Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.45 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐẠI HỌC SÀI GÒN </b> <b>OF SAIGON UNIVERSITY </b>


Số 71 (05/2020) No. 71 (05/2020)


<i>Email: ; Website: />


<b>ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC AO NUÔI TÔM QUẢNG CANH </b>


<b>TỰ NHIÊN VÀ THÂM CANH TẠI ẤP PHƯỚC THIỆN, XÃ ĐÔNG HẢI, </b>



<b>HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH </b>



<i><b>Assessment of water quality in extensive and intensive shrimp ponds at </b></i>


<i><b>Phước Thiện hamlet, Đông Hải village, Duyên Hải district, Trà Vinh province </b></i>



ThS. Đặng Minh Luật

(1)

, TS. Lưu Thị Thanh Nhàn

(2)

, TS. Nguyễn Thị Gia Hằng

(3)


(1),(2),(3)<sub>Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TP.HCM </sub>


<b>TÓM TẮT </b>


Chất lượng nước ao nuôi tôm sú (<i>penaeus monodon</i>) quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước
Thiện, tỉnh Trà Vinh được khảo sát vào tháng 3/2019. Mẫu nước được thu tại 9 vị trí thuộc 3 khu vực ao
ni tơm và sau đó tiến hành phân tích 11 thơng số sinh – lý – hóa để tính chỉ số WQI. Đồng thời, mẫu
cũng được phân tích cấu trúc quần xã phiêu sinh thực vật để tính các chỉ số sinh học tảo. Kết quả WQI
cho thấy chất lượng nước ổn định và phù hợp cho tơm tại các vị trí quảng canh tự nhiên. Nhưng ngược
lại, hầu hết các vị trí thâm canh có chất lượng nước từ trung bình đến xấu. Thêm vào đó, sự xuất hiện
của chi tảo <i>Euglena</i> là dấu hiệu cho thấy môi trường nước ao giàu dinh dưỡng.


<i><b>Từ khóa: ao tơm, các chỉ số sinh học tảo, chất lượng nước, phiêu sinh thực vật, WQI </b></i>
<b>Abstract </b>


Water quality in extensive and intensive shrimp ponds of <i>Penaeus monodon</i> at Phước Thiện hamlet, Trà
Vinh province where was surveyed in March 2019. Water samples were collected from 9 sites that


belong in 3 areas of shrimp aquaculture and then were carried out to analyze 11 physicochemical and
biological parameters for calculating water quality index (WQI). The samples were also simultaneously
analyzed about the community structure of phytoplankton for calculating algae biological indices. The
WQI results showed that the water quality was stable and suitable for shrimp in extensive sites. On the
contrary, most of the intensive sites had medium to bad water quality. Besides, the presence of genus


<i>Euglena </i>is a sign of a nutrient-rich pond.


<i><b>Keywords: shrimp ponds, algae biological indices, water quality, phytoplankton, WQI </b></i>


<b>1. Đặt vấn đề </b>



Những năm qua, nghề nuôi tôm sú


nước lợ, mặn vẫn đang là một trong những


nghề chủ lực ở tỉnh Trà Vinh. Đặc biệt,


hoạt động này diễn ra nhiều ở các vùng ven


biển với mức độ thâm canh ngày càng lớn


nhưng các hộ ni khơng có sự thống nhất



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mơ hình chính, trong đó quảng canh tự


nhiên đã có từ những năm 90 của thế kỷ


trước, còn thâm canh xuất hiện từ sau năm


2005. Nhưng nó được người dân xây dựng


và triển khai thực hiện ngày càng nhiều từ


sau năm 2010 và hầu như tất cả đều dưới


hình thức tự phát. Việc xây dựng ao thâm


canh xen lẫn vào các khu vực ao quảng


canh tự nhiên đã tạo ra sự không thống


nhất chung trong khu vực.




