Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Chiem ngam Doa Hoa Vo Thuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.4 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chiêm ngắm Ðố Hoa Vơ Thường</b>


<i>Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua </i>


<i>Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu </i>
<i>Chìm khuất trong ta một lời nói vu vơ </i>
<i>Chìm dưới sương thu là một đố thơm tho... </i>
<i>("Chìm dưới cơn mưa")</i>


<i>Chỉ có trong tình yêu ta mới bắt gặp được cái chết của chính mình. Tình u cũng mở </i>
<i>ngõ cho những lần hố kiếp. Hãy thử bước vào thế giới đó để khởi đầu bằng một cái chết</i>
<i>thật vô cùng yêu dấu. </i>


<i>Trịnh Cơng Sơn (Tình Khúc, 1967) </i>


<i>Bởi chàng nhập vai Orpheus, nhà thơ... nhà kiến trúc nên huyền thoại, nhà phù thuỷ </i>
<i>trước sự man rợ, và là người hành hương về cõi chết... </i>


<i>George Steiner (Silence and the Poet </i>


<b>Khúc dạo</b>



Chúng ta u nhạc Trịnh Cơng Sơn vì trong nhạc của anh có thơ. Vậy, chúng ta có được
cả hai. Tự thơ đã là một loại nhạc biểu hiện cái đẹp và sự hài hoà của chữ nghĩa. Nhạc
thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung
linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi
đâu là nhạc là thơ. Nếu nhạc là con sơng thì thơ là con trăng nhập vào mặt nước thành
con thuyền chở tình u của anh. Nói cách khác, thơ và nhạc là đơi cánh để bay chở tình
u trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách lìa được. Từ đó thơ nhạc sẽ
la đà bay vào lịng người, khiến tai ta có thể nghe được những âm thanh vọng xuống từ
trời cao, tiếng của <i>đất trời rộn ràng... Dù em khẽ bước không thành tiếng, cõi đời bao la </i>
<i>vẫn ngân dài.</i> Mỗi khúc hát của TCS là mỗi giấc mơ hoá thân thu mình bé lại làm mưa


tan giữa trời, là mỗi lần tâm hồn bụi bậm thường nhật của chúng ta được tn tưới, gột
rửa.


Thơ ca đích thực nảy sinh từ vũ điệu của tâm hồn (Inayat Khan). Từ thơ mà nhịp điệu của
tâm hồn được thể hiện. Có người sẽ cho rằng nét nhạc của Trịnh Công Sơn giản dị, đơn
điệu. Hẳn là anh chuộng sự đơn sơ, giản dị, nhưng đây là cái giản dị của sự đạm bạc, khổ
hạnh, <i>nghèo</i> mà vẫn giàu những cảm thức mĩ học tao nhã. Nét nhạc “đơn điệu”


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>búng ngón tay đàn thức dậy ước mơ... Ðơi khi thấy trên lá khơ một dịng suối... </i>


