Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiện internet và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.05 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021

NGHIỆN INTERNET VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ, TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Võ Kim Duy1, Dương Thị Huỳnh Mai1, Trần Nguyễn Giang Hương1, Đặng Thị Thiện Ngân1,
Thái Thanh Trúc1

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiện internet đang ngày càng trở nên phổ biến đặc biệt là ở thanh thiếu niên và có thể gây
nên những tác động tiêu cực. Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến nghiện internet ở
học sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 1492 học sinh tại 4
trường trung học cơ sở (khối 8, 9) và 4 trường trung học phổ thông (khối 10, 11, 12). Học sinh trả lời bộ câu hỏi
tự điền bao gồm các thông tin về đặc điểm cá nhân, thói quen sử dụng internet, nghiện internet, sự gắn kết với
cha mẹ và sự gắn kết với trường lớp. Nghiện internet được đánh giá bằng thang đo IAT.
Kết quả: Tỉ lệ học sinh nghiện internet là 59,0%. Kết quả từ mơ hình đa biến cho thấy học sinh có thời gian
truy cập internet nhiều hơn, truy cập internet để đăng ảnh, gửi thư điện tử, sử dụng mạng xã hội có tỉ lệ nghiện
internet cao hơn. Trong khi học sinh được mẹ bảo vệ quá mức có tỉ lệ nghiện internet cao hơn thì sự quan tâm của
cha và mẹ là yếu tố bảo vệ của nghiện internet.
Kết luận: Tỉ lệ nghiện internet của học sinh tại TP. HCM ở mức cao và có mối liên quan với thói quen sử
dụng internet. Sự quan tâm của cha mẹ giúp giảm nghiện internet. Vì thế, gia đình cần có những biện pháp hỗ
trợ phù hợp cho học sinh.
Từ khóa: nghiện internet, trung học cơ sở, trung học phổ thông

ABSTRACT
INTERNET ADDICTION AND ASSOCIATED FACTORS
AMONG SECONDARY AND HIGH SCHOOL STUDENTS IN HO CHI MINH CITY
Vo Kim Duy, Duong Thi Huynh Mai, Tran Nguyen Giang Huong, Dang Thi Thien Ngan,


Thai Thanh Truc * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 153 - 160
Background: Internet addiction has become more and more popular especially among adolescents, resulting
in adverse effects. This study estimated the prevalence and associated factors of internet addiction among students
in Ho Chi Minh city.
Methods: A cross-sectional study was conducted among 1492 students in 4 secondary schools (grade 8, 9)
and 4 high schools (grade 10, 11, 12). Students completed a self-report questionnaire including information about
demographic characteristics, internet-using habits, internet addiction, parental bonding and school
connectedness. Internet addiction was measured through IAT.
Results: The prevalence of internet addiction was 59.0%. Multivariable analysis showed that students who
had more time to access the internet or accessed the internet to post photos, send email, use social networking sites
had higher prevalence of internet addiction. While students with overprotective mothers had higher prevalence of
internet addiction, parental care was the protective factor against internet addiction.
Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Võ Kim Duy
ĐT: 0357600067
1

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Email:

153


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021

Nghiên cứu Y học

Conclusion: The prevalence of internet addiction among students in Ho Chi Minh City was high and was
associated with internet-using habits. Parental care helped decrease internet addiction. Therefore, families should

take appropriate strategies to support students.
Keywords: internet addiction, secondary school, high school
giáo dục lớn nhất của Việt Nam nên tạo điều
ĐẶT VẤN ĐỀ
kiện cho học sinh tiếp cận dễ dàng với internet.
Với tốc độ phát triển nhanh chóng, internet
Kết quả của nghiên cứu sẽ phản ánh mức độ phổ
đang được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới và
biến của tình trạng nghiện internet ở học sinh và
trở thành một phương tiện hữu ích khơng thể
gợi ý các yếu tố liên quan. Từ đó, gia đình và
thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Theo báo cáo
nhà trường có thể định hướng được các chiến
vào tháng 5 năm 2020, thế giới có hơn 4,6 tỉ
lược phịng ngừa hiệu quả để ngăn chặn những
người sử dụng internet và tại Việt Nam ghi nhận
hậu quả nghiêm trọng xảy ra trên các học sinh có
hơn 68 triệu người với chủ yếu là thanh thiếu
nguy cơ nghiện internet.
niên(1). Lứa tuổi thanh thiếu niên là giai đoạn
ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
quan trọng cho sự phát triển thể chất, nhận thức
Đối tượng nghiên cứu
và hành vi(2). Vì thế, nghiện internet ở thanh
thiếu niên là một vấn đề đáng quan tâm trong
Được thực hiện ở học sinh THCS (khối 8,9)
(3)
các chương trình giáo dục sức khỏe .
và THPT (khối 10, 11, 12) từ tháng 9/2019 đến
tháng 7/2020 thuộc các quận 3, 5, Tân Phú và