Khảo sát thực tế cho thấy tại các hộ


nuôi tôm thâm canh, nước trong ao chưa


được xử lý triệt để phần lớn được bơm và


xả thải vào các con kênh rạch nhỏ nằm len


lỏi trong nội đồng. Khi đó, chất thải tơm


ni, thức ăn dư, hóa chất lẫn thuốc kháng


sinh còn thừa trong các con kênh sẽ theo


dòng nước và chảy trực tiếp ra sông hay


bãi bồi. Điều kiện tự nhiên về thủy văn của


tỉnh Trà Vinh có chế độ thủy triều biển


Đông với đặc trưng là bán nhật triều không


đều, một ngày: hai lần triều lên, hai lần


triều xuống [20]. Với chế độ thủy triều lên


xuống luân phiên và hệ thống kênh rạch


nhỏ, điều này rất dễ gây nên hiện tượng


phú dưỡng ở mức độ cục bộ do các vật chất


có trong nguồn nước xả thải khó có thể đi


xa nguồn phát thải và tồn lưu lại [5], [13].



Như vậy, mỗi khi triều lên nước lớn những


hộ dân nuôi tôm quảng canh tự nhiên mở


cống dẫn nước vào ao, các vật chất tồn dư


trong môi trường bên ngồi rất có khả năng


trơi theo dịng nước vào ao.



Vì thế, việc lấy mẫu nước ao và phân


tích các thơng số lý - hóa và sinh học


nhằm phục vụ việc đánh giá tình trạng chất


lượng vùng nước ao nuôi là hết sức cần


thiết. Nghiên cứu này sẽ là một căn cứ sơ



khởi về tình trạng dinh dưỡng cũng như


thành phần cấu trúc quần xã phiêu sinh


thực vật tồn tại trong hai loại hình ao nuôi


tôm vùng ven biển ở xã Đông Hải, huyện


Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.



<b>2. Phương pháp nghiên cứu </b>


<i><b>2.1. Khu vực nghiên cứu </b></i>



Mẫu nước tại 9 vị trí thuộc ba khu vực


ao nuôi tôm được lấy vào tháng 03/2019.


Các vị trí thu mẫu được thể hiện trên hình 1


gồm khu vực ao nuôi tôm quảng canh tự


nhiên sát rừng ngập mặn (EPA), ao nuôi tôm


quảng canh tự nhiên trong nội đồng (EPB)


và ao nuôi tôm thâm canh (IP) tại ấp Phước


Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh


Trà Vinh. Các ao quảng canh tự nhiên có


diện tích từ 33000 – 47000m

2

và các ao


thâm canh có diện tích từ 2000 – 2300m

2

<sub>. </sub>



<i><b>Hình 1. Bản đồ vị trí các điểm thu mẫu </b></i>


<i><b>2.2. Phương pháp thu mẫu </b></i>



Mẫu phân tích phiêu sinh thực vật:


mẫu định tính được thu bằng cách kéo lưới



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

vật sau khi thu được cố định bằng formol


tại thực địa, sao cho nồng độ formol cuối


cùng trong mẫu là 5% [2].




Mẫu phân tích các thơng số hóa - lý:


kỹ thuật lấy mẫu nước ao hồ tự nhiên và


nhân tạo theo TCVN 5994:1995 (ISO


5667-4:1987). Thiết bị được sử dụng lấy


mẫu nước là plastic bucket dung tích 20L


và mẫu nước được chứa đựng trong các


can nhựa PE dung tích 5L đã được xử lý và


tráng rửa hai lần bằng nước mẫu. Mẫu


nước được lấy ở tầng mặt ba lần liên tục tại


mỗi vị trí, rồi trộn lại thành một mẫu tổng


hợp, sau đó bảo quản lạnh và vận chuyển


về phịng thí nghiệm [19].



