Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận môn khu vực học và việt nam học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.8 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

~~~~~~*~~~~~~

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: VĂN HĨA VIỆT NAM SO VỚI
VĂN HĨA KHU VỰC ĐƠNG NAM Á

Sinh viên
Mã sinh viên
Giáo viên hướng dẫn

: Nguyễn Thị Việt Hà
: A38148
: PGS. Hoàng Kim Ngọc

HÀ NỘI – 1/2021


LỜI MỞ ĐẦU
Đơng Nam Á ở vào phía Đơng Nam của Châu Á, gồm 11 nước Việt Nam,
Lào, Campuchia, Thái lan, Myanmar, Malaysia, Singapore, Indonexia, Brunei,
Philippins, và Đông Timor, diện tích chừng 4,55 triệu kilomet vng.
Đơng Nam Á sở hữu vị trí địa lý đặc biệt, là khu vực có nền văn hóa lâu
đời, được tạo nên từ rất nhiều mối quan hệ và bản sắc riêng với sự có mặt của
nhiều nền văn hóa các nước và khơng bị ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên thể văn hóa
đa dạng và độc đáo. Tiếp cận văn hố Đơng Nam Á ngày nay cảm nhận đầu tiên
với mỗi người sẽ là một nền văn hoá đa dạng trong thống nhất. Trong kho tàng
văn hố đồ sộ ấy dẫu có rất nhiều yếu tố chung làm nên cái gọi là “khung” Đông


Nam Á song cũng có khơng ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc.
Nằm trong tổng thể văn hố Đơng Nam Á, Việt Nam là một trong số ít
những quốc gia hội tụ được nhiều giá trị của nền văn hoá - văn minh phương
Đơng, mang nhiều đặc trưng điển hình của một Đơng Nam Á thu nhỏ. Sức sống
văn hố Việt Nam cũng được thể hiện rất đa dạng trên mọi khía cạnh của cuộc
sống, xét cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Ở mỗi khía cạnh lại có những
thành tựu văn hoá đặc sắc riêng, được tiếp thu, phát huy từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ đời này sang đời khác và lưu truyền đến tận ngày nay.
Để hồn thiện một cái nhìn tổng qt nhất về văn hố Việt Nam, bài luận
này tơi chọn đề tài: Văn hố Việt Nam so với văn hóa khu vực Đơng Nam Á. Qua
đó sẽ giúp chúng ta có thể nhận diện chính xác hơn những nét riêng có đã làm
nên giá trị mn đời của văn hố Việt. Khoảnh khắc nhìn lại đây sẽ là thơng điệp
về việc bảo tồn, gìn giữ cho mn đời sau những giá trị văn hố q giá của dân
tộc Việt mn đời


PHẦN 1: NỘI DUNG
Chương 1. Khái quát về văn hoá Đông Nam Á
1. Đông Nam Á - một khu vực địa lý, văn hoá, lịch sử thống nhất
Về mặt địa lý, Đơng Nam Á là khu vực nhiệt đới, gió mùa, khí hậu nóng
ẩm, nắng lắm, mưa nhiều. Xét ở góc độ cảnh quan địa lý, Đơng Nam Á có đủ
rừng núi, đồng bằng, sơng, biển. Đó là những hằng số tự nhiên góp phần tạo nên
bản sắc thống nhất của văn hố Đơng Nam Á: văn hố nơng nghiệp lúa nước, văn
hố sơng biển và văn minh xóm làng.
Về mặt lịch sử, Đông Nam Á là một trong những cái nôi của nhân loại. Từ
trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như
một khu vực địa lý – lịch sử – văn hóa – chính trị riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ
giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rỡ là văn minh Trung Hoa và văn minh
Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa

Đơng Nam Á ngày càng được công nhận rộng rãi trong khoa học. Nhưng không
chỉ dừng lại ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây, mà
Đông Nam Á đang từng bước được xem xét như một khu vực lịch sử – văn hóa –
kinh tế – chính trị thật sự. Trong q trình phát triển, số phận của các dân tộc, các
quốc gia Đông Nam Á thăng trầm theo những bước lên xuống gập ghềnh khá
giống nhau. Nơi đây có chung các nền văn hố nổi tiếng: văn hố Hồ Bình, văn
hố Bắc Sơn, văn hố Đông Sơn.v.v. Con đường dựng nước và giữ nước của các
dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á cũng luôn ln ở vào một hồn cảnh tương
tự: xây dựng nhà nước sơ khai ban đầu theo mơ hình tổ chức của Ấn Độ, cùng
phải đối mặt với đế quốc Nguyên Mông, các đế quốc phương Tây và Nhật Bản...
2. Đông Nam Á - một khu vực chịu sự ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn
nhưng vẫn tạo được bản sắc riêng và có những đóng góp quan trọng vào kho
tàng văn hố thế giới
Trước hết, Đơng Nam Á là quê hương của các loại cây có củ như khoai mài,
khoai sọ và các loại ngũ cốc mà quan trọng nhất là cây lúa. Có thể nói trong

1


lĩnh vực này, so với nhiều khu vực khác, Đông Nam Á đóng một vai trị tối
quan trọng nếu khơng nói là chủ chốt. Do đó, hiện nay, Đơng Nam Á có nền
“Văn minh Lúa nước” trứ danh khắp thế giới. Người ta đã khẳng định được rằng
trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ thì cư dân Đơng Nam Á đã
có một nền văn hóa bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nơng nghiệp lúa
nước. Cây lúa hầu như có mặt ở tất cả các quốc gia Đơng Nam Á. Nó xuất hiện
rất sớm trong đời sống của cộng đồng cư dân vùng đất này. Có thể xem cây lúa
nước là nền tảng để cấu tạo nên văn minh Đông Nam Á. Với bao biến đổi trên
nhiều bình diện, ta vẫn khơng thể phủ nhận vai trò của cây lúa trong việc góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế của cả khu vực, và Đơng Nam Á vẫn đang giữ vị
trí đứng đầu trong việc xuất khẩu gạo.

