Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0-6 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.98 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
---------------
NIÊN LUẬN
SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0-6 TUỔI

Sinh viên : Nguyễn Thị Lê
Lớp : K49-Tâm lý học
Hà Nội, 01-2007
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Ở động vật, có nững tín hiệu do các sự vật, hiện tượng khách
quan và các thuộc tính của chúng, kể cả các hình ảnh do các tín hiệu đó
tác động vào não gây ra. Các tín hiệu này là cơ sở của hoạt động cảm
tính, trực quan, tư duy cụ thể và cảm xúc cơ thể.
Còn với con người thì sao? Cái gì đã tách con người ra khỏi loài
vật. Đó là các tín hiệu ngôn ngữ - chỉ có ở người. Các tín hiệu ngôn ngữ
là cơ sở sinh lý của tư duy ngôn ngữ, ý thức, tình cảm, và các chức
năng cấp cao của con người. Ngôn ngữ là công cụ để con người truyền
đạt kinh nghiệm cá nhân cho người khác và sử dụng của người khác vào
hoạt động của mình. Từ đó, nó làm cho mình có những khả năng to lớn,
nhận thức và nắm vững được bản chất của tự nhiên, xã hội và bản thân.
Do sống và làm việc cùng nhau nên con người có nhu cầu giao
tiếp với nhau và nhận thức được hiện thực. Trong quá trình lao động
cùng nhau, hai quá trình giao tiếp và nhận thức đó không rời nhau:
trong lao động, con người phải thông báo cho nhau về sự vạt, hiện
tượng nào đó. Nhưng, để thông báo, lại phải khái quát sự vật hiện tượng
đó vào trong một lớp, một nhóm các sự vật, hiện tượng nhất định, cùng
loại. Ngôn ngữ đã ra đời và thoả mãn được nhu cầu thống nhất các hoạt
động đó.


Một đứa trẻ, ngay từ rất sớm, nó đã biết sử dụng ngôn ngữ. Việc
sử dụng ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở việc lặp lại điều mà nó đã nghe.
Mà, trẻ còn sáng tạo ra những câu nói mới, nói về những chủ đề mới và
ngày càng thành thạo hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Các dân tộc khác nhau, các nền văn hoá khác nhau, ở trẻ có
những ngôn ngữ khác nhau, nhưng chúng đều phải trải qua các giai
đoạn phát triển về ngôn ngữ. Không phải ngẫu nhiên đứa trẻ mới sinh ra
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã có thể nói được thành thạo một câu trọn vẹn, đó là cả một quá trình.
Trong bài viết này, tôi chỉ xin dừng lại đi sâu phân tích sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi. Đây là giai đoạn, mà tôi cho rằng sự phát
triển ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đặt nền tảng cho
sự phát triển một cách toàn diện của trẻ ở các giai đoạn tiếp theo.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ
1.1. Các học thuyết về phát triển ngôn ngữ.
1.1.1. Quan điểm học hỏi:
Những người theo quyết định học hỏi nhân cách hai quá trình bắt
chước và củng cố trong học thuyết hấp thụ ngôn ngữ. Đại diện là B.F.
Skiner. Trong cuốn “ứng xử ngôn ngữ” (1957), ông cho rằng trẻ em học
được cách nói đúng vì chúng được củng cố khi nói đúng ngữ pháp.
Người lớn bắt đầu định hình câu nói của trẻ bằng việc củng cố một cách
có lựa chọn những âm tiết bập bẹ gần giống những từ có nghĩa và vì
vậy làm tăng xác suất âm tiết lặp lại. Dần dần qua sự củng cố, trẻ định
hình được âm tiết thành lời, người lớn ngừng củng cố (chú ý hay tán
thành) cho đến khi trẻ kết hợp các trẻ lại với nhau, trước tiền là những
câu đơn giản. Sau là những câu phức hợp.

Một số người khác cho rằng trẻ thu nhận phần lớn ý thức ngôn
ngữ của chúng bằng cách nghe cẩn thận và bắt chước ngôn ngữ của
người lớn.
Theo quan điểm này, chúng ta thấy rõ ràng là bắt chước và củng
cố có vai trò quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ ban đầu. Nhưng
học thuyết này không thể giải thích sự phát triển cú pháp.
1.1.2. Quan điểm tự nhiên.
Sơ đồ I.1. Mô hình tiếp thu ngôn ngữ của thuyết tự nhiên
4
Đầu
vào
ngôn
ngữ
LAD
(LMC)
kỹ năng
xử lý
ngôn ngữ
kiến thức
ngôn ngữ
đã có
Lý thuyết
về ngôn
ngữ. Âm
vị, ngữ
nghĩa, cú
pháp
Hiểu biết
về ngữ
pháp của