Tỉ lệ nghiện internet ở thanh thiếu niên ngày
huyện Hóc Mơn tại TP. Hồ Chí Minh.
càng gia tăng ở các nước Châu Á. Nghiên cứu
năm 2014 về tình trạng nghiện internet ở sáu
nước Châu Á ghi nhận tỉ lệ nghiện internet cao
nhất tại Philippin (50,9%), Nhật Bản (47,5%) và
thấp nhất tại Hàn Quốc (13,7%)(3). Tại Việt Nam,
nghiên cứu khảo sát tỷ lệ nghiện internet thực
hiện trên học sinh trung học cơ sở (THCS) thuộc
Đồng Nai năm 2017 là 51,1%(4), trên học sinh
trung học phổ thông (THPT) tỉnh Phú Yên năm
2018 là 56,7%(5). Bên cạnh mức độ phổ biến ở lứa
tuổi thanh thiếu niên, nghiện internet còn gây ra
những hậu quả nghiêm trọng. Theo một phân
tích tổng hợp gồm tám bài báo với 1641 bệnh
nhân nghiện internet cho thấy mối liên quan
giữa nghiện internet và tình trạng lạm dụng
rượu, tăng động giảm chú ý, lo lắng và trầm
cảm(6). Việc sử dụng Internet quá nhiều cịn dẫn
tới các tác động khơng tốt đến não bộ, sức khỏe,
giáo dục và tương tác xã hội của thanh thiếu
niên(7). Do đó, việc đánh giá và có biện pháp
ngăn ngừa sớm là hoàn toàn cần thiết.
Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ và các
yếu tố liên quan của nghiện internet ở học sinh
tại TP. HCM. Đây là trung tâm kinh tế, văn hóa,

154

Tiêu chí chọn vào

Tất cả học sinh đang học tại các lớp được
chọn vào thời điểm nghiên cứu và đồng ý
tham gia trả lời bộ câu hỏi.

Tiêu chí loại ra
Những học sinh khơng được phụ
huynh/người giám hộ đồng ý cho tham gia
nghiên cứu. Những học sinh có tình trạng sức
khỏe kém khơng thể tham gia trả lời bộ câu hỏi.
Những học sinh vắng mặt vào thời điểm khảo
sát, quay lại lần 2 nhưng không gặp.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương
pháp chọn mẫu cụm nhiều bậc,
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính tốn dựa trên cơng thức
ước lượng một tỉ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là
0,05; sai số biên là 0,04; tỉ lệ học sinh nghiện
internet ước tính là 0,567(5). Nghiên cứu chọn hệ
số thiết kế là 2, tỉ lệ mất mẫu 20% do khả năng
phụ huynh từ chối cho học sinh tham gia.

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
24 quận/huyện


19 quận nội thành

5 huyện ngoại thành

3 quận nội thành

1 huyện ngoại thành

Chọn ngẫu nhiên 1
trường THCS và THPT
cho mỗi quận

Chọn ngẫu nhiên 1
trường THCS và THPT
cho mỗi huyện

6 trường THCS và THPT

2 trường THCS và THPT

Chọn ngẫu nhiên 2 lớp
mỗi khối tại mỗi trường

Chọn ngẫu nhiên 2 lớp
mỗi khối tại mỗi
trường

30 lớp
Khối 8: 6 lớp Khối 10: 6 lớp

Khối 9: 6 lớp Khối 11: 6 lớp
Khối 12: 6 lớp

10 lớp
Khối 8: 2 lớp Khối 10: 2 lớp
Khối 9: 2 lớp Khối 11: 2 lớp
Khối 12: 2 lớp

40 lớp
Khối 8 (8 lớp); Khối 9 (8 lớp); Khối 10 (8 lớp); Khối 11 (8 lớp); Khối 12 (8 lớp)