Khơng chỉ có cây lúa, nền văn minh thực vật Đơng Nam Á cịn tạo ra chè,
quế, hồ tiêu và nghề trồng dâu nuôi tằm. Và hiệu quả của việc tạo ra các sản
phẩm này là những con đường thương mại quốc tế mang tên chúng như: đường
chè, đường hồ tiêu, đương tơ lụa.
Đông Nam Á là khu vực đầu tiên trên thế giới thuần dưỡng thành cơng các
lồi động vật hoang dã như chó, gà, vịt, ngỗng, trâu, voi.
Đóng góp cho di sản văn hố thế giới cịn phải kể đến đồ gốm (Bản Chiềng
-Thái Lan; Sa Huỳnh - Việt Nam), đồ đồng thau (Đông Sơn - Việt Nam) và hàng
loạt các công cụ bằng sắt phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp.
Về mặt kiến trúc, Đông Nam Á đã để lại cho thế giới những cơng trình kì
vĩ, độc đáo như khu đền Ăngco, tháp Chàm, Chùa Borobudur, hệ thống đê điều
Bắc Bộ,v.v Nghệ thuật điêu khắc Khmer, Chăm, Myanmar,v.v. cũng là những
đóng góp đặc sắc của văn hố Đơng Nam Á.
Với một bề dày truyền thống văn hố như vậy thì sự phát triển kinh tế và
văn hoá như hiện nay của các nước Đơng Nam Á cũng là điều có thể lỷ giải
được.
3. Văn hố Đơng Nam Á là một nền văn hoá thống nhất trong sự đa dạng
2


Tính thống nhất trong sự đa dạng được biểu hiện ở rất nhiều mặt, nhiều
khía cạnh của văn hố. Là một trong những địa bàn được xem như là cái nôi của
nhân loại với sự hiện diện từ rất sớm của lồi người. Đồng hành chung với tiến
trình lịch sử của nhân loại, Đông Nam Á đã ngày càng trở thành một khu vực đa
văn hóa với sự hiện diện đông đúc và đa dạng của nhiều dân tộc, quốc gia. Với sự
giao thoa của nhiều nền văn hóa, tạo nên một thể văn hóa đa dạng cho khu vực
Đơng Nam Á. Trong q trình lịch sử, các nước Đơng Nam Á từng bị tác động
bởi các nước xâm lược như Anh, Pháp, Mĩ, tuy vậy những sự tác động ấy khơng
làm mất đi các nét văn hóa đặc trưng của khu vực. Xét về con người, công dân
sinh sống trong khu vực Đơng Nam Á có những nét tương đồng do có chung một

nền tảng văn hóa chính, hình thành nên những suy nghĩ, ứng xử khá giống nhau,
dù ở các quốc gia khác nhau. Lý giải cho sự tương đồng này, ta có thể hiểu là do
hình thức lấy nông nghiệp làm gốc từ thời ông cha. Với những công việc như
trồng lúa, đồng áng… cùng đặc trưng của vị trí địa lý, dần tạo nên một nền văn
minh của khu vực.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng bản địa Đơng Nam Á dù hết
sức đa dạng, nhiều vẻ vẫn có thể thuộc về một trong số ba loại chính: tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng người đã mất.
Một nét chung khác nữa trong tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á là thuyết vạn vật
hữu linh, là tục thờ Thần, đặc biệt là những vị thần liên quan đến việc trồng cấy
như thần Đất, thần Nước, thần Mây, thần Mặt trời.v.v.
Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hố Đơng Nam Á chúng ta đều có thể tìm
thấy một sự thống nhất trong mn hình mn vẻ sự tồn tại đa dạng của chúng ở
các dân tộc Đông Nam Á.
4. Đơng Nam Á - khu vực mang tính chất mở, tiếp nhận có chọn lọc những
yếu tố tích cực từ bên ngồi
Đặc điểm này có cơ sở từ hai lí do chính.
3


Thứ nhất, do tính cách, bản chất của con người Đông Nam Á: luôn luôn
cởi mở, sẵn sàng tiếp nhận, khơng có thành kiến dân tộc và ln có sự năng
động, sáng tạo, không ngừng tiếp thu, học hỏi và ln cố gắng, chủ động khẳng
định mình.
Thứ hai, do vị trí của khu vực Đơng Nam Á. Đơng Nam Á, như chúng ta
đã biết, nằm trên đường giao lưu Trung Hoa - Ấn Độ, nằm gọn trên trục thông
thương Đông - Tây qua hai đại dương. Vị trí ấy tạo điều kiện cho Đông Nam Á,
ngay từ buổi đầu lịch sử, đã sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Trung, Ấn, Arập
và sau này sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. Những dấu ấn về sự

tiếp thu ấy còn để lại khá đậm nét trong văn hố Đơng Nam Á. Các yếu tố mới
tiếp thu từ bên ngoài cùng với các yếu tố bản địa đã làm cho vườn hoa Đông
Nam Á càng đa dạng sắc màu trong cuộc sống hiện đại.