trẻ em.
Nghe hiểu
lời nói của
người
khác, sản
sinh lời
nói
Xác định
Đưa vào
Tạo ta
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo các nhà tự nhiên, con người được chương trình hoá về văn
hoá để hấp thụ ngôn ngữ.
Chomsky khẳng định rằng con người (chỉ có con người) bẩm sinh
được trang bị bộ máy tiếp nhận ngôn ngữ (LAD). LAD là bộ máy xử lý
bẩm sinh được kích hoạt nhờ đầu vào ngôn ngữ. Theo ông, LAD chứa
đựng ngữ pháp phổ biến, tức là kiến thức về những qui tắc ngữ pháp
chung cho mọi ngôn ngữ. Vì vậy, dù cho trẻ nghe ngôn ngữ nào, LAD
sẽ cho phép những trẻ có đủ từ vựng kết hợp thành những câu nói đúng
ngữ pháp và hiểu được hầu hết những gì chúng nghe được.
Dan slonbin cho rằng trẻ có “khả năng tạo ngôn ngữ” bẩm sinh
(LMP) LMC cũng giống như LAD.
Khi ngôn ngữ được đưa vào, trẻ có khả năng đoán sai về cơ sở dữ
liệu ngôn ngữ của chúng vô cùng hạn chế. Nhưng nếu chúng tiếp tục xử
lý đầu vào, thì lý thuyết cơ bản về ngôn ngữ của chúng ngày càng phức
tạp cho đến khi chúng thật sự đạt được mức độ sử dụg ngôn ngữ của
người lớn. Vì vậy, những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng tiếp
thu ngôn ngữ là rất tự nhiên và gần như là tự động nếu trẻ có dữ liệu
ngôn ngữ để xử lý.
1.1.3. Quan điểm tương tác.

Theo quan điểm tương tác, sự phát triển ngôn ngữ là một sản
phẩm của sự chuyển hoá phức tạp giữa bản chất tự nhiên và nuôi
dưỡng. Trẻ được sinh ra với bộ não của loài người. Bộ não phát triển
chậm chạp nhưng nó cho phép trẻ thu nhận kiến thức mới và là động cơ
để trẻ chia sẻ kiến thức với người khác.
Mặt khác, ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển trong khung
cảnh tương tác xã hội khi trẻ và những người xung quanh nó cố gắng
gửi thông điệp từ người này đến người khác. Việc trẻ thường xuyên
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tham gia vào giao tiếp ngôn ngữ xã hội có vẻ như là quan trọng nhất
trong việc làm chủ ngôn ngữ.
1.1.4. Quan điểm về sự phát triển ngôn ngữ trẻ em của Vưgôtxki.
Vưgôtxki đề cập đến mối quan hệ tư duy và ngôn ngữ. Theo ông,
tư duy ban đầu của trẻ là tiền ngôn ngữ và ngôn ngữ ban đầu thường
phản ánh những gì mà trẻ biết được. Và, tư duy - ngôn ngữ cuối cùng
được pha trộn, rất nhiều câu nói phi xã hội mà piaget gọi là “hướng
nội” thực tế minh hoạ sự chuyển hoá từ suy luận tiền ngôn ngữ đến suy
luận thành tiếng.
Vưgôtxki cho rằng độc thoại của trẻ đến tiểu học xuất hiện một
cách thường xuyên hơn trong một số khung cảnh so với những khung
cảnh khác. Đặc biệt, Vưgôtxki quan sát thấy trẻ thường nói một mình
khi chúng thử giải quyết vấn đề hoặc theo đuổi những mục tiêu quan
trọng. Những câu nói phi xã hội đó gia tăng đáng kể mỗi khi trẻ chạm
trán với trở ngại lúc theo đuổi đối tượng của chúng. Ông kết luận: Lời
nói phi xã hội không hướng nội mà có tính giao tiếp; nó là lời nói cho
bản thân hay lời nói riêng, nó giúp trẻ hoạch định chiến lược điều chỉnh
hành vi sao cho chúng để đạt được mục đích hơn.
Như vậy, ta thấy tư duy phát triển có phụ thuộc vào ngôn ngữ,
vào công cụ tư duy, vào kinh nghiệm xã hội của trẻ. Vưgôtxki cũng