Và nếu để đi tới chỗ rốt ráo vượt trên cả cái tiếng nhạc: đó là <i>tiếng người</i> trong tiếng thơ
Trịnh Công Sơn. Tiếng của thân phận cát bụi <i>úp mặt bùi ngùi</i> trên đường: tiếng thiết tha
ân cần của một tình u vơ ngã, hỉ xả <i>để gió cuốn đi, để tim lăn trên đường mịn, để tình </i>
<i>u xay mịn thành đá cuội, để treo tình trên chiếc đinh không</i> [trên cây thập giá đời], để
ru tình nên chịu <i>q gối vong nơ, để làm đá cuội mà lăn theo gót hài</i>,... Chúng ta có thể
kết tinh tất cả những hình ảnh đó vào trong sự tự nguyện chọn “qui y” hay ở trọ trong
chính đơi chân của một người đẹp: <i>đi đứng ở trọ đơi chân Th Kiều</i>. Ðơi chân ấy chính
là đôi chân của đoạn trường. Yêu cái giọng người nhu mì của Trịnh Cơng Sơn rõ ràng đã
đồng điệu với thi sĩ Lorca: <i>“Thi ca đích thực chính là tình u, hết mình, qn mình... Tơi</i>
<i>có thể nói với bạn rằng tôi ghét tiếng phong cầm, đàn, sáo. Tôi yêu cái tiếng người. Cái </i>
<i>tiếng người đã chịu hạ mình vì tình u.”</i> Tình u hết mình đó chính là viên ngọc để Dã
Tràng nghe và cảm thơng được tiếng của mn lồi... Hoặc dẫu biết <i>gập gềnh nhiều kiếp </i>
<i>lưu vong</i> nhưng vẫn gánh kiếp của một <i>tên tuyệt vọng</i> Sisyphus để lăn tảng đá đời:<i> Ta lăn</i>
<i>đời đã q đơi tay vẫn cịn ơm mịt mùng...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Trịnh Công Sơn đã từng và ngay lúc này đây đang vọng nhìn cuộc đời từ bờ bên kia: <i>mệt </i>
<i>quá thân ta này, nằm xuống với đất mn đời. Kìa cịn biết bao người, dìu dặt tới quanh </i>
<i>đây.</i> Ðã từng <i>ta thấy em trong tiền kiếp</i> tới cách nhìn sau này với nhãn quan lưỡng
nguyên pha thêm tính u mặc (humour) kiểu Bùi Giáng trong bài hát <i>Con mắt còn lại. </i>
<i>(Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm, con mắt cịn lại một con khóc người/Bây giờ riêng đối </i>


<i>diện tơi, cịn hai con mắt khóc người một con</i>. – B.G.). Con mắt cịn lại là con mắt Hoa
Nghiêm: con mắt thứ ba: con mắt huệ nằm giữa trán.


Văn Cao đã gọi chính danh Trịnh Công Sơn là người <i>ca thơ</i> – để nói về các thi ca sĩ


<i>troubadour/minstrel</i> -- những sứ giả sống để phụng thờ và ca tụng tình yêu như là nguồn
sáng cứu rỗi trong đêm trường Trung cổ. Một khoảnh khắc sống với quả tim yêu nồng
nhiệt đáng giá hơn một trăm năm sống bằng quả tim khơ héo, dù ngay cả khi ca tụng tình
u bằng <i>những bài tình ca khơng có hạnh phúc.</i> Ðời thi ca sĩ là một kiếp rong chơi:


<i>Ðời vẽ tôi tên mục đồng </i>
<i>Rồi vẽ thêm con ngựa hồng </i>
<i>Từ đó lên đường phiêu linh. </i>
<i>Ðời vẽ trong tôi một ngày </i>
<i>Rồi vẽ thêm đêm thật dài </i>
<i>Từ đó tơi thề sẽ rong chơi...</i>


(Chỉ có ta trong một thời)


Chính phong thái <i>bohemien/gypsy</i> này mà hình ảnh người du ca Trịnh Công Sơn với cây
đàn guitar cùng “nữ hoàng chân đất” Khánh Ly thời ấy (1967) hiện ra giữa trời và trong
các quán café (sau đó là cặp tình nhân Lê Uyên và Phương), họ là những <i>café cantanta</i>


(ca sĩ hát trong quán café) là một luồng sinh khí mới thu hút được một thế hệ rất lớn
những <i>aficionado</i> (người hâm mộ), và đã trở nên một dấu ấn sâu đậm khó quên đối với
họ. Phong thái này mặc dù thiếu cái <i>passion</i> (<b>2</b>) động của tiết nhịp flamenco nhưng nó lại
là cái <i>Passion</i> (<b>3</b>), tĩnh -- đúng lúc để lặng mình mà chiêm ngắm lại những vết thương
lòng của người VN, của những <i>vết lăn trầm</i>, của thân xác quê hương đang tan nát từng
giờ trong những <i>Ca Khúc Da Vàng</i> (1967). Những bài hát ru như <i>Ngủ đi con, Lời mẹ ru</i>