5. Đông Nam Á - là khu vực cịn duy trì các đặc trưng văn hố mang tính
nơng thơn
Khác với văn hố phương Tây, vốn hầu như chỉ mang tính chất thành thị,
văn hố Đơng Nam Á còn lưu giữ rất nhiều những nét gắn liền nó với nơng thơn,
cũng như với nguồn gốc xa xưa, tức là duy trì cái cơ sở chung gắn liền với quá
khứ.
Những yếu tố, những đặc trưng văn hoá mang tính nơng thơn cịn tồn tại
khá nhiều, chẳng hạn:
- Nơng nghiệp lúa nước và tổ chức làng xã có tính chất tự quản thích hợp
với nền nơng nghiệp này.
- Quan niệm về gia đình xây dựng trên sự hồ hợp vợ chồng trong đó vai
trị của người phụ nữ được coi trọng.
- Những nghi lễ gắn liền với lá trầu, quả cau trong mọi giao tiếp xã hội.
- Những tín ngưỡng gắn liền với linh hồn cha mẹ, những tàn dư vạn vật
hữu linh vẫn được duy trì cho dù nước này theo Phật giáo, nước kia theo Hồi giáo
hay Thiên chúa giáo.
4


- Trong văn học vai trò của văn học dân gian vẫn chiếm vị trí quan trọng,
bên cạnh dịng văn học mới ít chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Các lĩnh
vực văn hoá nghệ thuật khác như âm nhạc, vũ, điêu khắc, hội hoạ cũng ở trong
tình trạng tương tự.
- Về mặt tâm thức, con người Đông Nam Á coi trọng cộng đồng hơn cá
nhân, thích hồ hợp hơn cạnh tranh, lấy tình nghĩa làm chính trong các quan hệ
giưũa người với người.
Như vậy, nhìn chung có thể đánh giá rằng, Đông Nam Á là một khu vực có

những đặc trưng văn hố riêng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, bản sắc ấy ngày
càng được bồi đắp thêm bởi những yếu tố mới tiến bộ. Ngày nay, các nước Đông
Nam Á đều đã giành được độc lập và đang bước vào thời kì phát triển kinh tế,
xây dựng xã hội mới giàu mạnh, tiên tiến, hiện đại. Chỉ với mấy chục năm khôi
phục kinh tế, phát triển đất nước, các quốc gia Đông Nam Á đã thu được những
thành tựu đáng kể. Có được những thành tự ấy, một trong những lý do quan trọng
nhất là bởi khu vực này từ xa xưa đã có một bản sắc văn hoá chung, đặc sắc mà
chỉ ngày nay trong hồn cảnh thế giới mới, nó mới có điều kiện phát huy sức
mạnh vốn có của mình.

5


Chương 2. Văn hoá Việt Nam và văn hoá so với các nước
trong khu vực Đông Nam Á
1. Lịch sử hình thành văn hố Việt Nam
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa của một quốc gia đa tộc người. Bởi vậy,
nền văn hoá ấy được thể hiện một cách đa dạng trên mọi lĩnh vực cả về vật chất
lẫn tinh thần. Mỗi khía cạnh của cuộc sống lại có những thành tựu văn hóa đặc
sắc riêng, được tiếp thu phát huy từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế
hệ khác và lưu truyền đến ngày nay. Việt Nam gồm có tất cả 54 dân tộc anh em,
trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện
bởi một nền văn hóa thống nhất của một quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái
của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn hóa đa tộc người vừa có tính
thống nhất, vừa có tính đa dạng. Chính vì đặc điểm khi chúng ta tiếp cận văn hóa
Việt Nam ta nên khám phá ở góc độ lịch sử phát triển để có thể đưa ra một cái
nhìn tổng thể chính xác nhất.
Việt Nam có một nền văn hố đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của dân tộc. Các nhà sử học đã thống nhất một ý kiến: Việt
Nam có một cộng đồng văn hố khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa

đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên
niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hố Đơng Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát
triển cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét
độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hố vùng Đơng
Nam Á, vì có chung chủng gốc Nam Á và nền văn minh lúa nước.
Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu vực
khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả...) đã hội tụ với nhau, hợp
thành văn hố Đơng Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước “phơi thai” đầu
tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc
và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.

6


Giai đoạn văn hoá Văn Lang - Âu Lạc (gần năm 3000 đến cuối thiên niên
kỷ 1 trước CN) vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là
đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hoá Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống
đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định.
Sau giai đoạn chống Bắc thuộc có đặc trưng chủ yếu là song song tồn tại
hai xu hướng Hán hoá và chống Hán hoá, giai đoạn Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15)
là đỉnh cao thứ hai của văn hoá Việt Nam. Qua các triều đại nhà nước phong kiến
độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lý - Trần và Lê, văn hoá Việt Nam
được gây dựng lại tồn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thu ảnh hưởng
to lớn của Phật giáo và Nho giáo.
Sau thời kì hỗn độn Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn chia cắt đất nước, rồi từ
tiền đề Tây Sơn thống nhất đất nước và lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng
văn hố dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hoá phương
Tây bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam. Kéo dài cho tới khi kết thúc chế độ Pháp
thuộc là sự xen cài về văn hoá giữa hai xu hướng Âu hoá và chống Âu hoá, là sự
đấu tranh giữa văn hoá yêu nước với văn hoá thực dân.

Giai đoạn văn hố Việt Nam hiện đại được hình thành kể từ những năm 20,
30 của thế kỷ XIX, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại,
đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh
cao lịch sử mới.