tuyên bố rằng lời nói riêng trở nên ngày càng ngắn gọn theo lứa tuổi.
Nó không mất hoàn toàn, nó phục vụ như một hệ thống tự động, trở
thành lời nói nội tâm - tư duy bằng từ ngầm mà chúng ta dùng để tổ
chức và điều chỉnh hoạt động thường nhật của mình.
1.2. Định nghĩa ngôn ngữ.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có nhiều lý thuyết cũng như các lĩnh vực khác nhau bàn về khái
niệm ngôn ngữ. Ở đây, tôi xin được định nghĩa ngôn ngữ theo lý thuyết
tâm lý học hoạt động như sau:
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ, dùng làm phương tiện
giao tiếp và công cụ của tư duy.
-Kí hiệu: là bất kỳ cái gì của hiện thực được dùng để thực hiện
hoạt động của con người.
-Kí hiệu từ ngữ: là một hiện tượng khách quan trong đời sống tinh
thần của con người, là một hiện tượng của nền văn hoá tinh thần của
loài người, là một phương tiện xã hội đặc biệt. Kí hiệu từ ngữ cũng tác
động vào hoạt động, làm thay đổi hoạt động, nhưng là hoạt động tinh
thần, hoạt động trí tuệ, hoạt động cấp cao của con người.
Kí hiệu từ ngữ là một hệ thống, mỗi kí hiệu chỉ có ý nghĩa và thực
hiện một chức năng nhất định trong hệ thống của mình.
1.3. Các bộ phận của ngôn ngữ.
Khi nói một đứa trẻ thành thạo ngôn ngữ, ở đó phải hội đủ ba yếu
tố của ngôn ngữ: âm vị, cú pháp, ngữ nghĩa.
1.3.1. Âm vị:
Bao gồm các đơn vị âm thanh căn bản nhất gọi là các âm vị; ảnh
hưởng đến ý nghĩa của cách phát biểu bằng lời nói. Hệ thống âm vị
cũng liên hệ đến cách thức sử dụng các đơn vị âm thanh đó để tạo ra ý
nghĩa bằng cách kết hợp chúng lại thành các từ ngữ.
1.3.2. Cú pháp:

Là các nguyên tắc qui định các từ ngữ và các cụm từ ngữ nên
phối hợp ra sao để hình thành câu nói. Mỗi ngôn ngữ đều có các nguyên
tắc tế nhị nhằm hướng dẫn các từ ngữ nên kết hợp với nhau theo thứ tự
nào để truyền đạt ý nghĩa một cách thuận lợi.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.3. Ngữ nghĩa:
Ngữ nghĩa bao gồm các qui tắc chi phối ý nghĩa của các từ ngữ và
các câu nói.
Các qui tắc ngữ nghĩa cho phép chúng ta sử dụng các từ ngữ và
các câu nói.
Các quy tắc ngữ nghĩa cho phép chúng ta sử dụng các từ ngữ để
chuyển tải các sắc thái tinh tế nhất của ý tưởng.
1.4. Các chức năng của ngôn ngữ.
1.4.1. Chức năng chỉ nghĩa:
Ngôn ngữ được dùng để chỉ sự vật, hiện tượng, tức là làm vật
thay thế cho chúng.
Nhờ chức năng này mà những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài
người được trẻ tiếp thu một cách có hệ thống.
1.4.2. Chức năng thông báo.
Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt và tiếp nhận thông tin, để biểu
cảm và nhờ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành động của con người.
Ví dụ: đứa trẻ muốn ăn một quả cam nó thấy ở trên bàn, nó nói
với mẹ: “con muốn ăn cam”.
Chức năng này của ngôn ngữ còn gọi là chức năng giao tiếp.
1.4.3. Chức năng khái quát hoá.
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ, mà chỉ một
lớp, một loại các sự vật, hiện tượng có thuộc tính chung bản chất. Ngôn
ngữ là một phương tiện đắc lực của hoạt động trí tuệ.
Có thể nói, nhờ có ngôn ngữ, các chức năng tâm lý người, từ