và đặc biệt bài <i>Ca dao mẹ</i>: hình ảnh người <i>mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại</i>
<i>quê hương</i> là pho tượng bi cảm Pieta (Thương xót) sống động về người mẹ VN ru con, ru
mình, ru quê hương trong tiếng võng bấp bênh phận người, trong lúc thần chết đang bay
chập chờn... Cũng có thể nói phần lớn ca khúc TCS là những bài hát ru và hát kể và là
những tự tình khúc. Rất nhiều lời tỏ tình mở đầu ca khúc của anh ln là ngơn ngữ nói
đằm thắm gần gũi đời thường như: <i>Chiều nay em ra phố về... Ngày mai em đi..., Ði về </i>
<i>đâu hỡi em... Em còn nhớ hay em đã qn... Khơng có đâu em này...</i> TCS đã thăng hoa
cho cái hồn đầy nhạc tính của tiếng Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thời chiến, trong khi khơng thể kiếm được tình tự đó nơi những rạp hát hào nhoáng
thường là nơi mua bán cảm xúc như những sản phẩm; những nơi đó khó có thể là mơi
trường thích hợp cho nhạc Trịnh Cơng Sơn. <i>Ca khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, Ta Phải </i>
<i>Thấy Mặt Trời</i>... cũng làm thức dậy cái tính độc lập ”vơ chính phủ” (arnachy) trong tiềm
thức của thanh niên. Từ đó ta hiểu tại sao nhạc TCS từng là mối “taboo” (cấm kị) đối với
chính quyền của cả hai phía, nó bị kết án với cái tên gọi là nhạc <i>Xanh. Xanh</i>, bởi nó
khơng theo <i>Vàng</i> hoặc <i>Ðỏ</i>. Hay có thể nói nhạc <i>Xanh</i> cũng là <i>Blues5</i> bởi nó nói lên được
cái thân phận nơ lệ da vàng đầy tủi nhục. Nhìn lại <i>Gia tài của mẹ</i> là khát vọng “giải thực”
(decolonization) cho cái tinh thần bị tha hoá của người Việt, đặc biệt là ở giới cầm quyền
và trí thức trong thời <i>nội chiến6</i>. Rất nhiều hình tượng về người Mẹ và người Nữ biểu
tượng cho tình yêu xuyên suốt trọn đời sáng tác của TCS, đó là sự hướng về Nữ tính
Vĩnh cửu (<i>Éternal Féminin</i> -- Goethe) làm biểu tượng cho sự cứu rỗi chung.


Ðịnh mệnh của người thi ca sĩ Trịnh Công Sơn như định mệnh của chàng Orpheus [trong
thần thoại Hi lạp] đã phải hành hương xuống tận cõi âm ti, bằng mãnh lực của lời thơ
tiếng nhạc làm nguôi dịu những linh hồn đang bị đày đoạ và để cứu lại người tình đã bị
rắn độc giết hại. Tiếng hát cung đàn lyra của Orpheus cũng đã cứu bao người khỏi chết vì
giọng mật ngọt của ngư nữ Siren huyễn hoặc giữa trùng khơi... Do màu sắc tâm linh
trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn nên tự chúng không thể là loại ca khúc phổ
thơng để tiêu khiển, vì khi hát lên được cái hồn trầm uất của mình là giải ngi được cho
tâm bệnh của mình. Ở trong đó đã tiềm ẩn chức năng chữa trị của các <i>shaman</i> (thầy mo)


là dùng những khúc phù chú để chữa lành xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác. <i>Shaman</i> là
nhà thơ, nhạc sĩ, hoạ sĩ, thầy thuốc đồng thời hiệp thông giữa hai cõi sống và chết -- làm
vai trò giải tà, giải oan và chiêu tụ. Ðiều này thấy trong <i>Ca Khúc Da Vàng</i> và như trong
lời mở đầu kêu gọi thống thiết của Trịnh Công Sơn trong <i>Kinh Việt Nam</i> (1968): <i>Ta phải </i>
<i>đi tới bằng con tim sứ giả mang niềm tin và lời hứa hẹn của những người đã nằm </i>


<i>xuống... Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội với một quá khứ hiển linh... </i>


