Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

TẤM LÒNG CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.15 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TẤM LỊNG CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG</b>
<b>Rạng ngời như trăng sao</b>


<i><b>* Lê Ngọc Trác</b></i>
Tự Đức – vị vua thứ tư của triều Nguyễn khơng có con nên chọn Ưng Chân (con của Thoại
Thái Vương), Ưng Xụy và Ưng Đăng (con của Kiên Thái Vương) làm con nuôi, để ngày sau
có người kế vị. Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), Tự Đức băng hà, để lại di chiếu
truyền ngôi cho Ưng Chân. Trong di chiếu có đoạn viết: "... Ưng Chân lớn tuổi nhất, được
học hành và đến tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, mắt có tật, tính hiếu dâm, tâm tính xấu,
khơng chắc đương nỗi việc lớn...". Vua Tự Đức còn giao nhiệm vụ cho Trần Tiễn Thành,
Nguyễn Văn Tường và Tơn Thất Thuyết làm phụ chính đại thần phị Ưng Chân lên ngôi vua.
Đây là một suy nghĩ và hành động rất chi là lẩm cẩm của Tự Đức. Biết người nối ngơi mình
khơng tài, khơng đức mà vẫn di chiếu truyền ngơi. Chính từ sự lẩm cẩm, thiếu sáng suốt
của Tự Đức đã dẫn đến tình cảnh rối ren của triều đình nhà Nguyễn và của đất nước sau
này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tổ tiên của ông để khủng bố. Phan Đình Phùng vẫn khơng chùn bước, kiên định con đường
khởi nghĩa chống giặc Pháp xâm lược. Thực dân Pháp đã huy động một lực lượng quân đội
Pháp và hơn 3.000 ngụy quân của Nguyễn Thân tấn cơng vào chiến khu của Phan Đình
Phùng. Trong một trận đánh, ơng bị thương và sau đó tạ thế ở Núi Quạt (Hà Tĩnh) vào ngày
28/12/1895.


Cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo kéo dài 10 năm, có quy mơ lớn nhất so với
các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. Những chiến thắng của lực lượng nghĩa
quân do Phan Đình Phùng chỉ đạo được xem là những trận đánh tiêu biểu, là đỉnh cao nghệ
thuật quân sự của Việt Nam thời bấy giờ.


Trước khi từ trần, Phan Đình Phùng đã để lại bài thơ "Lâm chung thời tác":
"Nhung trường phụng mệnh thập canh đông


Vũ lược y nhiên vị tấu công



Cùng lộ ngao thiên nan trạch nhạn
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong
Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại
Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung
Trách vọng dũ long ưu dũ trọng
Tướng môn thâm tự quý anh hùng".
(Nhung trường vâng mệnh đã mười đơng
Vũ lược cịn chưa lập được cơng


Dân đói kêu trời xao xác nhạn
Quân gian chật đất rộn ràng ong
Chín lần xa giá non sơng cách
Bốn bể nhân dân nước lửa nồng


Trách nhiệm càng cao, càng nặng gánh
Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng)
Bản dịch của TRẦN HUY LIỆU


Đây là bài thơ tuyệt mệnh của Phan Đình Phùng được nhiều nho sĩ và các nhà nghiên cứu
văn học xếp vào loại xuất sắc trong nền văn học cận đại. Bài thơ nói lên nỗi lịng của Phan
Đình Phùng – Nỗi lịng của một kẻ sĩ vì nước vì dân; lo nỗi lo của dân, của nước; đau cùng
nỗi khổ của nhân dân và vận nước trong cảnh bị ngoại bang xâm lược. Tâm sự của một
người yêu nước trước khi trút hơi thở cuối cùng vẫn thấy chưa làm tròn trách nhiệm đối với
nhân dân và đất nước. Phan Đình Phùng là tấm gương sáng về lịng u nước, thương dân.
Nghe tin Phan Đình Phùng mất, Nguyễn Thượng Hiền đã làm thơ khóc ơng:


"Vạn lí ai già bất khả văn,


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Binh qua vị nghĩa lo phò nước


Bào hốt lâm nguy ngoảnh lạy vua
Lang miếu trước khen đài gián giỏi
Giang hồ nay khóc tướng quân xưa
Trung nguyên sẽ thấy ngày bình định
Chống giặc ghi công lúc bấy giờ".
Bản dịch của LÊ THƯỚC


Lúc ông mất, các văn thân đất Nghệ Tĩnh có hợp soạn một câu đối điếu ông:


"Thành bại anh hùng mạc luận, thử cô trung, thử đại nghĩa, thệ dữ chư quân tử thủy chung;
Châu chi anh, Mặc chi linh, độc thư mỗi niệm cương thường trọng; Khả hận giả thùy điên đại
hạ, nhất mộc nan chi, cung lãnh yên tiêu, thùy nhân bất tác thâm sơn oán; Huống đương
nhật long phi vân ám; cộng ta nhân sự vô thường, khả liên La Việt giang sơn, bách niên văn
hiến phiền nhung mã;


Cổ kim thiên địa vô cùng, nhi lưu thủy, nhi cao phong, đồng thử đại trượng phu vũ trụ; Lam
chi phong, Hồng chi tuyết, xung hàn vô nại bá tùng điêu; Vị hà tai hội quyết đồi ba, trung
lưu để trụ, tinh di vật hoán, hà nhân bất khởi cố viên tình? Cập thử lời nhạn tán phong xuy,
kham thán thiên tâm mạc trợ, độc thử tùng mai khí tiết nhất tử tinh thần quán Đẩu Ngưu".
(Anh hùng thành bại kể chi? Dạ sắt son, lòng vàng đá, thề cùng các bạn giữ trước sau; Son
mực đúc khí tinh anh, trung hiếu hẹn hị cùng sử sách; ngao ngán nhẻ, lầu cao sắp đổ, một
cột khó nâng; phịng vắng khói tan, liếc mắt non xanh thêm tức tối. Và bây giờ rồng bay
mây ám, xót xa việc thế không lường; Thương thay La Việt giang sơn, văn hiến trăm năm
thành trận mạc.


Trời đất xưa nay thế mãi, đá dựng ngược, nước chảy xi, đó vẫn non sông phương tuấn
kiệt; Lam Hồng nổi cơn bão tuyết, bách tùng úa rụng luống xông pha. Đau đớn thay! Đê vỡ
sóng vồ, giữa dịng trụ đứng; sao dời vật đổi, ngảnh đầu người cũ phải bôn chơn. Đương lúc
này gió thổi nhạn lìa, căm giận lịng trời cay nghiệt; riêng cảm Tùng Mai khí tiết, tinh thần
một thác rạng trăng sao.)



Bản dịch của NGUYỄN Q. THẮNG – NGUYỄN BÁ THẾ


Từ năm 1895 đến năm 2009, qua 114 năm, có lẽ câu đối của các văn thân đất Nghệ Tĩnh
làm điếu Phan Đình Phùng là một trong những câu đối độc đáo nhất, dài nhất, hàm súc
nhất, một tuyệt tác nói lên đầy đủ về hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ, về cuộc đời, sự
nghiệp và tấm lịng của Phan Đình Phùng đối với nhân dân và đất nước. Một tấm lòng của
người anh hùng sáng ngời như trăng sao, sống mãi cùng non sông đất nước.


</div>

<!--links-->

×