những chức năng đơn giản nhất (cảm giác, tri giác…) đến những chức
năng phức tạp nhất (tư duy, tưởng tượng…) đều được cải tổ, biến đổi về
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chất, làm cho đời sống tâm lí con người cao hơn hẳn đời sống tâm lý
con vật.
Do đó, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ được coi là mặt phát triển
quan trọng nhất trong thời thơ ấu.
II. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0 - 6 TUỔI.
2.1. Tuổi sơ sinh: (0 - 2 tháng)
Tuổi sơ sinh bắt đầu cuộc sống của mình bằng tiếng hét mà những
ngày đầu mang tính chất phản xạ không điều kiện. Tiếng hét ban đầu là
kết quả sự co thắt của khe dọc, sự thắt cơ kèm theo những phản xạ hô
hấp đầu tiên. Một số nhà bác học cho rằng, tiếng hét cũng là sự biểu
hiện của cảm xúc tiêu cực. Sự thắt cơ gây ra cảm giác khó thở. Hay trẻ
có những khuôn mẫu kêu và khóc khác nhau để báo đói, đau và khó
chịu (Nguyễn Văn Đồng - 2004).
Thực ra những trường hợp này không thể phân biệt được phản
ứng cơ và thái độ cảm xúc vì trẻ sơ sinh vẫn chưa có một kinh nghiệm
sống nào cả. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, ngay từ những ngày
đầu của cuộc sống, đứa trẻ đáp lại những cảm giác khó chịu gắn liền
với nhu cầu ăn, ngủ, mặc ấm bằng tiếng hét: trẻ hét khi đói, tã ướt…
Khi được giáo dục bình thường, tiếng hét “oa, oa” của trẻ sơ sinh
chuyển dần dần thành sự biểu hiện ít mạnh mẽ của cảm xúc tiêu cực
tiếng khóc (Mukhina, 1980).
2.2. Tuổi hài nhi (2 - 12 tháng tuổi).
Là một sinh vật còn bất lực, cuộc sống của trẻ hoàn toàn phụ
thuộc vào người lớn. Người lớn cho ăn no, mặc ấm, người lớn tạo ra
những ấn tượng ban đầu… Do đó, giao tiếp với người lớn là nhu cầu
đầu tiên, bức thiết của trẻ em tuổi này mà thiếu nó đứa trẻ không tồn tại

và phát triển được.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhu cầu giao tiếp tạo ta cơ sở cho sự xuất hiện sự bắt chước
những âm thanh trong ngôn ngữ con người. Đứa trẻ sớm bắt đầu yên
lặng, lắng nghe khi người lớn nói với nó. Sau 3 tháng, nếu đứa trẻ có
thể trọng tốt, nó luôn luôn phát ra các âm thanh, phát ra tiếng kêu “gừ
gừ”. Thường tiếng kêu này trở nên mạnh hơn nếu người lớn cúi xuống
bên cạnh đứa trẻ.
Khi phát ra âm thanh, đứa trẻ cũng lắng nghe những âm thanh đó.
Có khi nó bắt chước mình một cách rõ rệt: nó phát ra các âm thanh khá
lâu, những âm thanh mà đầu tiên nó phát ra một cách ngẫu nhiên. Ít lâu
sau đứa trẻ có thể bắt chước khác rõ nhịp điệu của các âm được phát ra.
Chẳng hạn khi người ta đưa võng cho nó đồng thời lại ru “a.. a.. a ! a…
a… a!” đứa trẻ tái tạo lại chính âm thanh đó đồng thời cả nhịp điệu của
chúng nữa (âm thanh có thể có thể khác: “ư … ư… ư!” hay “o… o…
o!”).
Cuộc trò chuyện giữa người lớn và trẻ hài nhi nhìn bề ngoài
tưởng chừng như vô nghĩa. Nhưng hực ra, nó đã khêu gợi ở trẻ trạng
thái cảm xúc tích cực, sự thích thú được giao tiếp với người lớn, và bắt
đầu có những phản ứng lại những sắc thái tình cảm khác nhau trong lời
nói của người lớn. Trẻ thường nhoẻn miệng cười khi nghe thấy những
âm thanh vui vẻ và thường mếu máo khi nghe những âm thanh dữ tợn,
như mắng mỏ hay quát tháo.
Càng về cuối năm, đứa trẻ lại càng thích giao tiếp với người lớn
hơn bằng những âm bập bẹ của mình. Nếu được người lớn đáp ứng thì
đứa trẻ lại càng thích thú phát ra nhiều âm thanh bập bẹ hơn. Âm bập
bẹ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ sau này. Trong tiếng
bập bẹ, trẻ học cách sử dụng môi, lưỡi và hơi thở để chuẩn bị cho việc
học nói.

