TUỔI DẬY THÌ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở
HỌC SINH NỮ 8-11 TUỔI
TĨM TẮT
Đặt vấn đề: Trẻ dậy thì cần có sự chăm sóc đặc biệt nhằm giải tỏa gánh nặng
tâm lý cho trẻ. Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định tuổi dậy thì và yếu tố liên
quan ở nữ 8-11 tuổi tại nội thành TP.HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang vào tháng 2 &
3/2008 ở các bé gái 8-11 tuổi tại 4 trường phổ thông cơ sở, được chọn ngẫu
nhiên phân tầng ở TP.HCM. Cơ giáo chủ nhiệm đóng vai trị điều tra viên ngay
tại lớp học. Có kinh lần đầu là tiêu chuẩn chẩn đốn của dậy thì. Phỏng vấn các
yếu tố ảnh hưởng rồi so sánh giữa hai nhóm có kinh và chưa có kinh.
Kết quả: Khảo sát 1.571 bé gái 8-11 tuổi, tỷ lệ dậy thì là 13,9%. Trung vị của
tuổi hành kinh lần đầu trong nhóm này là 10. Dậy thì sớm hơn bình thường liên
quan có ý nghĩa thống kê đến sống ở trung tâm thành phố (OR* =1,33), kinh tế
gia đình khá giả (OR* = 2,8), BMI cao (OR* =4,6), kinh đầu mẹ sớm (OR* =
3,72). Một số yếu tố khác cũng chỉ cho thấy liên quan như: học lực, thời gian
sử dụng internet hay xem tivi.
Kết luận: Cứ 100 bé gái 8-11 tuổi thì có 14 bé đã dậy thì ở TP HCM 2008.
Cần có chương trình giáo dục về giới tính và vệ sinh kinh nguyệt trong trường
cấp I bắt đầu từ lớp 2.
ABSTRACT
PUBERTY AND RISK FACTORS AMONG STUDENTS AT THE AGE OF
8-11 IN THE CENTER DISTRICTS IN HCMC (2008)
Nguyen Thi Kieu Oanh, Vo Minh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 92 - 97
Background: Puberty children need special care to help them to release
pschycological depression. Our study aim is exam the prevalence and risk
factors of puberty among children 8-11 year-old in the center districts in
HCMC.
Method: A cross-sectional study conducted from Feb to March 2008, among 8
–11 year-old children at 4 elementary schools in HCMC by using the stratified
randomized selection. Female teachers took a role of investigators for our
study. Menarche is gold standard for confirming puberty. Face-to-face
interview applied for getting risk factors of puberty, we compared the odd of
the factors between with and without menarche.
Result: Conducted research on 1,571 female students from 8 to 11 year old,
prevalence of puberty 13.9%. Among these subjects, Medium of menarche was
10 There were some factors found having significantly relation with the earlier
puberty such as living in the center of city (OR* = 1.33), higher economic class
(OR* =2.8), high BMI (OR* = 4.6), mom with early menarche (OR* = 3.72).
GPA, time consumption of watching television or using internet was also found
significant relationship with the earlier puberty.
Conclusion: There were 14 puberties counted for each 100 girl from 8-11 year
old. We are in need of a program of sexual and menstrual hygienic education
applied for the second grade of all elementary schools.
ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Tuổi dậy thì là thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng
thành tính dục, là thời kỳ quá độ khi khơng cịn là trẻ con nhưng chưa hẳn là
người lớn(Error! Reference source not found.). Đây là thời kỳ mà bất cứ một thiếu niên nào
cũng phải trải qua những biến đổi quan trọng về thể chất cũng như về tâm
lý(Error! Reference source not found.).
Ở tuổi dậy thì, tâm sinh lý thay đổi, làm cho hành vi ứng xử thay đổi, trẻ lúng
túng. Trẻ gái dậy thì có biểu hiện lớn nhanh hơn các bạn đồng lứa tuổi lúc đó
hormon tăng trưởng phát triển nhanh, tích vào xương nhưng cũng sớm làm
chín đầu xương, cho nên những trẻ gái trưởng thành sớm hơn thì cao hơn ở tuổi
12 so với trẻ gái trưởng thành ở tuổi trung bình và trễ nhưng lại có xu hướng
lùn hơn so với những trẻ gái này khi ở tuổi trưởng thành(Error! Reference source not
found.)
. Khi một đứa trẻ bình thường đến tuổi dậy thì, những nhận thức của nó
tương xứng với sự phát triển tính dục của cơ thể. Ngược lại, những đứa trẻ mắc
chứng dậy thì sớm có nhu cầu về tính dục nhưng lại ở một cá nhân chưa phát
triển về nhận thức, do vậy nhu cầu của chúng hồn tồn mang tính bản năng.