Dõi trông cuộc hành hương của người du ca sĩ Trịnh Công Sơn ta thấy nhạc khởi đầu đã
hoà chung vào với từng giọt nước mắt buồn rơi trong đêm mưa từ độ ấy... và từ đó đêm
[và mưa] bao trùm lên những ca khúc của anh – như những bài <i>Tụng ca Ðêm</i> của thi sĩ
Novalis: “Ðêm đã trở nên, dạ con kết trái, đầy những mạc khải...” – <i>Ðêm ta nằm nghe </i>
<i>tiếng trăm năm... đêm nghe tiếng muôn trùng, đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai</i>.
Hố thân vào dịng thác đêm là cái chết đang cuốn trôi đi tất cả trong <i>Ðêm thấy ta là thác</i>
<i>đổ. Ơm lịng đêm</i> trong <i>Phôi pha</i>. Ðêm mạc khải cho <i>trăng vàng khai hội một đố hoa </i>
<i>quỳnh. Từ đó ta là đêm nở đố hoa vơ thường... </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phẩm mang hương vị Thiền thời kì này (1972 –75) như <i>Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Ngẫu </i>
<i>nhiên, Nguyệt ca, Níu tay nghìn trùng, Giọt lệ thiên thu, Lời thiên thu gọi, Phôi pha, Bên </i>
<i>đời hiu quạnh, Ðêm thấy ta là thác đổ, Cũng sẽ chìm trơi, Tự tình khúc, Một cõi đi về</i>,...
và được “viên thành” bằng tổ khúc <i>Ðố hoa vơ thường. Ðố hoa vơ thường</i> có thể coi là
bức “tứ bình” bằng nhạc, thơ và hoạ mở ra cho ta thấy trọn cuộc hành trình tâm linh đi
tìm ý nghĩa trong cuộc hội ngộ với tình u, cái đẹp, cái vơ thường.


Khát khao đi tìm sự bình an của Trịnh Cơng Sơn trong Thiền tơng, khơng hẳn là để tìm
sự giải thốt hoặc để đạt tới cõi hoàn toàn an nhiên tự tại, mà có phần gần với lí tưởng Bồ
tát [như đối với nhà thơ Cao Bá Quát] là “mang cái bệnh Duy-ma” vì chúng sinh (<b>8</b>) Lí
tưởng này khơng nhằm đạt tới Niết Bàn, cho dù tình yêu ở đây có mang tính vơ ngã đi
nữa: <i>Tơi xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi/ Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót </i>
<i>hài/ Tơi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời. </i>Trong ca khúc <i>Biết đâu nguồn cội</i> đó, đầy


những hình ảnh [mang Âm tính, Nữ tính, Mẫu tính và Pháp tính] thường thấy trong Thiền
tông: nước, trăng, thuyền [chứa chở trời đất và người] đều nổi trôi, che chở và uyển
chuyển. Ở trong bài nhạc này để nói về sự tương tác luôn “ở trọ” trong nhau và “thiếu
nợ” lẫn nhau giữa cõi đời và với trời đất (<i>trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra</i>)
hơn là để nói tới cái tâm chân như hay cái tánh khơng: “Kìa xem bóng nguyệt lịng sơng.
Ai hay khơng có có khơng là gì” (Thiền sư Ðạo Hạnh). Ở Trịnh Cơng Sơn, cái đẹp bi luỵ
cịn in dấu khi <i>bước tới hư vơ khốc áo chân như</i> nhưng vẫn còn <i>long lanh giọt lệ thiên </i>
<i>thu</i> (Giọt lệ thiên thu). Ðôi khi trầm tư về cái đẹp với cảm xúc bâng khuâng trước cái
mênh mang mà sự giải thốt thì diệu vợi tận cõi “bỉ ngạn” (bờ kia):


<i>Bên kia sông nước vô bờ </i>


<i>Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng. (Lời ở phố về)</i>


<b>Nhan sắc Ðố hoa Vơ thường </b>



<i>Tim tơi đã nở </i>
<i>Ðố hoa dưới trời </i>
<i>Chùm cánh khát mong </i>
<i>Bầu nhuỵ mơ mòng. </i>


(García Lorca)


