí, cho vay tín dụng với sinh viên nghèo, thuộc khu
vực nông thôn đã tạo điều kiện cho sinh viên thuộc các đối tượng này khắc phục sự hạn
chế trong điều kiện tài chính để theo học. Đồng thời, các chính sách trên cũng tạo điều
kiện cho họ vươn lên trong học tập với kết quả cao. Sự tác động đó đã làm cho một lượng
lớn đối tượng học sinh trong các khu vực khó khăn, vùng kinh tế xa xôi theo học. Sự
tăng lên về số lượng sinh viên trong các vùng, khu vực này đã làm giảm sự cách biệt về
tỷ trọng của cơ cấu sinh viên giữa các vùng, khu vực. Qua đó tạo điều kiện về nhân lực
có trình độ kỹ thuật, quản lý cao cho các vùng kinh tế khó khăn và khu vực nông thôn.
Đồng thời sự tăng tỷ trọng cơ cấu sinh viên của các vùng còn tạo điều kiện nâng cao dân
trí của vùng đó và phát triển các điều kiện xã hội có liên quan.
Vậy chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất đã tác động đến việc điều chỉnh cơ
cấu sinh viên bằng cách giúp đỡ họ khắc phục những khó khăn trong điều kiện tài chính
để theo học. Nó khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng đều vào theo học
các khối trường thiết yếu cho sự nghiệp phát triển đất nước. Nó góp phần tạo ra cơ cấu
sinh viên hợp lý giữa các khối trường, khu vực nông thôn - thành thị, các vùng kinh tế.
chương II
Thực trạng cơ cấu sinh viên đào tạo
bậc đại học của Việt nam và các chính sách
hỗ trợ kinh tế hiện nay
Sự phát triển nhanh của các nước Châu á và hệ thống giáo dục của các nước này
đã được thế giới chứng kiến từ 3 thập kỷ gần đây. Số lượng trẻ em đến trường hàng năm
và số lượng người theo học ở các cấp học hàng năm tăng lên, chất lượng giáo dục đào tạo
cũng không ngừng được nâng cao. Sự phát triển đó làm cho nhận thức của học sinh tốt
nghiệp phổ thông trung học, sinh viên các trường Đại học - Cao đẳng ở một số nước
Châu á, đặc biệt ở khu vực Đông Nam á có thể ngang hàng hoặc thậm chí cao hơn sơ với
trình độ của các nước phát triển (Điều kỳ diệu ở Đông Nam á - Ngân hàng thế giới 1993).
Thế giới đang trong thời gian thực hiện bước chuyển giao quan trọng từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin trí tuệ. Hàm lượng trí tuệ trong các loại hình
hàng hoá và dịch vụ ngày càng tăng lên, điều đó đòi hỏi các nước phải thực sự quan tâm
tới nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, quản lý và chuyên môn cao trong các lĩnh vực.
Đối với các nước Châu á( đặc biệt là các nước Nam á), việc đầu tư phát triển nguồn nhân
lực có trình độ và nghiệp vụ luôn được quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi .
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á nên chịu ảnh hưởng tác động mạnh mẽ
của sự phát triển này trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Bối cảnh đó đặt ra cho chúng ta những thách thức và cơ hội mới trong sự nghiệp
giáo dục để phát triển nguồn nhân lực có trình độ. Do đó, trong thời gian qua hoạt động
giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm sâu sắc, đúng như quan điểm của Đảng
trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành khoá VIII có nêu "Giáo dục là quốc sách hàng
đầu". Điều đó đã nâng dần vị thế của nước ta trong quá trình phát triển . Xét theo chỉ số
HDT (chỉ số phát triển nguồn nhân lực) thì năm 1997, vị trí của chúng ta là 121 trong
tổng số 178 nước trong khi chúng ta chỉ đứng ở vị trí 156 trong thứ hạng về thu nhập
bình quân đầu người hàng năm. Hiện nay, chúng ta có khoảng 88% dân số là biết chữ, số
người trong độ tuổi từ 15 trở lên là biết chữ chiếm 91%,và trong lực lượng lao động con
số biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 34 là 94%. Bên cạnh đó, chúng ta có khoảng 3 - 4 triệu
người tốt nghiệp các trường trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, Đại học và
Cao đẳng hàng năm. Con số đó đã góp phần làm tăng đội ngũ lao động đã qua đào tạo
của chúng ta trong lực lượng lao động từ 6,3% trong giai đoạn 1990 - 1996 lên đến
8,41% trong giai đoạn 1996 - 1998. Tốc độ tăng trưởng đó gấp 3 lần trong cùng thời kỳ
của lực lượng lao động. Số lượng nhân lực qua đào tạo đó là nguồn lực quan trọng trong
việc tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển và tiếp thu những thành tựu của các nước đi
trước để đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và khu
vực.
