CHƯƠNG 1
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
Chương 1: HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
ISO 14000
1.1. ĐỊNH NGHĨA VỀ HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Tiêu chuẩn ISO 14001 đã đưa ra đònh nghóa về HTQLMT như sau “Là một phần
của hệ thống quản lý chung bao gồm cơ cấu tổ chức, các hoạt động lập kế hoạch,
trách nhiệm, qui tắc, thủ tục, quá trình và nguồn lực để xây dựng và thực hiện, xem
xét và duy trì chính sách môi trường”. Theo ISO, HTQLMT có thể xây dựng chính
sách môi trường, nhưng bản thân chính sách môi trường lại là điểm trọng tâm của
HTQLMT. Nếu như theo đònh nghóa thì vào thời điểm thiết lập chính sách môi
trường, có thể chưa có hệ thống quản lý môi trường, nhưng khi đã có hệ thống quản
lý môi trường thì chắc chắn là phải có chính sách môi trường. Mục đích của
HTQLMT được nêu trong ISO 14001, phần A1: “Hệ thống Quản lý môi trường cung
cấp quá trình được cơ cấu để đạt được sự cải tiến liên tục...”
Rõ ràng là, bằng cách thực hiện hệ thống quản lý môi trường, tổ chức có thể cải
tiến liên tục kết quả hoạt động về môi trường của mình. Trong bối cảnh đó
HTQLMT “là một phần của hệ thống quản lý chung bao gồm cơ cấu tổ chức, các
hoạt động lập kế hoạch, trách nhiệm, qui tắc, thủ tục, quá trình và nguồn lực để xây
dựng và thực hiện, xem xét và duy trì chính sách môi trường”. Theo đònh nghóa này,
việc thiết lập và áp dụng theo chính sách môi trường là yếu tố tiên quyết của hệ
thống quản lý môi trường. Đònh nghóa sau có vẻ chính xác hơn, nhưng mục đích sử
dụng thì cả hai đònh nghóa đều có thể sử dụng được. Nên nhớ rằng Hệ thống Quản lý
môi trường là một phần của hệ thống quản lý chung của tổ chức có đề cập đến các
khía cạnh môi trường của các hoạt động của tổ chức đó, tạo ra các kết quả hoạt
động thân thiện với môi trường để tiến tới Cải tiến liên tục.
1.2. NGUỒN GỐC CỦA ISO 14000
Một trong những nhà hoạt động xã hội đề cập đến việc bảo về môi trường là
Rachel Carson, một nhà sinh vật biển. Cuốn sách "mùa xuân yên tónh" năm 1962
của bà đã rất nổi tiếng trong việc khuyến khích mọi người trên toàn thế giới quan
tâm đến sinh thái. Trong những năm 60 và đầu những năm 70, người ta nhận thấy
rằng thế giới sẽ gặp phải các vấn đề nghiêm trọng nếu hệ sinh thái của hành tinh
không được quan tâm đúng mức. Chất lượng không khí ở những khu vực đông dân
12
CHƯƠNG 1
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
trên toàn cầu đã bò phá huỷ đến mức báo động. Rất nhiều dòng sông trên thế giới đã
bò ô nhiễm gây ảnh hưởng đến đời sống ở biển. Do đó nguồn nước trở nên không an
toàn để con người có thể sử dụng với các mục đích khác nhau nữa. Thậm chí nước
mưa, nguồn nước thường được coi là trong sạch nhất đã trở thành nguồn gây độc cho
các loại thực vật, ô nhiễm các dòng sông và phá huỷ các thiết bò ô tô do nước mưa
có tính axít. Một bức tranh toàn cảnh truyền từ vệ tinh cho thấy rằng ô nhiễm môi
trường đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên trái đất. Sự ô nhiễm hành tinh do hoạt động
của con người đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng đối với mọi người.