<i>Nếu chiêm ngắm kĩ, bạn sẽ thấy con người là một bông hoa năm cánh.</i> Một thiền giả
Nhật đã có chiêm nghiệm như vậy. “Giao hưởng thơ” <i>Ðố hoa vơ thường</i> là một dụ
ngơn/ẩn dụ bằng ý thơ nẻo nhạc để kể về cuộc hành hương đi tìm ý nghĩa của tình yêu,
nghệ thuật và cái chết. Tương tự như trong truyền thuyết đi tìm Ðoá hoa Xanh biểu trưng
cho nghệ thuật của thi sĩ Lãng mạn Ðức Novalis -- Một cuộc luyện đan (alchemy) trong
tình yêu và nghệ thuật. Hoặc gần với Thiền tơng hơn, nó được ln diễn trong 10 bức
tranh chăn trâu, là hình ảnh kẻ mục đồng hay hành giả/lữ khách lạc nẻo giữa đồng hoang


nội cỏ, khởi đi tìm cái tâm (chân như) của chính mình đã đánh mất trên siêu lộ mê ảnh
trong cõi sinh tử chập chùng mộng mị...


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Một cõi đi về</i>. Lối tiến hành âm hình giai điệu của <i>Ðố Hoa Vơ Thường</i> là một cuộc
chuyển hố liên tục giọng, điệu tính, tiết nhịp, tâm thái... trong từng đoạn, câu hoặc tiết
nhạc. Ý thơ dựa trên một chủ đề chính tái hiện nhiều lần là bơng hoa xuyên suốt tác
phẩm. Sự chuyển hoá sắc thái liên tục này làm gợi nhớ tới ý niệm “giao hưởng thơ”
[<i>symphonic poem</i> của các nhà soạn nhạc Ðức như F. Liszt thời Lãng mạn] đưa ra tính tự
do của một nhạc thể và khả năng sử dụng dàn nhạc như là một bảng pha màu, từ đó vẽ ra
một bức tranh linh động bằng âm thanh-hình ảnh.


<b>Chương I </b>



<i>Tìm tình, nhịp thong dong</i>


Khởi đầu bằng thể hát kể đồng dao bốn chữ <i>Tìm em tơi tìm</i>... như nhịp chân rảo bước đi
tìm Tình trong vẻ Ðẹp mà hình ảnh thanh tao hiện thân trong <i>mình hạc xương mai</i>. Bước
đầu tìm trong cái đơn độc, cái <i>một: tìm trên non ngàn một cành hoa khơi </i>-- hiển hiện
trong đố hoa tinh khơi đó là <i>nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối, một bờ mơi thơm</i>


mang tấm lịng sơ ngun của một hồn giấy mới. Khiến chúng ta liên tưởng tới những
vần thơ tình tâm linh diễm tuyệt “vì tình tơi phải tìm tình” trong <i>Nhã Ca</i> (Kinh Thánh)
hoặc trong Tụng ca Tâm linh [của San Juan de la Cruz] để đi tới chỗ kết hợp huyền
nhiệm (unio mystica).


<i>(rộn rã bồi hồi) </i>


Ðường nét “hướng thượng” trong giai điệu này: <i>“Tìm em tơi tìm nhủ lịng tơi ơi...</i>” là nỗi
quyết tâm tìm trong cả những thấp thống ảo hố (maya) của vạn vật đắp đổi; thời gian:



<i>tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khơi</i>. Trên trời: <i>tìm chim trong đàn ngậm hạt sương </i>
<i>bay.</i> Dưới đất: <i>tìm lại trên sông... những dấu hài.</i> Từ thơ bốn chữ giờ còn lại còn ba chữ:


<i>những dấu hài...</i> giọng ngậm ngùi tưởng nhớ. Ở đây “tình lại gặp tình” lần tìm theo chỉ
thấy từng bước in rêu của một hồng nhan bạc mệnh...


<i>(Trầm tưởng). </i>
<i>(Dịu lắng) </i>


<i>“Tìm em xa gần đất trời rộn ràng...”</i> lịng người đi tìm bây giờ đã lắng xuống để quán
tưởng mà ôm lấy đất trời xa gần trong cả cái tính phù du, bạc mệnh, tàn và tận của tấn
tuồng ảo hố đó:<i> Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, trăng tàn nguyệt tận, </i>
<i>chưa từng tuyệt vọng đâu em.</i> Thêm hai chữ <i>đâu em</i> như lời nhắn nhủ mãi mãi tới cõi phù
sinh này <i>(Ðừng tuyệt vọng tôi/em ơi đừng tuyệt vọng...).</i>