<i><b>2.3. Chỉ số chất lượng nước (WQI) </b></i>


Chỉ số WQI được tính bằng cơng thức


của Landwehr (1974) [9], [10]. Trong đó, n


là số thông số được sử dụng và qi là chỉ số


phụ. Để tính chỉ số WQI, chúng tơi phân


tích 11 thông số chất lượng nước gồm:


nhiệt độ, pH, oxy hòa tan (DO), độ đục, độ



mặn, nhu cầu oxy sinh hóa (BOD

5

), nhu


cầu oxy hóa học (COD), tổng chất rắn lơ


lửng (TSS), N-NH

4+

, P-PO

43-

và tổng


coliform. Công thức tính WQI như sau:



(Landwehr, 1974)



Chuyển đổi thông số về cùng thang đo



thành chỉ số phụ - qi (Bảng 1), nghiên cứu


sử dụng bảng chuyển đổi thông số của


Phạm Thị Minh Hạnh và cộng sự (2011)


[18] về tiêu chuẩn nước mặt Việt Nam


dành cho chỉ số WQI, đồng thời bảng này


được điều chỉnh phù hợp với vùng nước


nuôi tôm ven biển. Bảng chuyển đổi có 5


mức điểm là 100, 75, 50, 25 và 1, mỗi mức


cũng chính là chỉ số phụ (qi). Thơng số có


các khoảng giá trị thể hiện tình trạng mơi


trường nước từ rất tốt đến rất xấu. Các


khoảng giá trị đó được tham khảo dựa trên


năm tiêu chuẩn của QCVN


10-MT:2005/BTNMT [16] và nhiều nghiên


cứu khác [1], [6], [7], [13].

<b> </b>



<b>Bảng 1.</b>

Chuyển đổi giá trị thông số về cùng một thang đo – chỉ số phụ (qi)



<b>Thông số </b> <b>Đơn vị </b>


<b>Chỉ số phụ (qi) </b>


<b>100 </b> <b>75 </b> <b>50 </b> <b>25 </b> <b>1 </b>


<b>Rất tốt </b> <b>Tốt </b> <b>Trung bình </b> <b>Xấu </b> <b>Rất xấu </b>


Nhiệt độ oC 28 - 30  30 và  28  32 và  27  33 và  25  36 và  20
Độ mặn 15 - 30  30 và  15  32 và  10  35 và  5  40 và  3


pH - 7,5 – 8,5 7 – 9 6,5 – 9 6 - 9  4 và  11



DO mgO2/L  5  5  4  3  2


Độ đục NTU  10  20  35  60  100


TSS mg/L  50  60  70  90  100


COD mgO2/L  15  15 - - -


BOD5 mgO2/L  10  10 - - -


N-NH4+ mg/L  0,1  0,5  1  10 -


P-PO43- mg/L  0,1  0,3  0,5 - -


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Giá trị của chỉ số WQI được xét trên


thang màu đánh giá chất lượng nước (Bảng


2) từ 1 đến 100 của Brown và cộng sự


(1970) [17], để có thể đánh giá một cách


tổng quát nhất về chất lượng nước tại vị trí


nghiên cứu. Đồng thời sử dụng thuật ngữ



đánh giá tương ứng với môi trường nước


ao ni tơm như “thích hợp” là đánh giá về


mơi trường sống và “hạn chế” là đánh giá


về các thông số lý - hóa vượt mức cho


phép của một trong năm tiêu chuẩn kể trên


hay nhiều hơn.



<b>Bảng 2. </b>

Thang đánh giá chất lượng nước cho vùng nuôi tôm ven biển Trà Vinh




<b>WQI </b>

<b>ĐÁNH GIÁ </b>

<b>MÀU </b>



> 89

Thích hợp khơng có hạn chế (Rất tốt)

Xanh thẫm



61-89

Thích hợp nhưng có mức hạn chế thấp (Tốt)

Xanh lam



46-60

Thích hợp nhưng có mức hạn chế trung bình (Trung bình)

Vàng



30-45

Thích hợp nhưng có mức hạn chế cao (Xấu)

Đỏ



< 30

Khơng thích hợp (Rất xấu)