Nhiều báo cáo về mối tương quan giữa tình trạng dậy thì và quan hệ tình dục
sớm đã được ghi nhận(Error! Reference source not found.). Dậy thì sớm được cho là có
liên quan đến một số bệnh như: ung thư vú, bệnh lý tim mạch(Error! Reference source
not found.)
. Dậy thì sớm là một trong những nguyên nhân khiến trẻ yêu sớm, nhận
thức về tình u lệch lạc, trẻ khơng được trang bị đầy đủ về kiến thức giới tính,
làm gia tăng nguy cơ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên. Nếu dậy thì sớm do
những ngun nhân thực thể, có thể dẫn đến tử vong, nên cần phát hiện sớm và
điều trị kịp thời, nếu vô căn không được điều trị sẽ dễ dẫn đến chiều cao thấp ở
tuổi trưởng thành. Trẻ dậy thì cần có sự chăm sóc đặc biệt, kiểm tra kịp thời
nhằm giải tỏa gánh nặng tâm lý cho trẻ và cho cha mẹ, cải thiện chiều cao cơ
thể và tránh nảy sinh những hậu quả nghiêm trọng.
Ngày nay xã hội càng phát triển, TP. HCM là một trong những thành phố công
nghiệp phát triển cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, đời sống của người dân
càng được nâng cao, các em có nhiều cơ hội tiếp xúc nhiều thơng tin với đủ
mọi hình thức, sự phát triển tâm sinh lý của các em gái cũng sớm hơn so với
trước. Chính vì vậy khơng ít bậc cha mẹ và các em gái băn khoăn không biết
quá trình dậy thì của con gái và bản thân mình là bình thường hay bất thường.
Những năm gần đây, tuổi thấy kinh của các bé gái ở nhiều quốc gia có xu
hướng sớm hơn(Error! Reference source not found.).
Mặc dù có nhiều chuyên gia sản phụ khoa cũng như các nhà tâm lý học thông
tin cho rằng “trẻ Việt Nam dậy thì sớm” đã được cảnh báo, nhưng trong những
năm gần đây chưa thấy số liệu thống kê rõ ràng là tại TP. HCM tình trạng dậy
thì ở các bé gái học cấp I. Vì vậy, chúng tơi tiến hành khảo sát “Tuổi dậy thì và
các yếu tố liên quan ở học sinh nữ 8-11 tuổi tại nội thành TP. HCM” với câu
hỏi nghiên cứu: Tuổi dậy thì trung bình và tỉ lệ dậy thì ở học sinh nữ 8-11 tuổi
tại nội thành TP. HCM là bao nhiêu? Các yếu tố liên quan đến dậy thì là gì? Hy
vọng rằng nghiên cứu này sẽ góp một phần vào sự nghiệp giáo dục, chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe cho thế hệ trẻ Việt Nam của chúng ta, đặc biệt trẻ gái mới
lớn - mới bắt đầu dậy thì.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Xác định tuổi dậy thì trung bình, tỉ lệ dậy thì ở học sinh nữ 8-11 tuổi tại nội
thành TP.HCM.
Mục tiêu thứ cấp
Xác định yếu tố liên quan đến dậy thì:
- Yếu tố nội tại gồm chỉ số BMI, cân nặng lúc sanh, tuổi thai lúc sanh, học lực
cuối năm học, hoạt động thể lực, tình trạng cha mẹ, số con trong gia đình, thứ
tự con trong gia đình, tuổi có kinh lần đầu của mẹ.
- Yếu tố bên ngồi gồm nơi cư trú, khí hậu, hồn cảnh kinh tế, thời gian tiếp
xúc với màn hình, truy cập mạng internet, đọc truyện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Dân số nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Học sinh nữ 8-11 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh.
Dân số nghiên cứu
Học sinh nữ 8-11 tuổi các khối lớp 3, 4 và 5 của 4 trường tiểu học tại nội thành
TP. HCM: Trường tiểu học Trưng Trắc Quận 11, Phan Đình Phùng Quận 3,
Phan Chu Trinh Quận Bình Tân và Quận Bình Thạnh.
Cỡ mẫu
Chúng tơi sử dụng cơng thức tìm 1 tỉ lệ trong cộng đồng nhằm đáp ứng cho
mục tiêu chính của nghiên cứu. Vậy cơng thức tính cỡ mẫu là:
Z21-/2 * P (1-P)
N=
d2
Z1-/2 = 1,96. P = 2,8% (Error! Reference source not found.). d = 0,01 n =
1.046
Vì nghiên cứu cộng đồng với hiệu ứng thiết kế mẫu 1,5 nên N = 1.046 x 1,5=
1.569
Kỹ thuật chọn mẫu:
Ngẫu nhiên phân tầng.