<i>(Rộn ràng) </i>


Từ thể hát đồng dao giờ hoá thành bài kệ (gatha) tụng reo:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Là lúc cảnh giới của đất trời giao hội từ khi <i>câu Kinh đã bước vào đời</i> (Nguyệt ca) -- đơi
dịng <i>Kinh Sấm (Vajracchedika)</i> ấy bay rền vang là ánh kim cương chẻ toang bóng tối âm
u... Cũng chính là lúc <i>bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn – cội nguồn</i> của chân như,
bản lai diện mục – Người Tình hay cái Tâm sẽ tự hiển hiện cho <i>thấy</i> khi thơi <i>tìm</i> trong
hình sắc, âm thanh... Giờ tơi <i>mời em về</i> trong đêm thiêng liêng có ơn mưa trời gội rửa
tuôn tưới. Em giờ hiện hữu ở khắp bốn bề tẩm hương trầm thơm ngát. <i>[Tiếng đàn...</i> như
tiếng mưa nhỏ giọt]. Khi vườn mưa tạnh, tiếng nhạc liền cất lên hân hoan để soạn sửa cho
cuộc lễ mạc khải thiêng liêng dưới ánh trăng vàng: <i>một đoá hoa quỳnh</i> trong ngọc trắng
ngần lồng với bóng trăng trịn. Cũng từ lịng đố hoa tố tâm đó mở ra [chỉ trong một đêm
thắp sáng] mà vạn vật được phản chiếu và mở phơi như trong một tấm gương trong. Cái
nơi vũ trụ tình yêu nhiệm màu đó là những ngón tay xoè bung ôm lấy tất cả làm Một.


Tới đây lời thơ ngưng.<i> [Tiếng đàn...</i> giờ là ánh trăng lung linh tĩnh mặc] để chiêm ngắm
vẻ đẹp của đoá ngọc quỳnh. Như cái thị kiến ân sủng (beatific vision) của thi sĩ Dante
chói mắt trước ánh sáng tâm linh phát toả từ tình u được kết thành đố hoa hồng trắng.


<b>Chương II </b>



<i>Ðưa tình về, nhịp hớn hở (Nhạc...) </i>
<i>Thanh thoảng (Nhạc...) </i>


<i>Bình an</i>


Từ khi có dun hội ngộ, đã có tình là có đối đáp. Lời thơ chuyển sang thể lục bát trữ tình
để bày tỏ khoảng an bình khi cả hai đã có nhau như hình với bóng. Bằng một nhịp thơ
liền lạc, vui và đầm ấm: <i>“Từ nay tơi đã có người, có em đi đứng bên đời líu lo... Từ em </i>
<i>tơi đã đắp bồi, có tơi trong dáng em ngồi trước sân.” </i>


<i>Hát tự do </i>


Giọng chuyển đột ngột chùng xuống thành khúc hoài cảm (melancholy) đượm vẻ nuối
tiếc, man mác, buốt lạnh như lời linh cảm trước cho tính bạc mệnh của đoá hoa “mới
chớm đã viên thành” như nụ tình ái Kim-Kiều.<i> Mùa đơng cho em nỗi buồn, chiều em ra </i>
<i>đứng hát kinh đầu sơng... chút tình mới chớm đã viên thành. </i>


Và <i>tàn đông con nước kéo lên</i> đợi mùa xuân tới:


<i>Nhịp nhàng thơ thới </i>


Ðiệp từ <i>Từ nay...</i> đã luôn được nhắc lại, cung giọng bây giờ cao và nhấn nhá vui hơn.
Toàn chương II diễn tả một cuộc “đối đáp” <i>nói–thưa</i> (đối điểm/counterpoint), <i>đắp-bồi</i>



giữa hai bè ngơi thứ khởi từ <i>tơi-người, tơi-tình</i> sang <i>tôi-em</i>; cho tới đoạn này là <i>anh-nàng</i>


để đồng xướng (homophony) một chữ có. Ở đoạn này như là giai điệu chim hót trầm
bổng cùng với tiếng ca đồng thanh của đất trời sông núi đáp đền tới cuộc hội ngộ từ khi