Số lượng đào tạo trong hệ thống giáo dục đào tạo bậc Đại học của chúng ta đã đạt
được một số kết quả khả quan trong thời gian qua. Theo số liệu thống kê của Bộ giáo dục
đào tạo thì trong giai đoạn từ 1991 - 1992 đến 1995 - 1997 số lượng sinh viên chính quy
bậc Đại học tăng 2,7 lần . Năm học 1997 - 1998 con số đào tạo bậc Đại học của chúng ta
đạt ở mức 194.499 người, với mức 25,35 sinh viên bậc Đại học lượng chính quy tên 1
vạn dân, và 74 sinh viên (cả chính quy và không chính quy bậc Đại học - Cao đẳng) trên
1 vạn dân trong năm 1996. Trong khi đó, số lượng này chỉ đạt 11,5 người và 29 người
trong năm 1992.
Bên cạnh những thành tựu đã làm được, trong hệ thống giáo dục bậc Đại học còn
một số hạn chế.
* Sự mất cân đối trong cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học đang xảy ra. Nhận
định về vấn đề này, văn kiện Hội nghị lần thứ hai - Ban chấp hành Trung ương khoá VIII
có nêu : "Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội, cơ cấu vùng của đội ngũ
sinh viên, học sinh các trường Đại học có sự chưa hợp lý". Cụ thể, lượng sinh viên trong
các khối trường kinh tế - luạt, ngoại ngữ tăng nhanh ồ ạt, trong khi đó lượng sinh viên
theo học các khối trường Sư phạm, khoa học cơ bản, nông lân ngũ nghiệp hàng năm tăng
chậm gây ra hiện tượng cơ cấu sinh viên của các khối trường kinh tế - luật chiếm tỷ trọng
cao và các khối trường khác thì ngược lại.
* Tỷ trọng đào tạo bậc Đại học không cần xứng với các cấp đào tạo khác. Cơ cấu
đào tạo lực lượng lao động có trình độ của ta theo cơ cấu Đại học - Cao đẳng /Trung học
chuyên nghiệp/Công nhân kỹ thuật đi theo hình tháp ngược. Quy mô đào tạo bậc Đại học
trong cơ cấu chiếm tỷ lệ cao, trong khi lực lượng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp,
công nhân kỹ thuật là ít. Trong các năm 1995 - 1996 cơ cấu lao động có trình độ phân
theo tiêu thức Đại học - Cao đẳng /Trung học chuyên nghiệp/ Công nhân kỹ thuật của ta
là 1/1,61/4,3 và trong năm 1997 thì cơ cấu này là 1/1,33/4,17. Cơ cấu lao động của ta so
với mức chuẩn về cơ cấu lao động được đào tạo của các nước phát triển là 1/4/10 thì
chúng ta thừa một lượng lớn cán bộ bậc Đại học trong cơ cấu lao động qua đào tạo và
thiếu trầm trọng người trực tiếp làm việc. Sự mất cân đối trong cơ cấu lao động qua đào
tạo của chúng ta vẫn tồn tại mà việc giải quyết nó còn gặp nhiều vấn đề, trong khi đó
khối lượng theo học bậc Đại học của chúng ta ngày càng tăng mạnh so với các bậc đào
tạo khác : Ví dụ năm 1997 số lượng đào tạo bậc Đại học chính quy và không chính quy là
716,8 ngàn người (xấp xỉ 195 ngàn sinh viên hệ chính quy), và lượng trung học chuyên
nghiệp chỉ đạt 75,8 ngàn người.
Vậy để thực sự phát huy vai trò của hệ thống giáo dục bậc Đại học trong sự nghiệp
phát triển nền kinh tế thì việc điều chỉnh và xây dựng một cơ cấu sinh viên đào tạo bậc
Đại học hợp lý với các cấp đào tạo lao động khác, và trong chính bản thân nó là một vấn
đề quan trọng.