Bước 1: Chọn mẫu cụm, lập danh sách tất cả các quận trung tâm và quận vùng
ven nội thành TP. HCM, sau đó rút thăm ngẫu nhiên được 2 quận trung tâm là:
quận 3 và quận 11; 2 quận vùng ven là: quận Bình Thạnh và quận Tân Phú.
Bước 2: Lập danh sách tất cả các trường tiểu học trong mỗi quận được chọn,
sau đó rút thăm ngẫu nhiên 1 trường trong mỗi quận. Kết quả như sau:
Quận 3: Trường tiểu học Phan Đình Phùng.
Quận 11: Trường tiểu học Trưng Trắc.
Quận Bình Thạnh: Trường tiểu học Bình Hịa.
Quận Tân Phú: Trường Phan Chu Trinh.
Chúng tơi lấy ở mỗi trường với cỡ mẫu gần tương đương bằng ¼ mẫu chung #
393.
Bước 3: Trong mỗi trường lấy 3 khối (lớp 3, 4 và 5). Lập danh sách tất cả các
lớp trong mỗi khối, vì trong mỗi khối số lượng học sinh gần tương đương nhau
nên sẽ phân tầng: mỗi khối lớp là một tầng. Trong mỗi tầng cỡ mẫu gần tương
đương nhau. Chọn ngẫu nhiên một số lớp trong mỗi tầng cho đến khi đủ cỡ
mẫu dự tính. Thời gian lấy mẫu nghiên cứu vào tháng 2 và 3 năm 2008, thời
điểm này thuận lợi vì các em vừa thi xong học kỳ I của năm học và các cơ giáo
chủ nhiệm có thời gian hơn để làm cơng tác điều tra viên.
Chúng tôi chọn các giáo viên chủ nhiệm làm công tác điều tra viên, các cộng
tác viên này được tập huấn kỹ về kỹ năng vấn hỏi dựa bộ câu hỏi đã soạn sẵn,
kỹ thuật cân nặng và đo chiều cao của bé (có sự hợp tác của nhân viên phịng y
tế của trường). Chúng tơi chọn tất cả là cô giáo, nếu bốc thăm trúng lớp thầy
giáo làm chủ nhiệm thì chọn cơ bảo mẩu làm điều tra viên.
Điều tra viên thực hiện các bước
Gởi thư ngỏ về cho phụ huynh điền ngày hôm trước.
Phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp các em học sinh nữ bằng bộ câu hỏi đã được
soạn sẵn (sau khi đã nhận lại phiếu do phụ huynh trả lời). Các điều tra viên sẽ
phỏng vấn các em vào giờ sinh hoạt lớp và những giờ nghỉ giữa các tiết học.
Quan sát: Công cụ đo lường như cân nặng, đo chiều cao của bé (được thực hiện
tại phịng y tế trường).
Bước 4: Phân tích kết quả: n1: có kinh, n2: chưa có kinh sử dụng cho mục
tiêu chính. Sau đó tìm yếu tố liên quan (nhóm bệnh: đã có kinh, nhóm chứng:
chưa có kinh).
Tiêu chí loại trừ
Dị tật hình thể ngồi. Có 1 trong 4 nhân tố không hợp tác gồm sự đồng thuận
tham gia nghiên cứu của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, của phụ huynh và
học sinh.
Phương pháp xử lý số liệu
Nhập số liệu bằng phần mền Epi Data. Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê
Stata 10.0. Phân tích gồm 2 bước: bước 1 mơ tả và phân tích đơn biến; bước 2
dùng mơ hình hồi qui đa biến nhằm kiểm sốt yếu tố gây nhiễu để tính OR hiệu
chỉnh (OR*) cho các biến số. Tính tốn thống kê với độ tin cậy 95%.
KẾT QUẢ & BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng điều tra
Tổng số học sinh được phỏng vấn: 1.610 em, loại ra 39 trường hợp do phiếu
điều tra gởi về phụ huynh ghi thiếu thông tin hoặc các em trả lời thiếu trong
bảng câu hỏi. Đối tượng tham gia nghiên cứu cuối cùng là 1.571 học sinh.
Vùng trung tâm có 771 em gồm: 374 tại trườngTrưng Trắc, 397 tại trường
Phan Đình Phùng. Vùng ven có 800 em, gồm: 399 tại Trường Bình Hịa, 401
tại Trường tiểu học Phan Chu Trinh. Phân bố theo khối lớp: khối 3: 501 em,
khối 4: 524 em, khối 5: 546 em. Tuổi trung bình của mẹ: 38,97 5,22 tuổi.
