Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

De luyen thi DHCD mon van 2009 De 4doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.45 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i>Đề 4:</i>


<i><b> a/ Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất nước (trong</b></i>
<i><b>trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ đất nước </b></i>
<i><b>của Nguyễn Đình Thi.</b></i>


<i><b> b/ Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn: "</b><b> Tây</b></i>
<i><b>Tiến đồn binh khơng mọc tóc ... Sơng Mã gầm lên khúc độc hành"</b><b> (Quang </b></i>
<i><b>Dũng, Tây Tiến)</b></i>


Bài làm


a/ Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất nước (trong
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ đất nước của
Nguyễn Đình Thi.


ư tưởng “Đất nước của Nhân dân” đã được thể hiện như thế nào trong đoạn thơ
Đất nước ( trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm


Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
A – gợi ý chung


- Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” không chỉ là kết quả nhận thức của riêng
một người mà là của cả một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.


- Phải đánh giá chất lượng mới có sự nhận thức nghệ thuật về đất nước trong mối
quan hệ với toàn bộ lịch sử văn học dân tộc.


B – gợi ý cụ thể
a) mở bài



- Đất nước là chương V của trường ca Mặt đường khát vọng , được sáng tác vào
năm 1971


- Nó đã thể hiện được những nhận thức sâu sắc của tác giả về đất nước.
b) thân bài


- Đất nước trong chương thơ đã được nhìn ở tầm gần. Nó hiện lên với vẻ dung dị,
gần gũi.


- Khi nói về lịch sử và địa lý của đất nước, tác giả chú ý đến đóng góp của những
con người vô danh.


- Hạt nhân của nhận nhận thức nghệ thuậ về đất nước là tư tưởng “Đất nước của
Nhân dân”. Tư tưởng này vừa là kết quả của cái nhìn ở tầm gần nói trên lại vừa
chi phối chính cái nhìn đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

c) Kết bài


- Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một cái nhìn độc đáo về đề tài
đất nước.


- Là tiếng nói đại diện cho thanh niên thời chống Mĩ nhận thức về đất nước.
C– Bài làm 1


Cảm hứng về đất nước là ngùôn cảm hứng lơn, xuyên suốt trong thơ ca Việt
Nam. Có rất nhiều trường h ợp cảm hứng đất nước quyện chặt với cảm hứng của
nhân dân. Nhưng có điều cách nhìn và cảm xúc đất nước và nhân dân ở mỗi tác
phẩm đặc sắc đều khơng lặp lại, nó mang đậm dấu ấn của thời đại và cảm xúc của
nhà thơ. Đoạn thơ Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn


Khoa Điềm là một thành công xuất sắc trên phương diện cảm hứng về đất nước
của thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ.


Gần cuối đoạn thơ tác giả có viết... “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân -
Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Có thể nói hai câu thơ
đã thể hiện được tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của nhà thơ - Cảm hứng đất nước
của nhân dân. Căn cứ vào đâu mà ta nói như thế ? Và tư tưởng, cảm hứng ấy thể
hiện cụ thể ở những phương diện nào?


Thơ tự do có khả năng chuyển tải tài cảm nhiều nhất, phóng túng nhất, chân
thành, tha thiết nhât. Đoạn thơ Đất nước được tác giả viết theo kiểu ấy nên dễ
truyền cảm hứng cho người đọc, dễ lay động những điều thầm kín nhất của lịng
người. Đoạn thơ lập luận chặt chẽ, lơ gích, thể hiện cảm hứng chủ đạo trên ba
bình diện. Đó là cảm hứng về chiều dài thời gian – lịch sử, ciều rộng không
gian-địa lý và trong chiều sâu của văn hoá phong tục, của lối sống thể hiện tâm hồn và
tính cách dân tộc. Trên mỗi bình diện, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc tư
tưởng cốt lõi “Đất Nước Nhân dân”.


Để diễn đạt sự hình thành đất nước trong chiều sâu lịch sử, nhà thơ không dùng
những sử liệu, mà bằng những gì thân thuộc nhất trong đời sống của nhân dân:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể


Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc


Nhận thức về đát nước bốn nghìn năm đã trở nên thật cụ thể, sống động, gần gũi.
Cái kèo cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng


Đất Nước có từ ngày đó.