Ôâ nhiễm môi trường không phải là một vấn đề mới. Ôâ nhiễm môi trường do hoạt
động của con người đã tồn tại từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất. Tuy
nhiên, có thể thấy sự liên hệ giữa việc ô nhiễm rộng rãi trên toàn thế giới và cuộc
cách mạng về công nghiệp. Trong thế kỷ 19 và 2/3 của thế kỷ 20, các nhà máy mọc
lên trên khắp các thành phố. Việc sử dụng điện của các khu dòch vụ, các cửa hàng
và các căn hộ hàng ngày đã thải ra hàng loạt các chất thải vào không khí, vào các
dòng sông, dòng suối và đất. Khi dân số không nhiều, thì vấn đề dân số đối với môi
trường chỉ là vấn đề nhỏ, không cần quan tâm tới. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, cùng với việc nhân lên của các nhà máy tại các thành phố; việc tăng số lượng
của việc sử dụng các chất độc hại như thuốc trừ côn trùng, thuốc trừ cỏ và phân bón
hoá học; với ảnh hưởng của mỗi cá nhân trong việc tạo ra ô nhiễm môi trường từ
việc mưu sinh của mình (chủ yếu thông qua việc sử dụng các nguyên liệu hoá thạch
và với việc các nguồn gây nguy hại cho hệ sinh thái ngày càng nhiều, sự lờ đi các
vấn đề tồn tại không phải là một giải pháp nữa. Dân số thế giới đã tăng từ 2,5 tỉ năm
1950 lên hơn 6 tỉ vào thời điểm hiện nay. Việc tăng dân số có nghóa là dẫn đến ô
nhiễm môi trường và đồng thời với việc khai thác tài nguyên nhiều hơn. Ô nhiễm
môi trường và tăng sự chòu đựng của thiên nhiên diễn ra cùng một lúc. Chúng ta chỉ
có thể có những nỗ lực theo một cách nào đó để kiểm soát dân số nhưng chúng ta
không thể giảm việc tăng dân số theo ý đònh của chúng ta. Chỉ một thông số chúng
ta có thể giảm được trong vòng kiểm soát của chúng ta - đó là vấn đề ô nhiễm.
Vào giữa những năm 80, việc quan tâm đến môi trường đã trở lên quan trọng.
Tầng ozon bảo vệ môi trường đang giảm dần, và đồng thời tầng khí quyển cũng bò
ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính từ đó dẫn đến việc nóng lên toàn cầu. Những vệt
cỏ dài bò huỷ hoại được quan sát thấy tại vùng mưa nhiệt đới và các nhà khoa học đã
cảnh báo rằng toàn bộ hành tinh có thể bò nguy hiểm nếu việc phá rừng để làm
nương vẫn tiếp tục. Quan điểm của các nhà khoa học khác nhau về việc suy giảm
13
CHƯƠNG 1
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
tầng ozon. Một số nhà khoa học nhấn mạnh rằng việc tiếp tục sử dụng
chlorofluorocarbons sẽ phá huỷ tầng ozon. Chlorofluorocarbons hay CFC được thấy
phổ biến trong ngành công nghiệp dung môi, hệ thống điều hoà và gần đây thấy
trong các thùng chứa sơn, thuốc xòt tóc và các sản phẩm khác. Việc suy giảm tầng
ozon có thể gây ung thư da. Tương tự như vậy, nếu chúng ta tiếp tục đốt các sản
phẩm từ các nguyên liệu hoá thạch (than, các sản phẩm dầu mỏ) với mức độ như
hiện nay hoặc cao hơn, mỏm cực băng có thể tan chảy và dẫn đến ngập lụt trên toàn
thế giới.
Các nhà khoa học không thể nhất trí với quan điểm việc nóng lên toàn cầu do
con người gây ra. Trong khi một nhóm cho rằng nhiệt độ trái đất là tuần hoàn theo
các chu kỳ ngắn và dài và chu kỳ này rất rõ rệt. Một nhóm khác, khi đã thu thập ý
kiến từ các phương tiện thông tin đại chúng và các chính phủ khác nhau cho rằng sự
thay đổi khí hậu rất rõ rệt và điều đó do con người gây nên. Có thể thấy rất rõ ràng
rằng môi trường đã và đang bò con người phá huỷ và các hệ thống sinh thái của trái
đất cần được quan tâm hơn.