2. Việt Nam là một Đơng Nam Á thu nhỏ.
Trước tiên, diện tích của Việt Nam bằng khoảng 1/13 tổng diện tích của
Đơng Nam Á; hơn nữa, nếu Đông Nam Á được xem như là “cầu nối” giữa thế
giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải thì Việt Nam lại tọa lạc ngay trung tâm
của Đơng Nam Á. Chính vị trí này đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho Việt Nam
trong quá trình phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa. Nhìn từ yếu tố địa hình,
Việt Nam sở hữu các loại địa hình tương đối đa dạng, vừa có đồng bằng, vừa có
cao nguyên, vừa có biển. Điều này đã khiến cho nhiều người liên tưởng và đồng
ý với quan điểm cho rằng Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ.
7


Mặt khác, vì nằm trong khu vực Đơng Nam Á nên Việt Nam cũng gần gũi và
chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Đây là hai
nền văn minh lớn, dẫn dắt cho tồn khối Đơng Nam Á.
Với thực tiễn như vậy, có thể nhìn thấy các điểm tương đồng, tương cận giữa văn
hóa Việt Nam với văn hóa Đơng Nam Á.
+ Ở Đơng Nam Á có đến hàng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập
quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những
tập tục ấy vẫn có nét gần gũi, tương đồng nhau, là mẫu số chung quy tụ, giao
thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á – Một nền tảng văn
minh nông nghiệp trồng lúa nước.
-

Cách ăn mặc với một bộ trang phục là Sà rơng (váy), khố, vịng đeo, vịng
đeo cổ…

Tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả (hiện nay,
thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại).
Tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình.
Tục chơn với người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn
sống họ thường ưa thích. T
Tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả các trị vui
chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền, …
Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn
“cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu
nóng ẩm của khu vực Đơng Nam Á.

+ Sinh sống trong khu vực bị chi phối bởi hệ thống khí hậu nhiệt đới, gió mùa,
các cư dân Đơng Nam Á đã sáng tạo nên những nền văn hoá tộc người và địa
phương đa dạng, phong phú trên cơ tầng chung của văn hố nơng nghiệp. Họ chủ
yếu sống bằng lúa gạo, với hai hình thức canh tác: ruộng nước và nương rẫy;
thuần dưỡng trâu, bò làm sức kéo; các bộ công cụ lao động và các hệ thống thủy
lợi, dựa theo nguyên lý tự chảy của dòng nước được xây dựng hết sức đa dạng
phù hợp với các môi trường sinh thái thành ở đồng bằng, vùng thung lũng chân
núi, vùng sườn dốc…
+ Về lễ hội: Cũng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở
mỗi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm cũng có lễ hội. Nếu thống kê con số lễ
hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các
lễ hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính:
8


-

Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày
đầu tiên của người Thái, lễ dựng chịi cày của người Chăm,…)

Lễ hội tơn giáo (như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…)
Lễ tết (như Tết Nguyên đán,…).

+ Về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên
trong một khu vực địa lý, văn hóa nơng nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản
địa Đơng Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẻ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính:
- Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam,
Lào, Campuchia, Myanmar, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,
…)
- Tín ngưỡng phồn thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục
nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…)
- Tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ cúng tổ tiên, ông bà). Cái
chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có
hồn.
+ Một bộ phận cư dân Đông Nam Á rất thạo các nghề trong mơi trường sơng
nước, họ đánh bắt cá và các lồi thủy hải sản khác trên sông, trên các hồ và đầm
phá cũng như ở các vùng biển gần bờ. Bên cạnh đó, thuyền bè đối với cư dân
Đơng Nam Á là vơ cùng ưu dụng.
+ Ta cịn có thể thấy những điểm tương đồng khác như: ngành nghề thủ công
như: dệt nhuộm (lụa và các loại cotton, sợi bã, sợi chuối, sợi dứa…), đan lát, làm
gốm, sơn mài, điêu khắc gỗ, kim hoàn… rất phát triển. Đây là khu vực đa dạng
các hình thức trình diễn dân gian như rối bóng, rối nước; âm nhạc truyền thống
và các loại nhạc cụ rất gần với thiên nhiên.
+ Cuối cùng, con người Đơng Nam Á rất xem trọng giá trị gia đình, tinh thần
kính trọng người già được đề cao, tổ tiên được coi trọng; truyền thống cộng đồng
làng/bản bền chặt.
3. Những đặc trưng khác biệt của văn hoá Việt Nam so với các nước trong
khu vực Đông Nam Á
Như chúng ta đã biết, văn hóa là một khái niệm rất rộng, nó bao gồm tất cả
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử

của mình. Khi nghiên cứu về văn hóa, nhất là văn hóa của Đơng Nam Á - một
9


trong những khu vực xuất hiện dấu chân người đầu tiên trên thế giới, là nơi có bề
dày lịch sử và văn hóa lâu đời, nơi hình thành rất nhiều nền văn minh... - phải
thừa nhận rằng đây là một việc rất khó khăn.
Mặt khác, trong các giá trị văn hóa của các quốc gia có những giá trị văn
hóa nội sinh nhưng cũng có những giá trị văn hóa tiếp biến của các nền văn hóa
khác, những giá trị văn hóa này pha trộn, tương đồng lẫn nhau rất khó xác định.