Làm nên đất nước bốn nghìn năm chính là những con người bình dị đso là nhân
dân vơ tận. Vì vậy khi nhớ đến “thời gian đằng đẵng” của lịch sử đất nước, tác
giả khơng chỉ nhớ đến anh ùng có tên tủơi mà nhấn mạn đến những con người
bình dị:


Có biết bao người con gái con trai


Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


Nhân dân đã tạo dựng nên giá trị vật chất và tinh thần và truyền sang các thế hệ:
Họ giữ và truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng


Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hịn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói.


Họ cũng là những người đem xương máu giữ gìn non sơng đất nước:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm


Có nội thù thì vùng lên đánh bại


Cùng với thời gian “đằng đẵng” đất nước cịn là khơng gian mênh mơng, đó là
non sơng gấm vóc, là rừng biển quê hương. Tất cả được dựng lên từ mồ hôi, máu
thịt của bao lớp người. Từ quan niệm đất nước của nhân dân, tác giả đã có cái
nhìn mới mẻ, có chiều sâu về những phong cảnh thiên nhiên.



Từ những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp cho Đất Nước Hịn Trống Mái


Người học trị nghèo góp cho Đất Nước núi Bút non Nghiên


Điều đáng quý là tác giả đã phát hiện trong những địa danh bình dị ở mọi miền
đất nước để ẩn giấu chứa đựng cuộc đời của người dân


Những ngừoi dân nào đã góp tên ơng Đốc, ơng Trang, bà Đen, bà Điểm
Với những phát hiện trên, tác giả đã đi đến một cảm nhận thấm thía:
Ơi đất nước bốn nghìn năm sau đi đâu ta cũng thấy


Những cuộc đời đã hố núi sơng ta.


Đất nước cịn là chiều sâu văn hố, phong tục của tâm hồn tính cách dân tộc Việt
Nam. Thật ra cách nói thế này khơng phải là mới, trong Bình Ngơ đại cáo


Nguyễn Trãi cũng đã đề cao truyền thống, phong tục tính cách niềm tự hào,tư
tưởng lấy nhân dân là gốc.Nhưng chỗ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm là đã thể
hiện sâu đậm tâm hồn nhân dân khơng ở đâu khác ngồi văn hoá dân gian. Nên
“Đất Nước của Nhân dân” cũng chính là đất nước của ca dao cổ tích. Tác giả đã
sử dụng sâu rộng chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao dân ca tục ngữ, đến
truyền thuyết cổ tích, các phong tục tập qn sinh hoạt... Vì lẽ đó đoạn thơ đã đưa
người đọc phiêu diêu về thế giới nghệ thuật của nhân dân với những nét tâm hồn
và tính cách của dân tộc vốn gắn bó với máu thịt vơi smọi người. Việc sử dụng
chất liệu văn hoá dân gian ở đây không chỉ là một thủ phép trong nghệ thuật mà
đã là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân trong cảm hứng sáng tạo,
trong tâm hồn nhà thơ. Đó chính là thể hiện tư tưởng cốt lõi của bài thơ trong
việc lựa chọn chất liệu, thi tứ, xây dựng hình ảnh và ngơn ngữ nghệ thuật, khi nói
đến tâm hồn nhân dân trong ca dao, dân ca...nói chung là văn hố dân gian nhà


thơ dâng trào một cảm xúc dạt dào:


Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi


Biết quý công cầm vàng trong những ngày lặn lội
Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy


Đi trả thù mà không sợ dài lâu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

những khám phá sâu ,mới của nhà thơ, ngay cả những chỗ rất quen thuộc. Quan
niệm đó có cội nguồn từ văn chương truyền thống của dân tộc. Nhưng đến thời
hiện đại, qua cách nhìn và cách nghĩ của Nguyễn Khoa Điềm tư tưởng ấy ngày
càng sâu sắc và phong phú hơn.