Đỏ thẫm



<i><b>2.4. Chỉ số sinh học tảo </b></i>



Chỉ số đa dạng lồi Shannon – Wiener


(1949) [3] được tính dựa vào thành phần và


mật độ của phiêu sinh thực vật, sau đó căn


cứ vào thang phân loại chất lượng nước


của Wilhm và Dorris (1968) đưa ra tình


trạng ơ nhiễm thủy vực, với giá trị H’ lớn


hơn 0,9 thì thủy vực không bị ô nhiễm,


khoảng từ 0,3 đến 0,9 thì thủy vực ơ nhiễm


nhẹ và dưới 0,3 thì thủy vực bị ô nhiễm


[8]. Cơng thức được tính như sau:





(Shannon và Wiener, 1949)




Trong đó, H’ là chỉ số Shannon –


Wiener; p

i

là tỷ lệ số cá thể được tìm thấy


trong loài thứ i (P

i

= n

i

/N); n

i

là số lượng cá


thể của loài thứ i; N là tổng số cá thể trong


một mẫu nghiên cứu.



Chỉ số ô nhiễm do Palmer đề xuất dựa


trên 20 chi tảo chỉ thị cho thủy vực bị ô


nhiễm chất hữu cơ. Khi chỉ số Palmer lớn



hơn hoặc bằng 20 thì thủy vực ô nhiễm


chất hữu cơ cao, từ 15 đến 19 thì thủy vực


ơ nhiễm chất hữu cơ có khả năng tăng cao


và dưới 15 được quy định là thủy vực ô


nhiễm chất hữu cơ thấp (thủy vực khơng bị


phú dưỡng hoặc thủy vực có các yếu tố hay


chất gây cản trở đến việc tồn tại tiếp tục


của tảo) [4].



Các thông số sinh - lý - hóa chất lượng


nước, mật độ phiêu sinh thực vật, chỉ số


WQI và các chỉ số sinh học gồm: Shannon


Wiener và Palmer. Tất cả được nhập liệu


và xử lý số liệu trên hai phần mềm là


Microsoft Excel 2010 và PRIMER VI được


dùng để tính chỉ số đa dạng lồi Shannon –


Wiener.



<b>3. Kết quả - thảo luận</b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

10-MT:2015/BTNMT [16] về chất lượng vùng


nước nuôi trồng thủy hải sản, cho thấy tình


trạng vùng nước tương đối tốt và thích hợp


cho tơm sinh trưởng và phát triển. Bên


cạnh đó, các thơng số COD, BOD

5

, N-NH

4

và P-PO

4

tại các vị trí khảo sát hầu hết có


giá trị nằm dưới ngưỡng phát hiện của


phương pháp đo. Chỉ riêng với thông số


N-NH

4

tại IP

1

(2,2 mg/L), COD tại IP

1

(18,6


mg/L) và IP

2

(18,1 mg/L) có giá trị cao hơn


mức giới hạn cho phép theo QCVN



10-MT:2015/BTNMT [16] về chất lượng vùng


nước ven biển cho nuôi trồng thủy hải sản.


Qua đó, nghiên cứu nhận thấy tình trạng


dinh dưỡng cao tại hai ao TC IP

1

và IP

2

do


có các thông số dinh dưỡng cao vượt hơn


mức giới hạn thuận lợi dành cho vùng


nước nuôi tôm ven biển dựa theo QCVN


10-MT:2015/BTNMT [16]. Các giá trị


thông số này có tác động đến chỉ số chất


lượng nước WQI (Hình 2) nhằm biểu hiện


nên tình trạng của vùng nước khảo sát.