Tuổi kinh đầu trung bình của mẹ: 14,63 1,80 tuổi.
Bảng 1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Tuổi
Số học sinh
Tỉ lệ (%)
8
355
22,6
9
468
29,8
10
578
36,8
11
170
10,8
Tổng
1.571
100
Đặc điểm dậy thì
Chúng tơi coi đã có kinh tại thời điểm khảo sát cắt ngang là bé gái đã dậy thì.
Trong mẫu nghiên cứu có 218 em dậy thì và 1.353 em chưa dậy thì, sử dụng số
liệu này để tìm mối liên quan cho mục tiêu 2. Tỉ lệ dậy thì của trẻ 8-11 tuổi là
13,9%. Tỉ lệ trẻ dậy thì tăng dần theo tuổi. Khơng có bé gái nào có kinh trong
độ tuổi 6-7, do đó mục tiêu chính của nghiên cứu trung phân tích trong độ tuổi
8-11, khơng dàn trải đều cho tồn bộ nữ sinh cấp I. So sánh với các tác giả khác
(bảng 2):
Bảng 2. So sánh tỉ lệ dậy thì với nghiên cứu các tác giả khác
Tác giả
Trương
Nguyện Hảo
Năm Vùng Tuổi (%)
Thị
TP.
1999 HCM 6-10 2,8
Nguyễn Thị Mai2003 Long 11
7
Tác giả
Năm Vùng Tuổi (%)
Trang
An
TP.
Chúng tôi
2008 HCM 8-11 13,9
Da
DS. Freedman và 1992cs (châu Âu)
trắng 11 10
1994
Da đen 11 17
Susan J và cs
2005 Úc
Seung-Yup Ku và
< 12 16
Hàn
2005 Quốc 12 2,7
cs
Bảng 3. Tuổi có kinh lần đầu trong nhóm đã dậy thì:
Số
học Tỉ lệ trên 1.571
Tuổi có kinh
sinh
(%)
8
6
0,4
9
49
3,1
10
157
10,0
11
6
0,4
Có kinh
218
13,9
Chúng tơi khảo sát tuổi có kinh lần đầu trong nhóm đã dậy thì, kết quả cho
thấy: Tuổi dậy thì trung bình (Mean): 9,75 0,55 tuổi; Tuổi dậy thì trung vị
(Median): 10 tuổi.
Xác định các yếu tố liên quan tới dậy thì ở bé gái 8-11 tuổi.
Chúng tơi đưa 7 biến số vào phương trình hồi quy đa biến, bao gồm: địa chỉ,
tình trạng kinh tế, tình trạng dinh dưỡng, tuổi kinh đầu của mẹ, học lực, truy
cập internet và thời gian xem tivi hoặc chơi game, nhằm kiểm sốt các yếu tố
gây nhiễu.
Bảng 4 Phân tích hồi quy đa biến tìm các yếu tố liên quan
OR* 95%CI P
Yếu tố
Vùng ven 1
Địa chỉ
0,98Trung tâm 1,33
0,048
1,81
Kinh tế
Nghèo
1
Trung
0,370,92
bình
0,86
2,29
1,01-
Khá
2,6
0,047
6,69
Gầy
1
Trung
Dinh
1,244,01
bình
0,02
13,01
dưỡng
1,23Béo
4,08
0,021
13,53
Muộn
1
Trung
Kinh đầu
0,821,34
bình
0,23
2,19
của mẹ
1,58Sớm
3,72
0,0026
8,75
Học lực Giỏi
Khá
1
1,45 1,04-
0,027
2,01
Trung
2,053,81
bình, yếu
< 0,001
7,08
Khơng
1
Thỉnh
1,231,72
Internet thoảng
0,002
2,39
Thường
1,342,13
xun
=<
Xem Tivi,
0,001
3,38
3
1
giờ/ngày
chơi
game
>
3
1,582,14
giờ/ngày
< 0,001
2,89
Nhóm trẻ sống ở trung tâm dậy thì sớm hơn 1,33 lần so với trẻ sống ở vùng
ven. Có thể do nhịp độ sống và điều kiện sống cao hơn cùng với sự chăm sóc,
dinh dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của trẻ. Kết quả này cũng phù
hợp với nghiên cứu của Cao Quốc Việt, 1997: trẻ em sống ở thành phố Hà Nội
có kinh sớm hơn trẻ em ở Bắc Thái. Theo Trần Anh Tuấn (1999) nữ sinh nội
thành TP. HCM có kinh sớm hơn ngoại thành.