Hình 1: Quy trình chọn mẫu
1492 phiếu khảo sát hợp lệ được đưa vào phân
Phương pháp thực hiện
tích, chiếm tỉ lệ 90,5%.
Tại thời điểm khảo sát, 40 lớp được chọn
tham gia nghiên cứu có tổng cộng 1648 học sinh.
Các biến số chính và cách đo lường
Tất cả các học sinh đều được xin ý kiến đồng
Bộ câu hỏi khảo sát bao gồm các thông tin
thuận của phụ huynh/người giám hộ trước khi
về đặc điểm cá nhân, gia đình, thói quen sử
tham gia nghiên cứu. Q trình thu thập dữ liệu
dụng internet, tình trạng nghiện internet, đánh
được giáo viên và nghiên cứu viên viên giám sát
giá sự gắn kết của học sinh với cha mẹ và trường
nghiêm túc. Trong hoặc sau quá trình khảo sát
lớp. Tình trạng nghiện internet của học sinh
nếu học sinh cảm thấy bất ổn về tinh thần có thể
được đánh giá bằng thang đo IAT (Internet

liên hệ trực tiếp với nghiên cứu viên hoặc thông
Addiction Test) đã sử dụng trên nhiều quốc gia
báo với giáo viên chủ nhiệm hay cha mẹ để được
với độ tin cậy và giá trị cao(8,9). Trắc nghiệm
hỗ trợ tư vấn miễn phí từ các chuyên gia tâm lý.
nghiện internet IAT được dùng trong các nghiên
Sau khi rà soát và kiểm tra số liệu, tổng cộng
cứu trước đây và dựa trên khảo sát ở học sinh

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

155


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
THCS tại Hà Nội cho thấy có tính tin cậy cao(10).
Thang đo gồm 20 câu hỏi sử dụng thang 5 điểm
từ 1 (không bao giờ) đến 5 (ln ln). Học sinh
có dấu hiệu của nghiện internet khi tổng điểm
của thang đo ≥50. Thang đo PBI (Parental
Bonding Instrument) được sử dụng để đánh giá
sự gắn kết của con cái với cha mẹ. Thang đo có
25 câu hỏi riêng biệt cho cha và mẹ, bao gồm 12
câu hỏi về sự quan tâm và 13 câu hỏi đo lường
sự bảo vệ quá mức. Sự gắn kết với trường lớp
được đánh giá bằng SCS (School Connectedness
Scale) gồm 5 câu với mỗi câu trả lời có 5 tùy
chọn theo thang đo Likert. Với mỗi câu hỏi trong
thang đo, học sinh trả lời "Đồng ý" hoặc "Hồn
tồn đồng ý" có nghĩa là "Có", các lựa chọn cịn

lại là "Khơng".

Nghiên cứu Y học
dạng tỉ số số chênh OR (Odds Ratio) kèm theo
khoảng tin cậy 95%.

Y đức
Nghiên cứu này được thông qua Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học
Đại học Y Dược TP. HCM số 97/HĐĐĐ,
ngày 18/02/2020.

KẾT QUẢ
Trong tổng số 1492 học sinh thì tỉ lệ nữ
(54,6%) cao hơn nam (45,4%). Tỉ lệ các khối
lớp gần như tương đồng nhau. Đa số học
sinh có học lực khá giỏi (80,5%) và hạnh
kiểm tốt (80,8%). Tỉ lệ học sinh nghiện
internet dựa trên thang đo IAT là 59,0%. Kết
quả phân tích mối liên quan cho thấy so với
học sinh lớp 8 thì các học sinh khối THPT
nghiện internet cao hơn. Nhóm học sinh xếp
loại hạnh kiểm khá thì nghiện internet cao
hơn nhóm học sinh có hạnh kiểm tốt với
OR=1,80 (KTC 95% 1,33-2,43) (Bảng 1).

Phương pháp thống kê
Dữ liệu được tổng hợp và phân tích bằng
phần mềm Stata 14.2. Với các phân tích đơn biến,
kiểm định Chi bình phương và Fisher được

dùng khi phù hợp. Các yếu tố liên quan trong
phân tích đơn biến được đưa vào mơ hình hồi
quy logistic đa biến. Kết quả được báo cáo dưới
Bảng 1: Phân bố của tỉ lệ nghiện internet theo các đặc điểm cá nhân của học sinh (n=1492)
Đặc điểm

Tổng
n=1492
n (%)

Nam
Nữ

677 (45,4)
815 (54,6)

8
9
10
11
12

305 (20,4)
295 (19,8)
295 (19,8)
311 (20,8)
286 (19,2)

Giỏi
Khá

Trung bình
Dưới trung bình

517 (34,7)
683 (45,8)
268 (17,9)
24 (1,6)

Tốt
Khá
Trung bình
Yếu

1206 (80,8)
234 (15,7)
40 (2,7)
12 (0,8)