10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự thông hiểu lời nói của đứa trẻ đầu tiên xuất hiện trên cơ sở tri
giác nhìn và nghe. Quá trình dạy trẻ thông hiểu lời nói thường diễn ra
như sau: người lớn hỏi trẻ “cái gì đây?”, “ở đâu?”, “bố đâu?”, “mẹ
đâu?”… những câu hỏi đó gây ra ở trẻ phản ứng định hướng cho trẻ
nhìn thấy, sau đó cần lặp đi lặp lại nhiều làn quá trình đó, kết quả là
hình thành được mối liên hệ giữa các âm thanh trong câu hỏi và đối
tượng mà người lớn chỉ cho.
Lúc đầu trẻ hài nhi nghe ngôn ngữ như những âm thanh nào đó.
Ngữ âm là yếu tố đầu tiên quyết định thái độ phản ứng của trẻ cũng tức
là quyết định sự hiểu ngôn ngữ của trẻ. Chẳng hạn, khi người lớn nói
với trẻ câu: “Lại đây với bác!” với ngữ điệu nặng nề, nghe như giận dữ
thì đứa trẻ tỏ ra sợ hãi, mếu máo hoặc là khóc. Nhưng vẫn cân “Lại đây
với bác!” mà lại nói với trẻ bằng ngữ điệu trìu mến, âu yếm thì đứa trẻ
sẽ nhoẻn miệng cười và đưa tay ra.
Một thí dụ khác: đưa cho trẻ một bức tranh có chó sói và dê,
người lớn cố tình nói bằng một giọng thô bạo: “Đây là chó sói”. Bằng
một giọng êm dịu hơn: “Con dê con”. Sau đó người lớn bằng cùng một
giọng: “chó sói đâu?” - trẻ chỉ đúng. “Dê con đâu?” cũng chỉ đúng.
Người lớn thay đổi ngữ điệu, câu hỏi về chó sói được nói lên bằng một
giọng mà trước đây người lớn nói về dê con. Trẻ chỉ con dê. Và khi hỏi
về con dê cũng bằng giọng như thế, trẻ chỉ vào con dê. Người lớn hỏi
về con dê bằng giọng thô bạo.Trẻ chỉ vào con sói.
Đến cuối tuổi hài nhi, đã xuất hiện mối liên hệ giữa tên đối tượng
và chính đối tượng, mối liên hệ thể hiện ở sự tìm đối tượng và tìm kiếm
đối tượng. Đó cũng là hình thức đầu tiên của sự thông hiểu ngôn ngữ.
Lúc này trẻ có thể chỉ ra đúng đối tượng mà người lớn hỏi.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nhưng điều quan trọng đối với trẻ không phải là việc tìm kiếm
đúng đối tượng, mà quan trọng là sự tìm kiếm đó cốt là để giao tiếp với
người lớn. Cứ mỗi lần được người lớn khích lệ thì đứa trẻ hết sức vui
mừng, làm thoả mãn nhu cầu giao tiếp.
Cuối tuổi này, ở đứa trẻ đã có thể xuất hiện cả phản ứng ngôn ngữ
để đáp lại lời nói của người lớn. Chẳng hạn, để đáp lại câu hỏi “Bố
đâu?”, thông thường hơn cả là đứa trẻ quay đầu về phía bố và bập bẹ
một cách vui sướng: “Bố ! Bố!”.
Thông thường, trẻ có thể nói được từ 4 đến 15 từ. Những trẻ trai
thường “ít mồm” hơn. Vốn từ thụ đọng phong phú hơn nhiều. Đó là
những tên gọi của đa số cá đồ chơi, bát đĩa, quần áo, đó là những mệnh
lệnh thuộc loại “đưa đây”, “không được”, “lại đây nào”… Hay đó là
những từ phân loại những người xung quanh theo một cách nhất định:
mẹ, bố, bà, em, cô, chú…
Cùng với sự bắt đầu thông hiểu lời nói của người lớn và với việc
sử dụng những từ đầu tiên, bản thân đứa trẻ cũng hướng về người lớn
để đòi hỏi họ giao tiếp với mình, để đòi hỏi biết những tên gọi của
những đồ vật ngày càng mới.
Như vậy, đến cuối tuổi hài nhi, sự lĩnh hội ngôn ngữ đã có tính
chất tích cực và trở thành một trong những phương tiện quan trọng để
mở rộng khả năng giao tiếp của đứa trẻ đối với người lớn. Thật không
đúng nếu cho rằng, lúc đầu đứa trẻ trưởng thành còn sau đó thì người ta
giáo dục nó, dạy nó. Tất cả các hình thức hành vi, tất cả những thuộc
tính tâm lí và năng lực vốn có của con người mà đứa trẻ thu nhận được
đều nhờ ngay từ thuở ấu thơ, người ta đã dạy nó đi, dạy nó hành động
với các đồ vật, dạy nhìn, dạy nghe, quan sát, nhận biết, ghi nhớ (Lê
Văn Hồng, 19810).
12

×