Bài làm 2
I – Mở bài


1971, chiến trường Bình Trị Thiên hừng hực bão lửa của bom đạn, chiến tranh
báo hiệu của một mùa hè 1972 đỏ lửa. Trong khơng khí sôi sục của thời đại đánh
Mỹ trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã nung nấu và ra
đời nó thểhiện những suy ngẫm, những nhận thức vừa rất mới mẻ vừa rất thực
tiễn đối với đất nước, nhân dân mình. Chương V – ta quen gọi nó là bài thơ Đất
Nước – có lẽ là chương hay nhất. Nó là nhận thức chín mùi của thế hệ trẻ Việt
Nam về “Đất nước”. Nó là điểm tựa để họ xây dựng vai trị vị trí của mình trong
cuộc đấu tranh vĩ đại chung của dân tộc


II – Thân bài


Điều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt


đất nước rất gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng khơng kém phần cao
cả. Cả nhà thơ đâu đó nói về Đất Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới q
hương mình, Hồng Cầm bao lần thốt lên trìu mến : “Quê hương ta lúa nếp thơm
nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê hương ta từ ngày khủng khiếp”. Nguyễn
Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong khơng gian Việt Bắc. Có những câu thơ
quan tâm đến nét hồnh tráng, kì vĩ của đất nước:


Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !


Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
(Tố Hữu)


Hoặc Nguyễn Đình Thi:
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.


Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng
giọng tâm tình thủ thỉ:


Khi ta lớn lên....đánh giặc.


Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà
mình, dân mình, ta gặp những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà,
nhìn những bờ tre và sự yêu thương nhau bằng “gừng cay muối mặn”, thậm chí:
“cái cột, cái kèo, hạt gạo...” tất cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị truyền
thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu
của nó vẫn duy trì đến bây giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ
chung. Hình ảnh “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, câu thơ biết


q cơng “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là chữ tình sâu thẳm của người Việt.
Sau khi trả lời câu hỏi Đất nước có tự bao giờ Nguyễn Khoa Điềm muốn giả
quyết câu hỏi thứ hai Đất nước là gì? Bằng cách đưa ra định nghĩa với mẫu câu:
“Đất nước là nơi” – tác giả quan tâm đến cái bình dị khơng gian Đất nước, người
đọc rất ngỡ ngàng và cảm thấy rất thi vị khi Nguyễn Khoa Điềm khơng ngần ngại
nói Đất nước là những chuyện thầm kín, riêng tư bài ca Đất nước là của chúng
mình.


Đất là nơi... em tắm.


Thành tố âm dương ấy hợp lại đã trở thành:
Đất nước... hò hẹn.


Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và
tình tứ:


Đất nước... nhớ thầm.


Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào
mê cung huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vô tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra
rồi lắp lại mà vẫn chưa hết nỗi đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm
cái điều ngộ nghĩnh ấy để cho thoả cái điều mình muốn nói. Càng suy ngẫm đầy
trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy khám phá mới mẻ gây hứng thú cho người
đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến khơng gian văn hóa nhưng cũng
khơng quên cái thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài đằng đẵng của cha
ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa lí cụ thể những chi tiết rất đời thường
bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người Việt Nam.
Những ai đã khuất


...



Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.


Hai tiấng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng sâu đậm trong văn hoá tâm linh người
Việt, đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội nguồn, đối với sức
mạnh tinh thần cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc
trứng Âu Cơ, là dân tộc là đất nước, nó là dịng họ gia đình, sợi khói nhang trên
bàn thờ gia tiên có năng lực đánh thức tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về
4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan Viên rất tự hào với nữhng anh
hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.


Hỡi dân tộc tiếng hát 4.000 năm


Tổ quốc bao giừo đẹp thế này chăng? (...)
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc


Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc


Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.


Riêng Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ muốn nói nhiều hơn về:
Có biết bao người con gái con trai


...


Nhưng họ đã làm ra đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước?
tương tự như nói về địa danh, địa lí, nàh thưo khơng ca ngợi cái đẹp, cái trù phú


như Hoàng Cầm:


Quê hương ta lúa nếp thơm nồng...
ở Nguyễn Đình Thi:


Những cánh đồng thơm mát...


Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đen snhững miền đất, những thắng cảnh mà tên
gọi của chúng rát nôm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều vê cuộc sống cần
lao:


Những người vợ nhớ chồng
...


Ông Trang, bà Đen, bà Điểm.


Tiếp theo là những câu thơ có tầm khái quát:
Và ở đâu... núi sông ta.


Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu trực tiếp tư tưởng
“Đất nước của Nhân dân”.


Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ, tầm vóc của đất nước.
Họ là những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng
tâm niệm mà ta thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời
riêng của mình. Hàng loại các đại từ họ đã nói lên vai trò của nhân dân. Những
người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần : “Họ giữ, họ truyền lửa, họ truyền
giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những từ “giữ” và “truyền” rồi
“gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã nổi lên hình
tượng nhân dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp


sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau
thời kháng chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước ở tầm vóc quốc tế
Ta vì ta ba chục triệu người


Cũng vì ba ngàn triệu trên đời
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối ta làm ngọn lửa
(Tố Hữu)


Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói tới. Tuy nhiên các tư
tưởng khơng phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải
nghiệm và xúc động thật sự của chính mình. Ơng đã đưa vốn trí thức về văn hoá
dân gian cộng với suy ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại
da diết trữ tình. Đất nước này chính là của nhân dân, trong nhân dân có anh và
em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:


Em ơi em...muôn đời


Rất tự nhiên khơng hề bị lên gân giả tạo, văn hố trọng chữ tình sẽ là lối cư xử
uống nước nhớ nguồn


III - KẾT LUẬN


Chưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống
Mỹ


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Khi xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt dành cho ngày gặp mặt
(Nam Hà)



Đó là đất nước của những đoàn quân:
Quân đến, quân đi cỏ tranh ùa giá rét


Dãy Trường Sơn trùng điệp những sư đoàn
(Bằng Việt)


Và :


Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe nặng nỗi đau của mẹ


Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ
(Tạ Hữu Yên)


Do có đóng góp riêng rất độc đáo, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chinh
phục được lịng độc giả từ khi nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những
thử thách của thời gian. Chúng ta ai chẳng có một tình u Tổ Quốc và có lúc ta
phải thốt lên lời của Nguyễn Khoa Điểm


Mọi tin yêu ngay thẳng gọi ta vào


Ta ngã vào người đất nước Việt Nam ơi !


<b>b/ Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn: " </b>
<b>Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc ... Sơng Mã gầm lên khúc độc hành" </b>
<b>(Quang Dũng, Tây Tiến)</b>


Tìm hiểu đề



- Đề bài thuộc dạng phân tích tác phẩm văn học. Cụ thể là phân tích một đoạn
thơ.


- Để có thể phân tích sâu sắc đoạn thơ này, cần phải có cái nhìn tổng quát về cả
bài thơ Tây Tiến. Bài thơ có hai đặc điểm nổi bật, bao trùm : cảm hứng lãng mạn
và tinh thần bi tráng. Cả hai đặc điểm ấy đều được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ
cần phân tích.


- Đoạn thơ này, về thực chất khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây
Tiến. Vì thế, khi phân tích, cần phải làm sáng tỏ vẻ đẹp của hình tượng này.
Gợi ý làm bài


I. Đặt vấn đề :


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây
Tiến phần đơng là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có
cả học sinh, sinh viên.


- Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã
khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn,
thấm đẫm tinh thần bi tráng.


II. Giải quyết vấn đề :


1. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :


Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng
mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp
đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng
phong phú của người đọc.



- Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất
hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền
hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn
một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ
ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc
đáo và kì lạ :


Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
... Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm


- Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của
cả đồn qn. Qua ngịi bút của ơng, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai
phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính
da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những
sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ơng đã thấy họ ốm mà khơng
yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh
phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung
lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính,
qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng
thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ
(mắt trừng gửi mộng) của họ ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

thể những người lính Tây Tiến khơng chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng
vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ
của họ.


2. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :



- Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi
sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã
khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm
mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:


Rải rác biên cương mồ viễn xứ
....Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


- Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngịi bút của Quang Dũng khơng hề
nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ơng mỗi khi chìm
vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đơi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng
mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang
biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng qn mình vì Tổ quốc của người lính
Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường
khơng có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc
trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong
tiếng gầm thét dữ dội của dịng sơng Mã :


Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật
trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và
dịng sơng Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc
nhạc trầm hùng.


- Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính
chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu
chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.



III. Kết thúc vấn đề :


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>

<!--links-->

×