156

Nghiện internet

Khơng
(n=881; 59,0%)
(n=611; 41,0%)
n (%)
n (%)
Giới tính
398 (45,2)
279 (45,7)

483 (54,8)
332 (54,3)
Khối lớp
160 (18,2)
145 (23,7)
157 (17,8)
138 (22,6)
188 (21,3)
107 (17,5)
200 (22,7)
111 (18,2)
176 (20,0)
110 (18,0)
Học lực
290 (32,9)
227 (37,2)
411 (46,6)
272 (44,5)
167 (19,0)
101 (16,5)
13 (1,5)
11 (1,8)
Hạnh kiểm
682 (77,4)
524 (85,7)
164 (18,6)
70 (11,5)
26 (3,0)
14 (2,3)
9 (1,0)

3 (0,5)

p

OR
(KTC 95%)

0,853

1
1,02 (0,83-1,25)

0,852
0,005
0,003
0,026

1
1,03 (0,75-1,42)
1,59 (1,15-2,21)
1,63 (1,18-2,26)
1,45 (1,05-2,01)

0,155
0,544
0,556

0,85 (0,67-1,07)
1
1,09 (0,82-1,46)

0,78 (0,35-1,77)

<0,001
0,291
0,212

1
1,80 (1,33-2,43)
1,43 (0,74-2,76)
2,30 (0,62-8,56)

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021

Nghiên cứu Y học

Bảng 2: Phân bố của tỉ lệ nghiện internet theo các đặc điểm sử dụng internet của học sinh (n=1492)
Nghiện internet

Khơng
Đặc điểm
(n=881; 59,0%) (n=611; 41,0%)
n (%)
n (%)
Mức độ truy cập internet
Hàng ngày
1366 (91,6)
824 (93,5)

542 (88,7)
Một vài lần/tuần
100 (6,7)
47 (5,3)
53 (8,7)
Một vài lần/tháng
26 (1,7)
10 (1,2)
16 (2,6)
Thời gian truy cập internet
<2 giờ/ngày
247 (16,6)
102 (11,6)
145 (23,7)
2-4 giờ/ngày
684 (45,8)
396 (44,9)
288 (47,2)
>4 giờ/ngày
561 (37,6)
383 (43,5)
178 (29,1)
Địa điểm truy cập internet
Ở nhà trong phòng riêng
1268 (85,0)
779 (88,4)
489 (80,0)
Ở nhà trong phịng khách khi có người thân
880 (59,0)
537 (61,0)

343 (56,1)
Ở nhà trong phịng khách khi khơng có ai
764 (51,2)
505 (57,3)
259 (42,4)
Nơi cơng cộng
464 (31,1)
311 (35,3)
153 (25,0)
Ở trường ngồi giờ học
520 (34,9)
342 (38,8)
178 (29,1)
Ở trường trong giờ học
207 (13,9)
148 (16,8)
59 (9,7)
Phương tiện thường sử dụng để truy cập internet
Điện thoại di động
1372 (92,0)
821 (93,2)
551 (90,2)
Máy tính cá nhân
687 (46,1)
425 (48,2)
262 (42,9)
Máy tính bảng
418 (28,0)
277 (31,4)
141 (23,1)

Máy tính dùng chung
341 (22,9)
225 (25,5)
116 (19,0)
Mục đích truy cập internet
Mạng xã hội
1379 (92,4)
832 (94,4)
547 (89,5)
Nghe nhạc
1161 (77,8)
716 (81,3)
445 (72,8)
Xem phim
1120 (75,1)
692 (78,6)
428 (70,1)
Học tập
1086 (72,8)
656 (74,5)
430 (70,4)
Nói chuyện với người khác
1073 (71,9)
673 (76,4)
400 (65,5)
Chơi game
1046 (70,1)
641 (72,8)
405 (66,3)
Tìm kiếm thơng tin

1037 (69,5)
643 (73,0)
394 (64,5)
Đọc tin tức
796 (53,4)
495 (56,2)
301 (49,3)
Mua sắm
608 (40,8)
395 (44,8)
213 (34,9)
Gửi thư điện tử
565 (37,9)
384 (43,6)
181 (29,6)
Đăng ảnh
515 (34,5)
358 (40,6)
157 (25,7)
Tổng
n=1492
n (%)