I - Cơ cấu sinh viên phân theo khối trường học :
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước và chiến lược phát triển đất nước theo hướng Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã tác
động mạnh mẽ đến cơ cấu ngành nghề trong các nhóm trường đào tạo và cơ cấu sinh
viên trong các nhóm trường đó. Nhiều khối trường có lĩnh vực đào tạo mới có nhu cầu
phát triển như tin học, điện tử viễn thông, quản trị kinh doanh v.v thu hút một số lượng
lớn sinh viên theo học. Trong khi đó một số khối trường với các lĩnh vực đào tạo ngành
nghề truyền thống, những ngành có tính tương tự cao hơn trong các lĩnh vực sản xuất về
chuyên môn có thể thu hẹp dần hoặc xát nhập với các trường khác có cùng nhóm ngành
để nâng cao tính hiệu quả trong giáo dục đào tạo.
"Danh mục các ngành đào tạo" thuộc bậc Đại học nước ta ban hành theo quyết
định số 2301/QĐ 213 ngày 22/12/1990 của Bộ Giáo dục Đào tạo có tầm quan trọng đặc
biệt trong việc định hướng đào tạo ở bậc học này, quyết định cho phép các trường mở
những ngành nghề cụ thể trong phạm vi khung 127 ngành thuộc 37 nhóm ngành. Theo tài
liệu thống kê, Việt nam có 64 trường Đại học, và hơn 70 trường Cao đẳng, và hệ thống
đào tạo bậc Đại học theo 37 nhóm ngành mà Bộ quy định được phân theo 7 nhóm trường
khác nhau :
Bảng 1 : Nhóm trường Đại học của Việt nam
STT Tên nhóm trường
1
2
3
4
5
6
7
Kỹ thuật công nghệ
Khoa học cơ bản - Ngoại ngữ
Nông lâm ngư nghiệp
Kinh tế - Luật
Y tế - thể thao
Văn hoá - nghệ thuật
Sư phạm
(Nguồn - Viện chiến lược - Bộ kế hoạch đầu tư )
Ngoài 7 nhóm trường thì trong số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học còn có số
lượng sinh viên đào tạo trong khối Quân đội an ninh.
Nhận định về các phân loại này ta thấy nó mang tính tổng quát vì trong thực tế
cách phân định chưa phân loại được hoàn toàn về tính chất của các nhóm ngành trong các
trường : Ví dụ khối ngành kinh tế thì xét trong một số trường khoa học kỹ thuật như Giao
thông, Xây dựng nhóm ngành đó là có. Nếu xếp trong khối kinh tế thì không phù hợp vì
80% nội dung học là liên quan đến giao thông, xây dựng do đó đặt nó trong khối trường
Giao thông và Xây dựng.
21
Bảng 2 : Số lượng sinh viên chính quy đào tạo bậc Đại học giai đoạn từ năm học 1993 - 1994 đến 1997 - 1998
Nguồn - Số liệu thống kê Đại học - Bộ giáo dục đào tạo
STT
Khối trường
1993 - 1994 1994 - 1995 1995 - 1996 1996 - 1997 1997 - 1998
Số lượng
(người)
Tỷ lệ (%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ (%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ (%)
1 Kỹ thuật công nghiệp 29344 31,007 28834 27,577 37062 28,788 43955 28.944 57789 29,711
2 Khoa học cơ bản - Ngoại ngữ 10538 11,135 13908 13302 18265 14,188 23375 15.392 31684 16,29
3 Nông lâm - ngư nghiệp 9701 10,251 11391 10,894 10861 8,436 13744 9.05 16596 8,553
4 Kinh tế – Luật 19537 20,644 24003 22,957 33087 25,7 32641 21.494 41625 21,401
5 Y tế - Thể thao 11706 12,369 10709 10,242 11055 8,587 11376 7.491 12068 6,205
6 Văn hoá - nghệ thuật 2683 2,835 3267 3,125 2538 1,971 2881 1.897 3220 1,655
7 Sư phạm 11024 11,649 12361 11,822 15775 12,253 23795 15.669 31391 16,139
8 Quân đội - An ninh 103 1,08.10
-
3
85 0,081 96 0,075 93 0,061 126 0,065
Cả nước 94636 100 104558 100 128739 100 151860 100 194499 100
23
24
* Qua số liệu thống kê của Bộ Giáo dục - Đào tạo về lượng sinh viên đào tạo
chính quy bậc Đại học qua các năm học 1993 - 1994 đến năm học 1997- 1998,số
lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học đã có sự tăng cao. Với con số tuyệt đối, tổng sinh
viên đào tạo chính quy trong 7 khối trường (chủ yếu) tăng gấp 2 lần và ở mức xấp xỉ
100 ngàn người (99863 người) trong giai đoạn từ năm học 1993 - 1994 đến năm học
1997 - 1998. Số lượng của một số khối trường tăng cao như Sư phạm tăng 2,87 lần,
Kinh tế - luật tăng 2,13 lần, Kỹ thuật công nghiệp tăng 1,969 lần. Kết quả đào tạo đó
cho thấy.