Chính vì vậy, trong bài luận này, tơi khơng đi sâu chứng minh sự khác nhau trên
từng khía cạnh của thành tựu văn hoá, bởi như vậy dễ sa vào con đường đánh giá
chủ quan, hời hợt (khác nước này nhưng có thể lại giống nước kia). Mà chỉ tập
trung nghiên cứu làm rõ vấn đề dựa trên những luận điểm xoay quanh vấn đề:
yếu tố nội tại và sự tiếp biến văn hóa. Với phương thức lý luận này không chỉ làm
rõ được sự khác nhau giữa văn hố Việt Nam và các nước Đơng Nam Á khác mà
còn thể hiện được mối liên hệ biện chứng giữa chúng.
3.1. Văn hoá Việt Nam - sự hội tụ của Văn hoá ngã tư
Về địa lý ta thấy rõ nhất, Việt Nam nằm ở bờ Tây của Thái Bình Dương,
cực nam của đại lục Trung Hoa, cực bắc của vùng bán đảo và quần đảo Đơng
Nam Á. Chính tính chất tính chất “ngã tư” này tạo cho nó sức sống và động lực
phát triển. Bốn dịng văn hóa lớn nhất Ấn - Hoa - Cận Đông - Tây đường đi qua,
đan chéo nhau ở ngã tư này. Văn hóa Hán tràn ngập đại lục, ngấm đẫm Đông Bắc
Á nhưng chỉ len lỏi qua những con đường mòn, những mạch suối nhỏ xuống
miền Đông Nam Á. Con đường của công cuộc Ấn Độ hóa đi qua Campuchia,
Trung Việt - Champa ra quần đảo Indonesia tạo nên những đỉnh cao tuyệt vời
Ăngco - Mỹ Sơn - Borobudua. Cuộc Hồi giáo hóa yếu hơn cũng để dấu ấn ở
Trung Việt. Còn văn minh phương Tây tiếp xúc với đất này từ đầu cơng ngun,
những đợt sóng thứ nhất chỉ diễn ra hồi thế kỷ 16 bằng đường thương mại mà
Hội An là một nhân chứng. Đợt hai là cuộc xâm chiếm và thực dân hóa của Pháp

cuối TK 19 - đầu TK 20 tiếp nối là các biến động lịch sử của cách mạng Mác xít chủ nghĩa yêu nước chống thực dân, cuộc tiếp xúc hòa nhập với CNXH hiện thực
và giờ đây là "tồn cầu hóa".
10


Có thể nói mọi nền văn minh đều đi qua ngã tư Việt Nam nhưng khác với
các ngã tư biến thành phố thị, thành trung tâm lớn thì ngã tư Việt Nam vẫn chỉ là
ngã tư để đi qua, để quá cảnh. Làn gió đi qua mát mẻ nhưng sự tích đọng khơng
nặng nề, thấm đẫm. Việt Nam khơng theo Phật đậm như Campuchia, không Kito
đậm như Philippines và không Hồi giáo đậm như Indonesia. Giao tích văn hóa
diễn ra kiểu “ăn hương ăn hoa” khéo léo chắt lấy tinh hoa đấy nhưng cũng hời
hợt, không triệt để, đủ để tạo một khoảng trống cho chủ thể nội tại có thể phát
huy sức sáng tạo của mình.
Để minh chứng rõ hơn về vấn đề này chúng tôi xin đưa ra dẫn chứng về
nét độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên so với các nước Đông Nam Á khác:
Cồng chiêng của các nước Đông Nam Á lục địa: Lào, Campuchia, Thái
Lan, Myanma, các nước hải đảo: Indonesia, Philippines, Malaysia với các dàn
chiêng Gamelan, Gong Kebyar (Indonesia), Kulingtan (Philippines), Khong
wong yai (Thái Lan, Lào), Khong thom (Campuchia), Ky waing (Myanma)...
ngoài 1 đến 2 chiếc cồng lớn là treo trên giá (Agong – cặp cồng núm), cịn đa
phần là cồng có núm nhỏ, mà mỗi cồng có núm được úp trên một hộp bằng đồng.
Nhạc công ngồi yên ở giữa, hai tay dùng 2 búa gỗ để gõ cồng. Nói chung, dàn
cồng chiêng của họ được cấu tạo tương tự hình thức một cây đàn gõ ra giai điệu.
Cồng chiêng Tây Nguyên Việt Nam thì trái lại, biên chế đa dạng, khơng
cố định, hình thành nhiều loại dàn chiêng khác nhau để phục vụ cho những sinh
hoạt, lễ thức khác nhau. Có loại dàn chỉ gồm 2 chiếc (như dàn chiêng Tha) cho
đến loại từ 9,11,16 cồng và chiêng. Nhạc công các dàn cồng chiêng các nước
Đơng Nam Á lục địa một mình với 2 tay đánh bằng dùi gõ cả dàn cồng đến 17,
19 chiếc, cịn nhạc cơng dàn cồng chiêng Tây Ngun thì mỗi người chỉ đánh
một cồng. Mỗi nhạc cơng giữ một vị trí cao độ và tiết tấu, âm sắc khác nhau, đòi

hỏi phải nhớ, phải tập trung tâm trí nắm chắc thời gian, nhịp điệu để gõ đúng
phần của mình, vừa phải lắng nghe người khác trong dàn nhạc để tạo nên sự hịa
hợp, đồng cảm chung. Vì vậy, để tham gia diễn tấu được một bài chiêng, thì yếu
tố “nhạc cảm”, năng khiếu bẩm sinh là vấn đề quan trọng, khơng phải là ai cũng
có thể làm ngay được. Đặc biệt là sự quy định chức năng từng loại cồng trong
11


dàn nhạc: “Chiếc cồng phát ra âm thanh thấp – vốn là âm cơ bản – mang tên
“mẹ”. Trong những dàn có 9 cồng chiêng trở lên thì có thêm cồng “cha”, ... tiếp
theo là các cồng con, cồng cháu... hình thành hệ thống gia đình mang dấu vết chế
độ mẫu hệ của người Tây Nguyên. Khi diễn tấu, cồng mẹ và cồng cha được phân
công phần trầm làm nền, cồng con và các cồng khác đánh so le trước – sau,
nhanh – chậm để tạo ra giai điệu” .