<b>Bảng 3.</b>

Kết quả phân tích các thơng số hóa-lý tính của nước



<b>Vị trí </b>



<b>Thơng số </b>




<b>EPB</b>

<b>1</b>

<b> EPB</b>

<b>2</b>

<b> EPB</b>

<b>3</b>

<b>IP</b>

<b>1</b>

<b>IP</b>

<b>2</b>

<b>IP</b>

<b>3</b>

<b>EPA</b>

<b>1</b>

<b> EPA</b>

<b>2</b>

<b> EPA</b>

<b>3</b>


<b>Nhiệt độ </b>



(

o

C)

30,63 31,23 32,46 31,63 31,86 32,20 36,36 34,78 34,70



<b>pH </b>

7,69

8,06

8,23

8,13

8,23

8,75

8,67

8,40

8,39


<b>Độ mặn </b>



(‰)

24

24

23

15

15

5

14

15

15



<b>Độ đục </b>



(NTU)

12

8,1

13

52

106

19

17

14

12



<b>TSS </b>



(mg/L)

54

54

81

286

297

81

54

54

28



<b>DO </b>



(mg/L)

7,43

4,1

5,8

4,13

5,6

5,9

9,8

8,73

7,26



<i><b>Tổng Coliform </b></i>



(MPN/100mL)

34

2

13

4

6

500

11

2

50



Chỉ số chất lượng nước WQI cho thấy


có sự khác nhau về chất lượng nước giữa


ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm



canh. Cụ thể là các ao ni tơm thâm canh



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i><b>Hình 2. Chỉ số chất lượng nước – WQI </b></i>


Theo thang phân loại của Wilhm và



Dorris (1968), chỉ số đa dạng Shannon –


Wiener (H’) cho thấy hầu hết các vị trí


thuộc ao ni tơm quảng canh tự nhiên đều


có chất lượng nước ở mức không bị ô


nhiễm (Hình 3), riêng vị trí EPA

1

là thủy


vực bị ô nhiễm nhẹ (H’ = 0,85). Tuy nhiên


nếu phân tích về thành phần lồi phiêu sinh


thực vật có thể nhận thấy đây là thủy vực


khá phù hợp cho tơm vì chúng có được


nguồn thức ăn tự nhiên giàu dinh dưỡng


như một số loài phiêu sinh thực vật thuộc


các chi là

<i>Coscinodiscus</i>

,

<i>Nitzschia </i>



<i>Gyrosigma </i>

[14]. Chỉ số H’ cho thấy chất


lượng nước ở mức bị ô nhiễm nhẹ tại IP

2


IP

3

, và tại IP

1

lại cho thấy nước không bị ô


nhiễm. Nhưng nếu nhìn về góc độ thành


phần và mật độ phiêu sinh thực vật thì


nhóm kh tảo tại IP

3

có mật độ cao hơn so


với IP

1

và IP

2

, đáng chú ý là sự có mặt của


những lồi kh tảo đóng vai trị là nguồn



thức ăn mang lại giá trị dinh dưỡng cao cho


tôm như

<i>Coscinodiscus</i>

,

<i>Gyrosigma</i>

,




</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b>Hình 3. Chỉ số đa dạng lồi Shannon – Wiener (H’) </b></i>



Bên cạnh đó, nghiên cứu ghi nhận


được sự hiện diện của sáu chi tảo chỉ thị


cho thủy vực bị ô nhiễm chất hữu cơ theo


Palmer (1969) [4] tại vị trí IP

1

gồm:



<i>Cyclotella</i>

,

<i>Navicula</i>

,

<i>Euglena</i>

,

<i>Lepocinclis</i>

,



<i>Chlorella</i>

<i>Pandorina</i>

, ít hơn so với IP

2

một chi tảo là

<i>Phacus</i>

. Từ đó quy về chỉ số


ơ nhiễm Palmer của IP

1

là 14 chỉ thị cho


thủy vực ô nhiễm chất hữu cơ thấp (thủy


vực không bị phú dưỡng hoặc thủy vực có


các yếu tố hay chất gây cản trở đến việc


tồn tại tiếp tục của tảo), IP

2

là 16 chỉ thị


cho thủy vực ô nhiễm chất hữu cơ và có


khả năng sẽ tăng cao.