Hơn 90% học sinh sử dụng internet hàng
ngày và trong đó chủ yếu truy cập từ 2-4
giờ/ngày (45,8%). Học sinh dùng càng nhiều thời
gian sử dụng internet thì khả năng nghiện
internet càng cao. Phần lớn học sinh thường truy
cập internet ở nhà trong phịng riêng (85,0%).
Tình trạng nghiện internet có mối liên quan có ý

nghĩa thống kê với các địa điểm truy cập internet
(p <0,05). Điện thoại di động là thiết bị mà học
sinh thường dùng nhất để truy cập internet
(92,0%). Các phương tiện như điện thoại di
động, máy tính bảng, máy tính cá nhân hay

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

p

0,010
0,029

OR
(KTC 95%)

1
0,58 (0,39-0,88)
0,41 (0,19-0,91)

1
<0,001 1,95 (1,45-2,63)
<0,001 3,06 (2,24-4,17)
<0,001
0,063
<0,001
<0,001
<0,001
<0,001


1,91 (1,43-2,54)
1,22 (0,99-1,50)
1,83 (1,48-2,25)
1,63 (1,30-2,05)
1,54 (1,24-1,93)
1,89 (1,37-2,60)

0,037
0,041
<0,001
0,003

1,49 (1,03-2,17)
1,24 (1,01-1,53)
1,53 (1,21-1,94)
1,46 (1,14-1,88)

0,001
<0,001
<0,001
0,082
<0,001
0,007
<0,001
0,008
<0,001
<0,001
<0,001

1,99 (1,35-2,93)

1,62 (1,27-2,07)
1,57 (1,24-1,98)
1,23 (0,97-1,55)
1,71 (1,36-2,14)
1,36 (1,09-1,70)
1,49 (1,19-1,86)
1,32 (1,07-1,62)
1,52 (1,23-1,88)
1,84 (1,47-2,28)
1,98 (1,58-2,48)

dùng chung đều có mối liên quan đến nghiện
internet (p <0,05). Đa số học sinh khi sử dụng
internet đều truy cập vào các trang mạng xã hội
(92,4%), một số hoạt động cũng chiếm tỉ lệ cao
như nghe nhạc (77,8%), xem phim (75,1%), học
tập (72,8%), nói chuyện với người khác (71,9%),
chơi game (70,1%). Hầu hết các yếu tố này đều
liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng
nghiện internet ở học sinh (Bảng 2).
Phần lớn các học sinh đều sống chung với cả
cha và mẹ (85,5%). Gần một nửa số học sinh
tham gia cảm nhận được sự quan tâm của cha

157


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021

Nghiên cứu Y học


(48,2%) và mẹ (41,1%). Trong khi đó có gần hai
quan tâm của mẹ (34,1%) là thấp hơn so với tỷ lệ
phần ba học sinh cảm thấy cha mẹ bảo vệ quá
này ở nhóm học sinh không nghiện internet lần
mức (với cha là 62,1% và mẹ là 61,8%). Sự quan
lượt là 58,2% và 50,9%. Trong khi đó, nhóm học
tâm của cha mẹ là yếu tố góp phần làm giảm
sinh nghiện internet lại có tỷ lệ bảo vệ quá mức
nghiện internet ở học sinh. Tỷ lệ học sinh nghiện
của cha hoặc của mẹ lại cao hơn so với nhóm học
internet có sự quan tâm của cha (48,2%), hoặc sự
sinh không nghiện internet (Bảng 3).
Bảng 3: Phân bố của tỉ lệ nghiện internet theo các đặc điểm gia đình của học sinh (n=1492)
Đặc điểm

Cha và mẹ
Cha hoặc mẹ
Họ hàng
Khác
Quan tâm của cha (n=1365)
Quan tâm của mẹ (n=1397)
Bảo vệ quá mức của cha (n=1365)
Bảo vệ quá mức của mẹ (n=1397)

Nghiện internet

Khơng
(n=881; 59,0%)
(n=611; 41,0%)

n (%)
n (%)
Người đang sống chung
1275 (85,5)
741 (84,1)
534 (87,4)
175 (11,7)
111 (12,6)
64 (10,5)
140 (9,4)
86 (9,8)
54 (8,8)
26 (1,7)
13 (1,5)
13 (2,1)
Sự gắn kết với cha mẹ
658 (48,2)
329 (41,1)
329 (58,2)
574 (41,1)
277 (34,1)
297 (50,9)
847 (62,1)
541 (67,6)
306 (54,2)
863 (61,8)
560 (68,9)
303 (51,9)

Tổng n=1492

n (%)

p

OR
(KTC 95%)