Điều khác biệt nữa là nhạc công dàn chiêng Tây Nguyên không ngồi yên
tại chỗ để gõ cồng như các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanma... mà luôn
di động, (thường là di động xoay quanh một đối tượng được tôn vinh ở vị trí
trung tâm như cây nêu... theo chiều ngược kim đồng hồ như chiều bay của cánh
chim Lạc trên mặt trống đồng) và đa dạng về động tác (tùy theo sự cảm hứng
diễn đạt trong quá trình diễn tấu như khom người, nghiêng mình, cúi mặt...).
Cách gõ cồng của Tây Nguyên có hai cách: đánh bằng dùi và đánh bằng cườm
tay. Đánh bằng dùi, nếu là dùi mềm cho âm thanh tròn trĩnh, dịu dàng, trầm lắng,
nếu là dùi cứng cho âm thanh độ mãnh liệt, sắc nhọn. Đánh bằng cườm tay cho
âm thanh cảm giác mờ ảo, xa xăm, huyền bí, hoang sơ. Bàn tay trái phía sau cồng
không chỉ để giữ cồng mà cũng tham gia diễn tấu, lúc bịt lúc mở mặt chiêng để
tạo tiếng ngắt, tiếng ngân theo từng sắc thái của bài chiêng.
Bởi vậy có thể khẳng định: “khơng bao giờ bật gốc qua các cơn bão lốc,
ln bảo tồn cái vốn có một cách dai đẳng, khéo léo nhưng cũng không đột biến,
bùng phát tới một đỉnh nào” - chính là nét khác biệt dễ nhận thấy nhất trong văn
hóa Việt Nam. Hay ta có thể nói ngắn gọn rằng, văn hóa Việt Nam “Hịa nhập

nhưng khơng hịa tan” Chính yếu tố này đã tạo nên một nền văn hoá Việt Nam
vừa truyền thống vừa có sự tiếp biến mềm mại khơng làm mất đi bản sắc riêng
của dân tộc.
3.2. Văn hoá Việt Nam và con đường “trung dung” vừa phải
Không cực đoan, khơng triệt để, khơng đi tới cùng, khơng q khích,
khơng đồ sộ, không lấn át, không cuồng nhiệt... mà mềm dẻo, linh hoạt, bền bỉ,
xinh xắn, khơn khéo, có tình, có nghĩa... đại loại đó là người Việt và Việt Nam.
12


Sông dài, biển rộng, núi cao nhưng ấn tượng sâu sắc về non sông Việt là những
cái đèo và những sông nhỏ hiền lành Cầu, Đường, Hương, Thu Bồn.... Trong văn
chương, hội họa, phong cảnh không phải biển hùng vĩ như biển hồ Tonle sap
(Campuchia) hay những ngọn núi lửa phun đầy hoang dại như Cụm núi lửa
Tengger Caldera (Indonesia). Kiến trúc thì cũng xinh xắn, to nhất là các đình,
hồng cung Huế cũng rất vừa phải, các quốc tự quốc tháp (trong tứ đại khí) thời
Lý Trần cũng rất xinh so với chùa tháp ở Thái Lan, Malaysia và thật nhỏ bé so
với Ăngco hay Borobudua.
Vẻ đẹp đàn bà không "nghiêng nước, nghiêng thành", "chim sa cá lặn" mà
"Cổ tay em trắng như ngà..." rất vừa phải. Người đàn ông không vạm vỡ, lực
lưỡng, uy quyền mà khá nhu nhược, ủy mị - nho nhã. Vẻ hùng tráng của Từ Hải
hay người chinh phu của Nguyễn Du và Đặng Trần Cơn có phần vay của Tầu
nhưng cũng vừa phải không thể so với những Bạch Khởi, Hạng Võ... bên Tàu.
Màu sắc không cực đoan, một chiều như màu vàng ánh kim mà người Thái vẫn
ưa chuộng mà thường dùng màu trung gian: cánh sen, nõn chuối, cổ vịt, mỡ gà...
Các nhân vật chính trị khơng quyết liệt độc tài độc đốn... như Campuchia mà
được tơn vinh phần lớn là vua hiền lành, nhân đức. Trong tơn giáo thì sự hịa trộn
là rất khéo léo, ít tính cuồng tín như Mianma, mà tin theo vừa phải và lỏng lẻo.
Xung đột tôn giáo không bao giờ quyết liệt. Chất tâm linh thần bí khơng sâu như
Ấn Độ, tính thực dụng duy lợi, ý chí, mưu mơ khơng cương hoạnh như Trung

Hoa.
Đặc biệt, điển hình nhất phải kể đến quá trình hình thành ngôn ngữ Việt
Nam. Từ xưa, ngôn ngữ vốn được xem là thành tựu đặc trưng cho sự phát triển
của nền văn minh mỗi một dân tộc. Ở đây quá trình hình thành chữ viết Việt Nam
khơng chỉ thể hiện trình độ phát triển mà cịn chứng nhân lịch sử của sự giao lưu
trung dung, “có gạn lọc, tiếp biến” của trí tuệ Việt.
Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến, ngơn ngữ
chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu
tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là
13


cách đọc Hán-Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông
dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại
tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm.
Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp dùng
trong ngơn ngữ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có
lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt hiện
đại thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngơn ngữ
văn hóa phương Tây. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành cơng
cụ văn hóa quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc
ngữ.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được
địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng dùng trong mọi lĩnh vực, ở
mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, một
số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng.
Đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm nhưng vốn từ cụ thể, phong phú, giầu âm
sắc hình ảnh, lối diễn đạt cân xứng, nhịp nhàng, sống động, dễ chuyển đổi, thiên
về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận lợi cho sáng tạo văn học nghệ thuật.
3.3. Văn hoá làng - tổ chức cộng đồng căn bản của văn hoá Việt

Cộng đồng người Việt được tổ chức theo các đơn vị cơ bản là làng. Các
nhà nghiên cứu về làng xã Việt Nam cũng đã thừa nhận rằng: “Làng kiểu Việt
Nam, nhất là ở Bắc Bộ không thấy ở nơi nào khác trên thế giới.”. Nó khơng chỉ
là nơi tụ hội, cố kết các phong tục tập quán và những thành tựu văn hóa dân gian
như từ Phan Kế Bính tới các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hiện nay quan
niệm.
Làng là một tổ chức khá khép kín. Làng là một cụm dân cư nơng nghiệp,
thủ cơng nghiệp với diện tích nhỏ, nó khơng phải một đơn vị như thôn - xã huyện, tỉnh mà được gắn kết dựa trên huyết thống. Các làng nghề là đỉnh cao của
kinh tế Việt Nam thời phong kiến với các tổ nghệ - đáng gọi là các anh hùng lao
động, khoa học cơng nghệ thời đó. Từ làng mạng lưới thương mại quốc gia được
14


nối kết qua một số đầu mối như Thăng Long, Phố Hiến, Hội An. Sản xuất không
tập trung về đô thị... Làng thường có đình làng là nơi thờ cúng các vị thành hoàng
và hội họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội quan trọng. Làng được bao bọc bởi
lũy tre và có cổng, trong làng cịn có cây đa, có thể có chùa. Ngơi đình tiếp nối
các nhà to - nhà cộng đồng Đông Nam Á và là nhà hành chính - nhà thờ và nhà
văn hóa của làng. Làng cũng là địa bàn, là cái nôi sinh ra tới 90% di sản văn hóa
Việt. Kiến trúc, điêu khắc, ca, vũ, kịch tới múa rối, các trò chơi, thể thao... đều là
của làng, có tiếng có chất lượng thì thành của cả nước giống như các món ăn, các
sản phẩm như gạch Bát Tràng, rượu làng Vân, bún làng Mọc. Tầng lớp trí thức
khơng làm quan chỉ ở làng, cáo quan cũng về làng nên phải nói trí tuệ Việt Nam
tập trung ở làng. Tên danh nhân cũng gọi theo làng như cụ Tiên Điền, ông Yên
Đổ.
Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Gia đình được tổ chức theo thứ
bậc chặt chẽ, người dưới phải có hiếu và kính trọng người trên, người trên có
nghĩa vụ phải chăm lo dạy dỗ con cháu nên người. Các gia đình nhiều thế hệ hợp
thành dịng họ. Các dòng họ gắn kết với làng, tranh thế lực ở làng. Những người
đứng đầu làng được mọi người tôn kính, thường là những người già cả, người có

tiền, được gọi là các trưởng làng. Hương ước là một sản phẩm độc đáo của làng
và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có. Lệ làng làm nghiêng phép nước tạo ra một nền
dân chủ làng và một thế tự trị lỏng lẻo nhưng rất bền chặt. Hệ thống giá trị quyền
lực theo các thang: chi tộc - học vấn - chức sắc - tài sản đan dệt khá tinh vi, phức
tạp. Có lẽ vì vậy, từ Ngun, Minh, Thanh tới Pháp, Mỹ đều không thể chiếm
được làng dù đã tạm thời chiếm cả nước. Qua nhiều thế kỷ phát triển, Làng biểu
hiện tất cả những nét tốt đẹp cũng như những hiện tượng tiêu cực của văn hóa
Việt Nam thời phong kiến.

15


PHẦN 2: KẾT LUẬN
Tuy nhiên, điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn
đến văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa
nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hóa giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào,
Indonesia, Ấn Độ... Cùng cội nguồn văn hóa Đơng Nam Á, nhưng do sự thống trị
lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hóa Hán, nền văn hóa Việt Nam đã
biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn hóa Đơng Á.
Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và ln ln phải thực hiện các cuộc
chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi bật: tư tưởng yêu
nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc
nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu
nước và ý thức dân tộc. Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến
cho lịch sử phát triển xã hội Việt Nam có tính bất thường, tất cả các kết cấu kinh
tế - xã hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự
phát triển chín muồi. Cũng vì chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những
cơng trình văn hóa-nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được
nguyên vẹn.
