Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ VÀ NHỮNG ĐIỀU BA MẸ CẦN BIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.13 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ VÀ NHỮNG</b>


<b>ĐIỀU BA MẸ CẦN BIẾT</b>



<b>Ba mẹ có biết, 6 năm đầu đời là thời kỳ mẫn cảm đặc biệt của trẻ về </b>
<b>ngôn ngữ và chỉ đến một lần trong cuộc đời. Nếu ba mẹ bỏ qua giai </b>
<b>đoạn “vàng” này, trẻ rất khó đạt tới độ phát triển ngơn ngữ tối ưu </b>
<b>và tồn diện về trí tuệ, thể chất, tinh thần.</b>


Cho nên, việc tận dụng tối đa “thời kì mẫn cảm” của trẻ để phát triển các
yếu tố nhạy cảm về trí tuệ ngơn ngữ vô cùng cần thiết. Sự thẩm thấu ngôn
ngữ ngay từ khi còn nhỏ của trẻ được đặc trưng bởi các mốc phát triển ngôn
ngữ trong khoảng từ 0 đến 6 tuổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phát triển ngôn ngữ của trẻ để có những tác động vào cơ chế phát triển, thụ
đắc ngôn ngữ tự nhiên ở trẻ một cách phù hợp và hiệu quả.


<b>1. Giai đoạn nằm trong bụng mẹ</b>



Trẻ bắt đầu nhận thức ngôn ngữ ngay từ khi còn trong bụng mẹ khi bộ não
của trẻ được kích hoạt ngay từ những ngày cuối thai kỳ. Trong giai đoạn này,
thai nhi tiếp xúc và làm quen với nhiều loại âm thanh khác nhau. Đầu tiên là
âm thanh của nhịp tim đập, tiếng chuyển động của bản thân mình, tiếng
nhạc mà mẹ cho nghe, giọng nói của mẹ, tiếng cưng nựng của bố,… dần dần
là các âm thanh phức tạp tiếng nhạc, tiếng động từ hoạt động của mọi người
xung quanh.


Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rõ rằng ngay từ khi cịn nằm trong bụng
mẹ, trẻ đã có những hoạt động có tính chất ngơn ngữ đầu tiên. Khi ở vào
tuần tuổi 24 – 27, thai nhi đã học được những đặc trưng âm thanh cơ bản của
ngôn ngữ mẹ đẻ như là nhịp điệu, độ cao, độ dài của âm thanh. Và cho đến
khi được sinh ra, trẻ đã có thể nhận biết một vài âm mà chúng đã được tiếp


xúc thường xuyên, liên tục ngay từ khi cịn nằm trong bụng mẹ. Chính vì thế,
cho trẻ nghe nhạc hay trò chuyện với trẻ ngay từ lúc chưa sinh ra trong giai
đoạn cuối thai kì là một việc mà bất kì bậc cha mẹ nào cũng nên làm.


<b>2. Giai đoạn 0 đến 3 tháng tuổi</b>



Ngay từ lúc sinh ra, trẻ đã có thể phát ra những âm thanh nho nhỏ, mặc dù
năng lực thính giác chưa có biểu hiện rõ ràng. Đến tháng thứ hai, trẻ đã có
thể bắt đầu phát ra những tiếng ọ ẹ, hay tạo ra những tiếng kêu khe khẽ
thích thú. Cũng ở tháng thứ hai, trẻ đã có thể hướng đầu tới phía nguồn phát
ra âm thanh, bắt đầu chú ý đến những âm thanh quen thuộc, bắt đầu biết
lắng nghe tiếng trò chuyện quanh mình, và cũng biết phản ứng lại các âm
thanh to và lạ bằng cách giật mình. Trẻ đã có thể bắt đầu cười ra tiếng khi
tiếp xúc với cha mẹ và người thân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

chính mình hoặc đáp lại những âm thanh của người khác một cách tự nhiên
hoặc bằng cử chỉ.


Ngay ở cuối giai đoạn này, trẻ đã có thể phân biệt một số tương tác bề ngoài
tốt hay xấu với trẻ. Ví dụ bẹo má nhẹ kèm lời mắng u có thể làm cho trẻ
khóc thét, do trẻ chưa hiểu được ý nghĩa của các hành vi đó. Nhưng dần dà
về sau, trẻ đã có thể nhận ra các âm thanh có mục đích và đã có thể dần có
những hành vi đơn giản để đáp ứng lại, ví dụ như trẻ có thể đái khi được xi,
trẻ dễ dàng đi vào giấc ngủ hơn khi nghe tiếng ru,… Ở cuối giai đoạn, trẻ đã
có thể phân biệt được giọng nói của mẹ và giọng nói của người khác. Đặc
biệt, với một số trẻ phát triển sớm, hỏi bố đâu, mẹ đâu là trẻ đã có thể quay
người để đi tìm và có thể tìm đúng, dù khơng phải lần hỏi nào cũng có thể
đáp ứng được.


<b>3. Giai đoạn từ 3 đến 6 tháng tuổi</b>




Bước sang tháng thứ tư, nhìn chung trẻ đã có thể tạo ra nhiều âm ê a khác
nhau, biết nâng cao giọng ê a của mình một cách tự nhiên. Trẻ bắt đầu biết
tập trung chú ý, quan sát tỉ mỉ cử động và hình dáng miệng của người lớn khi
người lớn nói chuyện với trẻ. Ở tháng thứ năm, trẻ đã tự mình phát ra được
một số âm, chủ yếu là nguyên âm, khi tiếp xúc với người hoặc vật, hoặc
trong lúc chơi một mình. Bước sang tháng thứ sáu, nói chung trẻ đã biết quay
đầu hướng sang phía người gọi tên mình và đã có thể phát ra và lặp đi lặp lại
những âm tiết (chưa có nghĩa) đầu tiên.