0,077
0,210
0,548
0,347

0,76 (0,57-1,03)
1,23 (0,89-1,71)
1,12 (0,78-1,59)
0,69 (0,32-1,50)

<0,001
<0,001
<0,001
<0,001

0,50 (0,40-0,62)
0,50 (0,40-0,62)
1,77 (1,42-2,21)
2,05 (1,65-2,56)

Bảng 4: Phân bố của tỉ lệ nghiện internet theo các đặc điểm gắn kết với trường lớp của học sinh
(n=1492)
Đặc điểm



Khơng

Khơng

Khơng

Khơng

Khơng

Nghiện internet

Khơng
(n=881; 59,0%)
(n=611; 41,0%)
n (%)
n (%)
Thấy vui khi học tại trường
1099 (73,7)
616 (69,9)
483 (79,1)
393 (24,3)
265 (30,1)
128 (20,9)
Cảm thấy an toàn ở trường
1079 (72,3)
629 (71,4)
450 (73,7)

413 (27,7)
252 (28,6)
161 (26,3)
Rất thích là học sinh của trường
1065 (71,4)
607 (68,9)
458 (75,0)
427 (28,6)
274 (31,1)
153 (25,0)
Cảm thấy gần gũi với mọi người trong trường
930 (62,3)
530 (60,2)
400 (65,5)
562 (37,7)
351 (39,8)
211 (34,5)
Giáo viên trong trường đối xử công bằng với học sinh
844 (56,6)
472 (53,6)
372 (60,9)
648 (43,4)
409 (46,4)
239 (39,1)
Tổng
n=1492
n (%)

Về mức độ gắn kết với trường lớp, phần lớn
các học sinh cảm thấy vui khi học tại trường

(73,7%), cảm thấy an tồn ở trường (72,3%), rất
thích là học sinh của trường (71,4%). Học sinh
cảm thấy gần gũi với mọi người trong trường
(62,3%) và cho rằng giáo viên đối xử công bằng
với học sinh (56,6%). Những cảm nhận của học
sinh về trường lớp có liên quan đến tình trạng
nghiện internet. Đối với nhóm học sinh có
nghiện internet, tỷ lệ các học sinh này cảm thấy

158

p

OR
(KTC 95%)

<0,001

0,62 (0,48-0,78)
1

0,339

0,89 (0,71-1,13)
1

0,011

0,74 (0,59-0,93)
1


0,038

0,80 (0,64-0,99)

0,005

0,74 (0,60-0,91)
1

vui khi học tại trường, cảm thấy an toàn ở
trường, rất thích là học sinh của trường, cảm
thấy gần gũi với mọi người trong trường hay
cảm thấy giáo viên trong trường đối xử công
bằng với học sinh đều thấp hơn có ý nghĩa thống
kê so với các tỷ lệ này ở nhóm học sinh khơng
nghiện internet với các giá trị OR <1 và p <0,05
(Bảng 4).
Kết quả phân tích đa biến cho thấy nhóm
học sinh nghiện internet có tỉ lệ sử dụng internet

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021

Nghiên cứu Y học
từ 2 giờ trở lên, truy cập các trang mạng xã hội,
đăng ảnh và gửi thư điện tử cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với các tỉ lệ này ở nhóm khơng

nghiện internet với OR>1 và p <0,001. Về sự gắn
kết giữa học sinh và cha mẹ, nhóm học sinh
nghiện internet có tỉ lệ được mẹ bảo vệ q mức
cao hơn nhóm khơng nghiện internet. Trong khi
đó, nhóm học sinh nghiện internet có tỉ lệ cha
hoặc mẹ quan tâm thấp hơn so với nhóm khơng
nghiện internet (Bảng 5).
Bảng 5. Mơ hình đa biến giữa nghiện internet và
các đặc điểm của học sinh (n=1492)
Đặc điểm

p

OR
(KTC 95 %)

Thời gian truy cập internet
<2 giờ/ngày
1
2-4 giờ/ngày
<0,001 1,81 (1,30-2,52)
>4 giờ/ngày
<0,001 2,86 (2,01-4,06)
Mục đích truy cập internet
Đăng ảnh
0,003 1,52 (1,16-2,00)
Mạng xã hội
0,043 1,59 (1,01-2,50)
Gửi thư điện tử
0,032 1,33 (1,02-1,73)

Sự gắn kết với cha mẹ
Quan tâm của cha
<0,001 0,65 (0,50-0,85)
Quan tâm của mẹ
0,047 0,76 (0,58-0,99)
Bảo vệ quá mức của mẹ <0,001 1,88 (1,47-2,41)