Vấn đề môi trường đang ngày càng được các quốc gia quan tâm. Luật bảo vệ
môi trường của Mỹ đã được quốc hội thông qua vào năm 1969, cơ quan bảo vệ môi
trường Hoa Kỳ đã được thiết lập. Mỹ đã triệu tập hội nghò về môi trường tại
Stockhom năm 1971. Hai kết quả quan trọng có được từ hội nghò này: thứ nhất,
chương trình môi trường (UNEP) của Mỹ đã được thiết lập. UNEP sẽ phụ trách vấn
đề thúc đẩy trách nhiệm và nhận thức môi trường trên toàn thế giới. Nhiệm vụ của
UNEP là thông tin đến toàn thế giới về vấn đề môi trường. Thứ hai, Hội đồng Thế
giới về Môi trường và Phát triển (WCED) đã được thiết lập. Năm 1987, WCED đã
xuất bản một báo cáo kêu gọi các ngành công nghiệp xây dựng hệ thống quản lý
môi trường hiệu quả. Cũng vào năm 1987, một cuộc họp toàn thế giới đã được tổ
chức tại Montreal để xây dựng thoả thuận cần thiết cho việc cấm sản xuất các hoá
chất phá huỷ tầng ozon.
Kết quả của báo cáo của WCED là hội nghò về môi trường và phát triển của Mỹ
năm 1992 (còn gọi là Hội nghò thượng đỉnh về trái đất) ở Rio De Janeiro. Để chuẩn
bò cho hội nghò này và để ghi nhận sự thành công của việc phát triển tiêu chuẩn ISO
9000 - hệ thống quản lý chất lượng, Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO) được đề
nghò tham dự. Trong suốt năm 1991, ISO cùng với Hội đồng Quốc tế về kỹ thuật mạ
thiết lập nên nhóm tư vấn chiến lược về môi trường (SAGE) với sự tham dự của 25
nước. SAGE cho rằng việc nhóm ISO xây dựng tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc
14
CHƯƠNG 1
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
tế và các công cụ thực hiện và đánh giá là rất thích hợp. ISO đã cam kết thiết lập
tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc tế tại hội nghò thượng đỉnh tại Rio De Janeiro
năm 1992.
Tuy nhiên, một số vấn đề nảy sinh trong giai đoạn đầu. Một số quốc gia thành
viên đã ngạc nhiên khi thấy SAGE đã vượt qua thẩm quyền của mình để đưa ra quy
đònh về sự cần thiết của các tiêu chuẩn về môi trường và sự cần thiết xây dựng các
tiêu chuẩn này. Một loạt các công việc liên quan đến các tiêu chuẩn môi trường đã
được bắt đầu vào năm 1992 khi ISO thành lập Ủy ban Kỹ thuật 207 (TC 207) là cơ
quan sẽ chòu trách nhiệm xây dựng hệ thống quản lý môi trường quốc tế và các công
cụ cần thiết để thực hiện hệ thống này. Phạm vi cụ thể của TC 207 là xây dựng một
hệ thống quản lý môi trường đồng nhất và đưa ra các công cụ để thực hiện hệ thống
này. Công việc của TC 207 được chia ra trong 6 tiểu ban và 1 nhóm làm việc đặc
biệt. Canada là Ban thư ký của Ủy ban Kỹ thuật TC 207 và 6 quốc gia khác đứng
đầu 6 tiểu ban. Những công việc không thuộc phạm vi của TC 207 là các công việc
liên quan đến các phương pháp kiểm tra ô nhiễm, đưa ra các giới hạn ô nhiễm và
thiết lập các mức đánh giá hiệu quả hoạt động. Việc này tránh cho TC 207 liên
quan đến các công việc chủ yếu thuộc thẩm quyền của các cơ quan luật pháp.
Tại cuộc họp đầu tiên của TC 207, 22 quốc gia với tổng số 50 đại biểu đã tham
dự vào việc xây dựng tiêu chuẩn. TC 207 thiết lập 2 tiểu ban để xây dựng các tiêu
chuẩn môi trường. Tiểu ban SC1 viết ISO 14001 và ISO 14004, chủ yếu dựa trên
tiêu chuẩn BS 7750 và các đóng góp quan trọng của một số quốc gia, đặc biệt là
Hoa Kỳ. Tiểu ban SC 2 viết tiêu chuẩn ISO 14010, 14011 và 14012.