Điều kiện kinh tế cao sẽ có đầy đủ vật chất, điều kiện sống tốt có thể giúp dinh
dưỡng tốt, từ đó ảnh hưởng đến dậy thì. Nhóm có kinh tế khá tăng nguy cơ dậy
thì sớm hơn gấp 2,6 lần so với nhóm nghèo. Theo Nguyễn Thị Mai Trang
(2003) tuổi có kinh đầu ở nhóm kinh tế giàu xuất hiện sớm nhất, trễ nhất là
nhóm nghèo. Vấn đề này cũng phù hợp với nghiên cứu của Trương Thị
Nguyện Hảo (1999), Cao Quốc Việt (1997) Morrison-JA (1994).
Kết quả trên cho thấy nhóm trẻ có mẹ với kinh đầu sớm sẽ dậy thì sớm hơn gấp
> 2 lần so với mẹ có kinh đầu trung bình và gấp 3 lần với mẹ có kinh đầu trễ.
Tác giả Speroff và cs (2005) cũng ghi nhận có sự liên quan mạnh với tuổi kinh
đầu của chị gái, nhưng lại không liên quan với kinh đầu của me. Theo Nguyễn
Thị Mai Trang (2003) nghiên cứu đối tượng học sinh nữ cấp II không thấy có
sự khác biệt về tuổi kinh lần đầu của con với kinh đầu của me.
Nhóm học lực trung bình liên quan với dậy thì sớm OR*=3,8 lần so với học
giỏi. Để giải thích yếu tố liên quan đâu là nguyên nhân này cần phải có thời
gian nghiên cứu dọc. Liên hệ với kết quả của Trương Thị Nguyện Hảo (1999)
cho kết quả ngược lại, khơng có sự khác biệt giữa nhóm qua yếu tố học lực.
Chúng tơi ghi nhận tỉ lệ dậy thì sớm hơn cao nhất ở nhóm truy cập mạng
internet thường xuyên nhiều gấp 2,13 lần so nhóm khơng truy cập mạng
internet. Ngày nay, hệ thống mạng tồn cầu rất đa dạng và phong phú, đặc biệt
có những trang web không lành mạnh, những câu chuyện gợi dục hay các phim
lãng mạn “nửa kín, nửa hở” kích thích trí tị mò của trẻ và đã ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển dậy thì. Trong những nghiên cứu trước đây chúng tôi không
thấy đề cập đến yếu tố này.
Theo kết quả nghiên cứu, nhóm ngồi trước màn hình với ánh sáng nhân tạo >3
giờ/ ngày có nguy cơ dậy thì sớm gấp 2,14 lần so với 3 giờ/ngày. Thực tế
trong nước vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu yếu tố này ảnh hưởng đến vấn đề
dậy thì của trẻ gái. Xem tivi hay chơi game trên vi tính là trị tiêu khiển giải trí
của các em bậc tiểu học, nhưng thời gian phải có hạn. Nếu các em tiếp xúc
nhiều với ánh sáng nhân tạo sẽ làm giảm lượng melatonin, làm hormone giấc
ngủ càng thấp và thúc đẩy quá trình dậy thì(Error! Reference source not found.).
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
Tuổi dậy thì ngày càng sớm hơn theo điều tra năm 2008 của chúng tôi, cứ 100
bé gái 8-11 tuổi thì có 14 bé đã dậy thì, đặc biệt có 0,4% trẻ 8 tuổi. Phụ huynh
và nhà trường cần phối hợp hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí của bé gái dậy thì giúp
cho các em tránh được sang chấn không cần thiết ảnh hưởng đến học tập trong
giai đoạn này. Cần có chương trình giáo dục về giới tính và vệ sinh kinh nguyệt
trong nhà trường bắt đầu từ lớp 2. Chương trình này do cơ giáo chủ nhiệm
hướng dẫn, người được các em tin tưởng nhất để chia sẻ những thơng tin thầm
kín. Các bậc phụ huynh có con hoặc cháu gái cần nắm rõ một số yếu tố liên
quan đến tuổi dậy thì sớm hơn bình thường, dưới 12 tuổi. Nên kiểm soát thời
gian trẻ tiếp xúc màn hình vi tính hay xem tivi, đặc biệt lưu ý khi trẻ lên mạng
internet. Nắm được vai trò chế độ ăn uống hợp lý cho trẻ, đặc biệt những trẻ
đang thừa cân – béo phì. Bước tiếp theo, chúng tôi sẽ nghiên cứu theo chiều
dọc để khảo sát những rối loạn trầm cảm của các bé gái có kinh sớm khi cịn
học cấp I.