Liên kết các kết quả thơng số lý - hóa,


chỉ số WQI, thành phần phiêu sinh thực


vật, hai chỉ số sinh học Shannon – Wiener


(H’) và Palmer trong đợt khảo sát tháng


03/2019 chỉ ra rằng các vị trí quảng canh tự


nhiên có chất lượng nước tốt và phù hợp


cho tôm nuôi. Thành phần phiêu sinh thực


vật trong ao cũng thích hợp cho tôm sử


dụng làm nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng.


Trái lại, các vị trí ao thâm canh có chất


lượng nước xấu, trong đó IP

2

có chất lượng



nước kém nhất khi liên tục có chỉ số WQI



thấp rơi vào khoảng màu đỏ (Hình 2), các


thơng số như nhu cầu oxy hóa học (COD)


và tổng chất rắn lơ lửng (TSS) đều cao hơn


mức

cho

phép

của

QCVN


10-MT:2015/BTNMT [16]. Hơn nữa, phiêu


sinh thực vật được ghi nhận có mật độ


nhóm ngành vi khuẩn lam cao nhất so với


các nhóm ngành tảo khác, trong đó có sự


hiện diện của bảy chi tảo chỉ thị cho vùng


nước ô nhiễm chất hữu cơ theo Palmer


(1969) [4] gồm:

<i>Cyclotella</i>

,

<i>Navicula</i>

,



<i>Euglena</i>

,

<i>Lepocinclis</i>

,

<i>Chlorella</i>

,

<i>Pandorina</i>



<i>Phacus</i>

. Đồng thời, tình trạng chất lượng



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đang trong giai đoạn vừa thả giống (được


ba tuần tính đến thời điểm thu mẫu) ngắn


hơn so với hai ao IP

1

và IP

2

(đã được ni


hơn một tháng tính đến thời điểm thu mẫu).


Do đó, tình trạng dinh dưỡng trong môi


trường nước ao IP

3

còn rất thấp so với hai


ao cịn lại (Bảng 3).



Tóm lại, tình trạng dinh dưỡng cao


vượt mức cho phép theo QCVN


10-MT:2015/BTNMT đang xảy ra tại các ao


nuôi tôm thâm canh, thêm vào đó sự có



mặt của nhóm tảo mắt cho thấy mơi trường


nước và đáy ao đã có sự ơ nhiễm hữu cơ từ


việc nhiễm bẫn nền đáy ao do thức ăn thừa


mứa và chất thải tôm nuôi lắng đọng ngày


một nhiều và tình trạng này sẽ cịn tiếp tục


tăng lên qua từng giai đoạn ni [14].


Nhóm vi khuẩn lam sẽ có tác động tiêu cực


đến ao ni khi chúng cịn chiếm vị trí ưu


thế trong ao, vì tơm sẽ rất khó tiêu hóa khi


ăn phải loài tảo này và gây ra bệnh phân


trắng cho tôm [15], đồng thời chất lượng


nước cũng sẽ dần trở nên xấu đi [11]. Hơn



nữa, qua khảo sát thực tế được biết nguồn


nước xả thải của các hộ nuôi thâm canh lại


không được xử lý triệt để trước khi bơm và


xả thải trực tiếp ra các con kênh, rạch, bãi


bồi hay RNM nằm gần đó. Nếu hoạt động


này diễn ra liên tục trong một thời gian dài


rất có khả năng làm cho các vật chất trong


nước thải tồn dư lại môi trường sơng, kênh


rạch. Qua đó gây ảnh hưởng đến đời sống


của các loài sinh vật ngoài tự nhiên và có


thể khi đó các ao nuôi tôm quảng canh tự


nhiên cũng không phải là ngoại lệ.



<b>4. Kết luận</b>



Các vị trí ao quảng canh tự nhiên và


IP

3

có chất lượng nước tương đối tốt và



thích hợp cho sự phát triển của tơm. Cịn


những ao ni tơm thâm canh (ngoại trừ vị


trí ao IP

3

) hiện có tình trạng phì dưỡng bởi


sự giàu có mật độ vi khuẩn lam và sự xuất


hiện của nhóm tảo mắt, đồng thời hai thông


số dinh dưỡng là NH

4+

và COD đều cao


vượt ngưỡng giới hạn cho phép theo


QCVN 10-MT:2015/BTNMT.