BÀN LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên được tiến hành
tại 4 quận/huyện của TP. HCM. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh THCS và
THPT nghiện internet là khá cao so với nghiên
cứu trước đây ở các nước Châu Á(3). Điều này
có thể do Việt Nam là một trong tám quốc gia
có số người sử dụng internet cao nhất Châu
Á(1). Trong cuộc thăm dị ý kiến tồn cầu với
hơn 10.000 thanh thiếu niên tại 25 quốc gia do
UNICEF thực hiện vào năm 2016 cho thấy 72%
thanh thiếu niên Việt Nam sử dụng internet(11).
Tỉ lệ học sinh nghiện internet ghi nhận cũng
cao hơn so với nghiên cứu trước đây trên khối
THCS tại Đồng Nai(4,12) hay khối THPT tại Phú
n(5). Có thể thấy tình trạng nghiện internet
đang ngày càng phổ biến và cần được quan
tâm ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Internet mang
lại rất nhiều lợi ích, thế nhưng sử dụng như

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

thế nào để khơng bị lệ thuộc cần phải xem xét

và có giải pháp phòng ngừa.
Mối liên quan giữa nghiện internet và thời
gian truy cập internet được tìm thấy tương đồng
với các nghiên cứu trước đây(13). Tuy nhiên, đây
là nghiên cứu cắt ngang nên gây khó khăn trong
việc đánh giá chiều hướng liên quan. Hiện vẫn
chưa rõ học sinh dành nhiều thời gian để truy
cập internet góp phần vào nghiện internet hay
nghiện internet khiến học sinh dùng nhiều thời
gian sử dụng mạng. Nghiên cứu ghi nhận
nghiện internet gia tăng ở nhóm học sinh sử
dụng mạng xã hội, tương đồng với khảo sát tại
Hà Lan(14). Nghiên cứu cịn tìm thấy mối liên
quan giữa mục đích đăng ảnh và gửi thư điện tử
với tình trạng nghiện internet của học sinh. Đây
cũng là phát hiện mới chưa được ghi nhận trong
các nghiên cứu trước đây. Từ khi xuất hiện,
internet được các thanh thiếu niên yêu thích vì
đây là cơng nghệ hứa hẹn mang lại niềm vui, thú
vị và sáng tạo. Các học sinh thích tạo một hồ sơ
trên mạng để kết bạn mới, đăng ảnh và trò
chuyện(15). Ở độ tuổi này, thanh thiếu niên
thường biểu lộ rõ tính tự lập, tâm lý cho rằng
người lớn khơng đánh giá đúng đắn, nghiêm túc
những điều các em nghĩ, những việc các em làm
cũng như sự trưởng thành của các em. Do đó,
thanh thiếu niên dễ có xu hướng xa lánh người
lớn(2). Việc nắm bắt được tâm lý lứa tuổi và xác
định các học sinh có nguy cơ cao nghiện internet
sẽ giúp ích cho việc đưa ra các biện pháp can

thiệp phù hợp.
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình
trạng nghiện internet và sự gắn kết với cha mẹ.
Trong khi cha mẹ quan tâm con cái giúp giảm tỉ
lệ nghiện internet thì sự bảo vệ quá mức làm
tăng tỉ lệ này. Kết quả tương đồng với nghiên
cứu được thực hiện tại Ấn Độ(16), Hy Lạp(17) và
một lần nữa cho thấy vai trò của cha mẹ đối với
vấn đề nghiện internet ở học sinh. Những thanh
thiếu niên được cha mẹ quan tâm sẽ dành thời
gian cho các hoạt động khác thay vì sử dụng
internet. Điều này thúc đẩy sự phát triển thể
chất, nhận thức và xã hội. Nếu thiếu đi sự hỗ trợ

159


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
từ phía gia đình, thanh thiếu niên có xu hướng
tìm kiếm sự hỗ trợ từ xã hội thơng qua các trải
nghiệm trên mạng(16,18). Việc kiểm sốt con cái
quá mức của mẹ có thể gây nên những hậu quả
tiêu cực. Từ đó, gợi ý một cách phong cách nuôi
dạy phù hợp là khi cha mẹ quan tâm, bảo vệ
nhưng cần tôn trọng tự chủ của con cái.
Mặc dù, nghiên cứu đã tiến hành kiểm sốt
các sai lệch thơng tin có thể xảy ra. Tuy nhiên,
cơng cụ mà nghiên cứu sử dụng là bộ câu hỏi tự
điền có thể gây ra sai lệnh thơng tin do q trình
hồi tưởng và tự báo cáo. Đây cũng là hạn chế cần

được lưu ý của nghiên cứu.