<b>4. Giai đoạn từ 6 đến 12 tháng tuổi</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Cuối giai đoạn 6-12 tháng tuổi, trẻ có thể bập bẹ những âm thanh đầu tiên
của ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Những từ đó thường là những từ bà, mẹ/ mạ,
ba, nhăm, măm,… Khi nói ra được những từ như vậy thì trẻ cũng đã bắt đầu
biết kết hợp giữa cử chỉ và ngơn ngữ của mình để thực hiện các yêu cầu đơn
giản.


<b>5. Giai đoạn 12-18 tháng tuổi</b>



Đa số trẻ có thể nói ra những từ đầu tiên của ngơn ngữ mẹ đẻ khi trịn một
tuổi. Bắt đầu từ đây, q trình học ngơn ngữ của trẻ bước sang một giai đoạn
mới, giai đoạn mà trẻ sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ một cách chính thức để tiến
hành giao tiếp. Đến 18 tháng tuổi, trẻ đã phát hiện ra rằng mỗi sự vật, hiện
tượng, hành động đều có tên gọi riêng của mình. Đây chính là điểm xuất
phát khiến trẻ có thể bước vào giai đoạn bùng phát ngôn ngữ ở thời kì tiếp
theo.


Trẻ đã có thể nghe hiểu và đáp ứng các hành vi định danh và mệnh lệnh thân
thuộc. Ở cuối giai đoạn này, khi hỏi trẻ những câu hỏi như ở đâu, cái gì,


chúng ta sẽ nhận được những câu trả lời thường xuyên và ổn định hơn trước
nhiều, do chỗ trẻ đã biết gọi tên một số vật quen thuộc với mình, đã biết sử
dụng ngón trỏ đi kèm lời nói.


<b>6. Giai đoạn 18-24 tháng tuổi</b>



Đến giai đoạn này, trẻ đã nhận biết và sử dụng được tên gọi của người quen,
đồ vật quen thuộc trong nhà, các bộ phận cơ thể. Trẻ biết lắng nghe những
câu chuyện ngắn, tập trung quan sát cuộc nói chuyện của người lớn, dễ dàng
lặp lại những từ nghe lỏm được, và biết nghe theo các chỉ dẫn, hiệu lệnh đơn
giản mà khơng cần có cử chỉ hay hành động đi kèm. Cuối giai đoạn, trẻ có
thể tự đặt những câu hỏi như cái gì? đi đâu?…


<b>7. Giai đoạn 24-36 tháng tuổi</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

rất nhanh. Năng lực sử dụng từ ngữ cũng được cải thiện đáng kể, có thể gây
ngạc nhiên cho người lớn.


Trẻ không chỉ học cách gọi tên sự vật, hiện tượng, mà còn học cả những từ
chỉ quan hệ ngữ pháp (cái, của, rồi, chưa, à,…). Trẻ thường xun nói chuyện
một mình, nói chuyện với đồ chơi, quan sát và bắt chước lời nói của người lớn
(cũng như bắt chước làm theo việc người lớn làm). Đến ba tuổi, trẻ có thể có
1.000 từ. Câu nói của trẻ dài năm – sáu âm tiết, thậm chí chín – mười âm tiết.
Năng lực và nhu cầu thực hiện các hành động ngôn ngữ tăng lên đáng kể –
các nhu cầu, mong muốn của trẻ đều có thể được thể hiện trực tiếp bằng các
hành động ngôn ngữ (Con muốn uống. Đái tè…). Trẻ có thể hiểu, nhớ và làm
theo một số mệnh lệnh đơn giản liên tiếp (đi ra ngồi, đóng cửa; bê ghế, ngồi
vào bàn,…).


<b>8. Giai đoạn 3 – 6 tuổi</b>




Đây là giai đoạn mà chúng ta sẽ chứng kiến sự phát triển vượt bậc về chất và
lượng trong ngôn ngữ trẻ. Ở giai đoạn này, các lỗi cơ bản về cách phát âm,
ngữ pháp, cách sử dụng từ ngữ đã được trẻ tự khắc phục, loại bỏ dần dần. Trẻ
dễ dàng nói được các câu có năm-sáu từ. Đến năm tuổi, trẻ có thể đã có
khoảng 5.000 từ. Trẻ nói đã rõ ràng, với một đứa trẻ nói ngọng, người lạ cũng
có thể hiểu đến 75% những gì chúng nói.


Trẻ gần như có thể hiểu hết những gì nghe được hay chủ động tiếp xúc. Thời
điểm này, trẻ đã khá thành thục với ngơn ngữ mẹ đẻ. Trẻ có thể bắt chước lời
nói của người lớn một cách chính xác. Trẻ cũng có thể phát âm chính xác các
chữ cái hay các âm riêng rẽ khi chúng ta dạy trẻ, kể cả những chữ cái hay
âm khơng có trong ngôn ngữ mẹ đẻ. Các kĩ năng giao tiếp được phát triển rất
nhanh. Trẻ biết chủ động gây sự chú ý hay thiết lập quan hệ bằng lời nói (như
rủ bạn chơi).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>

<!--links-->

×