<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>



[1]

Forbes, (2020, June 1). Penaeus monodon (giant tiger prawn),

<i>Center for Agriculture </i>


<i>and Biosciences International</i>

[Online]. Available:





[2]

Sournia,

<i>Phytoplankton manual</i>

, Paris: UNESCO, 1978.



[3]

E. Shannon and W. Wiener,

<i>The mathematical theory of communication</i>

, Urbana:


University of Illinois Press, 1949.



[4]

M. Palmer, “A Composite Rating of Algae Tolerating Organic Pollution”,

<i>Journal of </i>


<i>Phycology</i>

, 5, 78-82, 1969.



[5]

Đặng Thị Hồng Phương và Hà Anh Tuấn. “Hoạt động nuôi tôm tập trung và


chất lượng môi trường nước nuôi tôm tại xã Hải Đông, huyện Hải hậu, tỉnh Nam


Định”,

<i>Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ</i>

, 107(7), 31-35, 2013.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

[7]

Huỳnh Phú, “Nghiên cứu đánh giá môi trường chất lượng nước vùng nuôi tôm sú ven


biển Trà Vinh và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững”, Luận án Tiến Sĩ, Đại



học Thủy Lợi, Hà Nội, 2006.



[8]

J. L. Wilhm and T. C. Dorris, “Biological parameters for water quality criteria”,



<i>Bioscience</i>

, 8(6), 477-481, 1986.



[9]

J. M. Landwehr and R. A. Deininger, “A Comparision of Several Water Quality


Indexes”,

<i>Journal of the Water Pollution Control Federation</i>

, 48(5), 954-958, 1976.


[10]

J. M. Landwehr, “Water Quality Indices – Construction and Analysis”, PhD thesis,



University of Michigan, 1974.



[11]

M. Burford, “Phytoplankton dynamics in shrimp ponds”,

<i>Aquaculture Research</i>

, 28,


351-360, 1997.



[12]

Nguyễn Phú Hịa,

<i>Chất lượng mơi trường nước trong nuôi trồng thủy sản</i>

, Đại học



Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2016.



[13]

Nguyễn Văn Công,

<i>Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Thủy </i>


<i>Sản</i>

, Được soạn thảo cho Ngân hàng Thế giới, Washington, DC, 2017.



[14]

Nimda Tép Bạc, (1/6/2020). Tảo độc trong ao nuôi tôm và biện pháp quản lý,

<i>Nguồn </i>


<i>tepbac.com</i>

[Trực tuyến]. Địa chỉ:




[15]

Phạm Thanh Lưu, Trần Thành Thái, Nguyễn Thị Mỹ Yến và Ngô Xuân Quảng, “Đa


dạng thực vật phù du trong ao nuôi tôm sinh thái Cà Mau”,

<i>Kỷ yếu Báo cáo Khoa </i>


<i>học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 7, </i>




793-800, 2017.



[16]

QCVN 10-MT:2015/BTNMT. (2015), Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng


nước biển.



[17]

R. M. Brown, N. I. McClelland, R. A. Deininger and R. G. Tozer, “Water quality


index-do we dare?”,

<i>Water Sewage Works</i>

, 117(10), 339-343, 1970.



[18]

T. M. H. Pham, “Development of Water Quality Indices for Surface Water Quality


Evaluation in Vietnam”,

<i>Journal of Environmental Engineering</i>

, 137, 273-283, 2009.


[19]

TCVN 5994: 1995 (ISO 5667–4: 1987) – Tiêu chuẩn Quốc gia về Chất



lượng nước – Lấy mẫu – Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo.



</div>

<!--links-->
<a href=' /> Đánh giá chất lượng nước vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt huyện thốt nốt cần thơ
  • 88
  • 1
  • 9
  • ×