- Sự đáp ứng của hệ thống giáo dục bậc Đại học với yêu cầu về lao động có
trình độ kỹ thuật, quản lý cao của nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại. Nó thể hiện ở sự
tăng cao của sinh viên trong khối Kinh tế - luật, Kỹ thuật công nghiệp. Nền kinh tế mở
cửa, hợp tác đầu tư với nước ngoài đã thu hút một lượng lớn các công ty và tổ chức
nước ngoài liên kết và hợp tác làm ăn với chúng ta. Điều đó làm cho nhu cầu về nguồn
nhân lực có trình độ kỹ thuật cao tăng lên nhằm đáp ứng yêu câù về trình độ trong
việc sử dụng các thiết bị máy móc có liên quan, do đó nó làm cho số lượng sinh viên
đào tạo bậc Đại học trong khối trường Kỹ thuật công nghiệp tăng cao. Số lượng sinh
viên đào tạo của khối trường này trong năm học 1993 - 1994 chỉ là 29344 người thì
đến năm 1997 - 1998 con số đó lên đến 57789 người. Trong đó, số lượng sinh viên đào
tạo trong các nhóm ngành công nghệ mới như tin học, điện tử, bưu chính viễn thông
v.v tăng cao hàng năm trong tổng số sinh viên của khối trường. Về quản lý kinh tế,
nhu cầu về lực lượng cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao cũng đã được đáp
ứng phần nào với sự tăng lên của số lượng sinh viên đào tạo của khối trường này,
Trong năm học 1993 - 1994, số lượng sinh viên trong khối kinh tế - luật là 19537
người thi đến năm học 1997 - 1998 con số đó lên đến 41625 người. Điều đó cho thấy
sự đáp ứng nhu cầu về nhân lực qua đào tạo bậc Đại học của giáo dục bậc Đại học
thông qua sự chuyển hướng sang đào tạo mạnh nguồn nhân lực mà thị trường lao
động cần.
- Số lượng sinh viên đào tạo tăng lên cũng phản ánh một phần sự tăng một cách
có chiều sâu trong trình độ dân trí của người dân. Vì trong khoảng thời gian trước
trong quan niệm học của các cái nhân là để biết đọc, viết theo nghĩa thông dụng liên
quan đến cuộc sống hàng ngày chứ không nhất thiết phải học cao. Do đó, trình độ dân
25
trí của chúng ta vẫn ở mức thấp. Sự tăng lên của số lượng sinh viên làm cho tỷ lệ sinh
viên trên một tiêu thức dân số tăng lên, làm cho sự nhận thức của người dân tăng lên
thông qua sự tác động trực tiếp và gián tiếp của lực lượng có trình độ Đại học này.
- Sự tăng lên của khối lượng sinh viên trong hệ thống cũng thể hiện vai trò của
các yếu tố mang tính chất chủ định của Nhà nước nhằm khắc phục các yếu tố khách
quan cản trở người học. Sự tăng trưởng cao của số lượng sinh viên cũng phản ánh sự
hiệu quả của các chương trình xã hội liên quan đến giáo dục như xã hội hoá giáo dục,
mở rộng giáo dục đào tạo bậc Đại học.
* Tỷ lệ tăng liên hoàn của số lượng sinh viên qua các năm luôn ở mức cao.
Điều đó góp phần tạo sự cân đối giữa tốc độ tăng nguồn nhân lực qua đào tạo với tấc
độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bảng 3 : Tốc độ tăng tỷ lệ sinh viên chính quy
đào tạo bậc Đại học qua các năm
STT
Năm học Số lượng
1000 người
Tỷ lệ tăng Liên
hoàn (%)
Tốc độ tăng GDP
(%)
1
2
3
4
5
1993
1994
1995
1996
1997
94,663
104,558
128,739
151,860
194,499
-
10,48
23,13
17,96
8,08
8,07
8,84
9,5
9,34
8,15
(Nguồn:Niên giám thống kê năm 1997
Số liệu thống kê Bộ Đại học )
* Cách tính tốc độ tăng liên hoàn
Pt - P(t-1)
t=
P(t-1)
Trong đó :