KẾT LUẬN
Tỉ lệ nghiện internet ở học sinh ở mức cao và
có mối liên quan đến thói quen sử dụng internet,
sự gắn kết với cha mẹ. Vì thế, gia đình cần có các
biện pháp phù hợp để quản lý tốt quỹ thời gian
sử dụng internet, các hoạt động trên mạng của
học sinh. Bên cạnh đó, cha mẹ cũng quan tâm
con cái nhiều hơn, lắng nghe và chia sẻ với các
em cách sử dụng internet hiệu quả. Tuy nhiên,
cũng khơng nên kiểm sốt con cái q mức
khiến các em muốn che giấu các hoạt động của
mình trên internet.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Internet World Stats (2020). Internet Usage in Asia. URL:
/>2. Vũ Thị Nho (2008). Những đặc điểm tâm lý của tuổi thiếu niên.
In: Vũ Thị Nho. Tâm lý học phát triển, pp.60-64. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Mak K, Lai CM, Watanabe H et al (2014). Epidemiology of
Internet Behaviors and Addiction Among Adolescents in Six
Asian Countries. Cyberpsychology, Behavior and Social Networking,
17(11):720-728.
4. Nguyễn Trường Viên, Trần Thị Anh Thư, Thái Thanh Trúc
(2018). Mối liên quan giữa nghiện Internet và trầm cảm ở học
sinh trung học cơ sở Nguyễn Công Trứ Thành phố Biên Hịa,
Đồng Nai. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 22(1):339-346.

160


Nghiên cứu Y học
5. Đoàn Thị Linh Hiếu (2019). Tỉ lệ nghiện internet và mối liên
quan với trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông Lê Lợi,
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên năm 2019. Khóa luận tốt nghiệp
bác sĩ Y học dự phịng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
6. Ho RC, Zang MWB, Tsang TY et al (2014). The association
between internet addiction and psychiatric co-morbidity: a
meta-analysis. BMC Psychiatry, 14(1):1-10.
7. Phạm Thị Thuỳ Linh (2017). Ảnh hưởng của mạng internet đối
với giới trẻ: Cái nhìn từ phía khoa học thần kinh. Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu Giáo dục, 33(3):1-8.
8. Boysan M, Kuss DJ, Barut Y et al (2017). Psychometric properties
of the Turkish version of the internet addiction test (IAT).
Addictive Behaviors, 64(1):247-252.
9. Milani L, Osualdella D, Blasio PD (2009). Quality of
Interpersonal Relationships and Problematic Internet Use in
Adolescence. CyberPsychology & Behavior, 12(6):681-684.
10. Đặng Hoàng Minh, Nguyễn Thị Phương (2013). Tương quan
giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần
của học sinh trung học cơ sở. Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,
29(2):34-42.
11. Unicef (2017). Làm cho thế giới công nghệ số an toàn hơn cho trẻ
em – đồng thời tăng cường khả năng tiếp cận trực tuyến nhằm
mang lại lợi ích cho những em thiệt thịi nhất. URL:
/>12. Lê Minh Cơng (2013). Tình trạng nghiện internet ở học sinh
trung học cơ sở tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Y tế
Công cộng, 28(28):70-78.
13. Lam LT (2015). Parental mental health and Internet Addiction in
adolescents. Addictive Behaviors, 42(1):20-23.

14. Kuss DJ, Van Rooji AJ, Shorter GW et al (2013). Internet
addiction in adolescents: Prevalence and risk factors. Computers
in Human Behavior, 29(5):1987–1996.
15. Yusof SHM, Othman SH (2018). The Cyberpsychology Factors
of Internet Addiction among School Teenagers. International
Journal of Innovative Computing, 8(3):31-37.
16. Bhagat G, Sehgal M (2011). The relationship of parental bonding
and internet addiction. Indian Journal of Psychological Scienc,
2(2):29-37.
17. Floros G, Siomos K (2013). The relationship between optimal
parenting, Internet addiction and motives for social networking
in adolescence. Psychiatry Research, 209(1):529–534
18. Tichon J, Shapiro M (2003). The Process of Sharing Social
Support in Cyberspace. Cyberpsychology & Behavior, 6(2):161-170.

Ngày nhận bài báo:

16/11/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo:

01/02/2021

Ngày bài báo được đăng:

10/03/2020

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng




×