Qua những nét đặc trưng căn bản trên chúng ta có thể đưa ra nhận định

như sau: Bản sắc văn hóa Việt, thế mạnh của nó chính là tính lưỡng căn - hai gốc
rễ ( lưỡng thể vừa văn hóa biển vừa văn hóa đại lục) - Đông Á - Đông Nam Á. Ta
“gần” – “giống” Trung Hoa, Nhật Bản - Triều Tiên bao nhiêu thì cũng gần Thái,
Malaysia, Indonesia... bấy nhiêu. Chính yếu tố lưỡng căn vừa Đông Á vừa Đông
Nam Á, kết hợp yếu tố là ngã tư Đông - Tây - Nam - Bắc nên người Việt chịu
nhiều áp lực bên ngoài, biết né tránh đối đầu cực đoan có tính sinh tử, rất bền bỉ,
khơn khéo, luồn lách thích ứng; nương theo tình thế mà ứng phó, phát triển; cứng
thì cũng như các ngọn đèo, mềm mại thì như những dịng sơng mà tự né tránh
bảo tồn mình phát triển mãi về phía Nam. Ngay cuộc Nam Tiến cũng diễn ra
chậm chạp, đồng hóa, chuyển hóa, hịa nhập từ từ cả ngàn năm chứ khơng huỷ
diệt, thơn tính kiểu nhà Ngun hay Ba Tư, La Mã. Trong giao tích văn hóa thu
16


nhận những ảnh hưởng bên ngoài người Việt cũng rất vừa phải, từ từ, có khi rụt
rè và khơng triệt để như các nước Đông Nam Á khi chuyển tôn giáo theo Hồi hay
Kito. Đạo Phật Việt Nam rất nhu hòa gần gũi một cách mơ hồ với dân làng, đạo
Lão thâm thúy hay Phật giáo Nam Tông chặt chẽ ảnh hưởng không lớn. Kể cả
trong trường hợp tiếp nhận văn hoá phương Tây cũng vậy: chỉ học cái ẻo lả, cảnh
vẻ, khoan hịa của người Pháp chứ ít học cái duy lý Đức hay cuồng nhiệt Tây Ban
Nha hay thực dụng mạnh mẽ của Anh mà sự học này cũng chỉ vừa phải, giống
như khi xưa anh nho sinh, ông quan đạo Khổng cũng không như Trung Hoa mà
vẫn là một anh người làng. Bởi vậy có thể khẳng định, xun suốt tồn bộ lịch sử
Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn hóa bản địa, lớp văn
hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây.
Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hóa bản địa vững chắc nên
đã khơng bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đồng hóa, trái lại cịn biết sử dụng và
Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giàu cho nền văn hóa dân tộc.
Dựa trên những lý luận đã nêu chúng tơi xin được tóm tắt lại những nét
bản sắc đặc thù của văn hố Việt. Có thể nó khơng hẳn đã là của riêng một dân

tộc Việt nhưng qua bao thế kỉ được tôi luỵên trong dòng chảy lịch sử dân tộc, tất
cả đây đã trở thành một phần bản chất, một sức sống Việt, sức sống của dân tộc,
của quốc gia:
+ Có một nền văn hóa lâu đời phát triển một cách bền bỉ. Tình cảm tơn
giáo bàng bạ, khơng cuồng tín. Ảnh hưởng cịn mạnh của các tín ngưỡng bản
địa . Tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tơn giáo chính
thống. Các tơn giáo bên ngồi du nhập vào Việt Nam khơng làm mất đi tín
ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có
những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo khơng hạ thấp được vai trị người phụ
nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng
được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi
chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật
cũng có. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ơng Trời, cũng
17


như mơtíp người lấy tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng
của tín ngưỡng Việt Nam.
+ Ở Việt Nam khơng có một hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng,
thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế, nhưng khơng có nghĩa là khơng có những triết lý
sống và những tư tưởng phù hợp với dân tộc mình:
- Xã hội nơng nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn
dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam.
Người Việt có tinh thần cộng đồng cao; dân tộc sớm phát triển (gia đình - làng nước). Lý do: tập hợp chống ngoại xâm, đắp đê. Hạt nhân: làng xã cổ truyền.
Tinh thần yêu nước là yếu tố chủ đạo trong việc cố kết làng xã.
- Đó là một lối tư duy lưỡng hợp một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh
nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển
linh hoạt, dễ dung hợp, biết thích nghi để tồn tại, ứng xử mềm mỏng, dung hoà.
Như với trường hợp của phát triển của tôn giáo Việt Nam, thời Lý-Trần, Phật
giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn

hóa mang tính chất "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo cùng tồn tại).
- Quen sống thanh bạch, đơn sơ mộc mạc. Do đó thích cái bình dị, cái
khéo, xinh, dun dáng hơn tìm cái huy hồng tráng lệ. Nghệ thuật tạo hình Việt
Nam cũng chú trọng diễn tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ
pháp cách điệu, nhấn mạnh.v.v.
Như vậy, có thể nói Văn hóa dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường
sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sơng nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn.
Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa
nước...) đã tác động khơng nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của
dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam.

18


LỜI CẢM ƠN
Bài luận được hoàn thành tại Trường Đại học Thăng Long, được xem là bài kiểm
tra kết thúc học phần môn “Nhập môn Khu vực học và Việt Nam học”.
Sau khi đã nghiên cứu và hoàn thành bài luận em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và
chân thành đến cơ Hồng Kim ngọc – giáo viên bộ mơn đã tận tình giảng dạy,
truyền đạt kiến thức q báu cho cá nhân em và toàn thể các bạn sinh viên tại lớp
XV33 trong suốt quá trình học tập để em có thể hồn thành tốt bài luận này.
Trong q trình thực hiện để hồn thành bài luận, đây là bài luận đầu tiên của đời
sinh viên khi em bước vào đại học, kinh nghiệm còn non yếu, nên chắc chắn em
cịn nhiều thiếu sót nên rất mong cơ bỏ qua. Đồng thời mong nhận được nhiều ý
kiến đóng góp từ cơ để giúp em tích lũy thêm kinh nghiệm để hoàn thiện bài luận
tiếp theo đạt kết quả tốt hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn.

19




×