1.3. NHỮNG THAY ĐỔI CỦA PHIÊN BẢN MỚI
Phiên bản đầu tiên của ISO 14001:1996 trong bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đã được
Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) ban hành năm 1996. Sau 8 năm hoạt động
(năm 2004), tiêu chuẩn này đã được chấp nhận và áp dụng rộng rãi với trên 60.000
doanh nghiệp trên toàn thế giới. Sau 8 năm sử dụng, tiêu chuẩn ISO 14001 đã bộc
lộ được những điểm mạnh, điểm yếu của mình và đã được xem lại và sửa đổi cho
phù hợp với việc áp dụng trong thực tế.
Ủy ban kỹ thuật 207(TC 207 ) đã ban hành bản nháp của tiêu chuẩn ISO 14001
sửa đổi (ISO DIS 14001) vào năm 2004 và phiên bản cuối cùng đã ra đời vào cuối
năm 2004. Tuy nhiên, những thay đổi này là không đáng kể và những tổ chức đã
15
CHƯƠNG 1
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
chứng nhận ISO 14001 sẽ không phải quá vất vả trong việc cập nhật và nâng cấp hệ
thống quản lý môi trường của mình theo yêu cầu của tiêu chuẩn mới.
1.4. MỤC ĐÍCH CỦA ISO 14000
Mục đích tổng thế của tiêu chuẩn quốc tế này là hỗ trợ trong việc bảo vệ môi
trường và kiểm soát ô nhiễm đáp ứng với yêu cầu của kinh tế xã hội.
Mục đích cơ bản của ISO 14000 là hỗ trợ các tổ chức trong việc phòng tránh các
ảnh hưởng môi trường phát sinh từ hoạt động, sản phẩm hoặc dòch vụ của tổ chức.
Hơn nữa, tổ chức thực hiện ISO 14000 có thể đảm bảo rằng các hoạt động môi
trường của mình đáp ứng và sẽ tiếp tục đáp ứng với các yêu cầu luật pháp. ISO
14000 cố gắng đạt được mục đích này bằng cách cung cấp cho tổ chức "các yếu tố
của một HTQLMT có hiệu quả". ISO 14000 không thiết lập hay bắt buộc theo các
yêu cầu về hoạt động môi trường một cách cụ thể. Các chức năng này thuộc tổ chức
và các đơn vò phụ trách về pháp luật trong phạm vi hoạt động của tổ chức.
1.5. LÝ DO CHỨNG NHẬN ISO 14001
ISO 14001 là tiêu chuẩn tự nguyện với các tổ chức. Để xây dựng một hệ thống
quản lý môi trường phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi những nỗ lực và chi phí. Các nỗ
lực và chi phí sẽ phụ thuộc vào thực trạng môi trường của công ty. Vậy tại sao một
tổ chức lại mong muốn chứng nhận ISO 14001? Có một số câu trả lời cho câu hỏi
này: áp lực từ pháp luật, áp lực từ khách hàng và thậm chí từ những công ty bảo
hiểm, có thể là do nghóa vụ pháp lý, có thể động lực là lợi nhuận đạt được từ việc áp
dụng hệ thống. Các lý do cho việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường có thể trình
bày như sau:
- Dễ dàng hơn trong kinh doanh - Một tiêu chuẩn quốc tế chung sẽ giảm rào cản về
kinh doanh
- Đáp ứng với yêu cầu pháp luật - Để chứng nhận hệ thống quản lý môi trường theo
tiêu chuẩn ISO 14001, tổ chức phải tuân thủ các yêu cầu pháp luật và phải chứng
minh tính hiệu quả của hệ thống quản lý môi trường
- Tăng lòng tin: nếu một tổ chức được chứng nhận ISO 14001 và đònh kỳ được đánh
giá bởi cơ quan độc lập, các bên hữu quan tin tưởng rằng tổ chức rất quan tâm đến
vấn đề môi trường
- Giảm rủi ro và trách nhiệm pháp lý: Các tổ chức được chứng nhận ISO 14001 ít
gặp phải các vấn đề về môi trường hơn các tổ chức không được chứng nhận
16