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Chương III </b>



<i>Bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất </i>
<i>(Nhạc chuyển... Chậm lại...) </i>


<i>Bình an</i>


Khúc arioso (vịnh tự khúc): <i>“Sen hồng một nụ...” </i>Chuyển từ hình ảnh đố quỳnh trắng
của chương I sang một hoá thân khác là nụ sen hồng đang <i>ngồi</i> đong đưa -- khoảng cách
từ “thơ ngây” tới “kinh nghiệm” -- bằng một giọng kể hoài tưởng lại thời thanh xuân êm
đềm chuyển sang sắc màu “chín” của tình u đã nếm trải <i>từ rạng đông cao đến đêm </i>
<i>ngọt ngào.</i> Bảng màu “mùa xuân chín” rõ rệt hơn: <i>Em hồng một thuở xuân xanh... </i>giờ
cịn lại nỗi buồn hồi niệm để <i>đền trọn mối tình. (Hồng đi nhé xin hồng với nụ. Vàng </i>
<i>phai sẽ cuốn đi mịt mù</i> – Vàng phai trước ngõ).


<i>(nhạc chuyển...) </i>
<i>Hiu hắt </i>


Từ đây chuyển đoạn trầm xuống hiu hắt như tiếp nối đoạn hoài cảm ở chương II nhưng
đã trở thành thể thơ độc thoại sáu chữ. <i>Một chiều em đứng cuối sơng, gió mùa thu rất ân </i>
<i>cần chở lời kinh đến núi non, những lời tình em trối trăng...” </i>Cuộc tình đã trải qua cả
hạnh phúc lẫn khổ đau, và thân phận lưu lạc hoa trôi bèo dạt, lênh đênh từ <i>đầu sơng</i> cho
tới <i>cuối sơng</i> đoạn trường “tính từ sơng nước cát lầm”. Cánh gió mùa thu chở lời Kinh
hát về thân phận gửi tới non nước quê nhà. <i>Một thời yêu dấu đã qua.</i> Giờ đây gót hồng
(gót sen/đơi chân hồng trần củaTh Kiều) mong mỏi được quay về. Từ khúc <i>hoài cảm</i> ở


trên giờ hợp lại trở thành khúc <i>hoài hương</i> (nostalgia) trối trăng rằng: <i>dù trần gian có xót</i>
<i>xa cũng đành về với quê nhà. </i>


<i>(Con sóng biển dâu đã mang tình về q quán cũ) </i>


[Nhạc...]


<b>Chương IV</b>



<i>(Nhạc chuyển... ) Rộng rãi, Dồn dập vừa, Mênh mơng </i>
<i>Tình đi, người ở lại -- (Ðoạn cuối) </i>


<i>Êm đềm, xa vắng </i>


Khúc 1:


<i>“Từ đó trong vườn khuya, ôi áo xưa em là một chút mây phù du, đã thoáng qua đời </i>
<i>ta...”. </i>


Khúc bi ca (elegy) u huyền này bằng thể thơ tự sự năm chữ, là tiếng thở dài mênh mang
khi tình đã đi, người ở lại. Có thể diễn tả lại bằng lời thơ trong <i>Lửa Thiêng: </i>


<i>Bóng đêm toả khơng lấp niềm thương nhớ, </i>
<i>Tình đi mau, - sầu ở lại lâu dài. </i>


<i>Ta đã để hồn tan trong tiếng thở </i>
<i>Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Từ cảnh vườn đêm hội ngộ có ánh trăng vàng mạc khải của chương I tới cảnh vườn
khuya cô tịch trong chương cuối này, là nỗi thấu cảm tính phù du của chữ tình, của vẻ


đẹp mong manh là hình ảnh chính cái chết. <i>Từ đó trong hồn ta, ôi tiếng chuông não </i>
<i>nề...</i>Nỗi tuyệt vọng mênh mang, nhịp tim xao động trong lịng là tiếng chng não nề
văng vẳng như tiếng chuông cầu hồn. Tiếng <i>ngựa hí vang rừng xa vọng suốt đất trời kia,</i>


mang tính ẩn dụ đầy âm-hình (audio-visual) loan báo cho giờ phút khởi hành chuyến xe
cuối cùng của đời người. <i>Từ đó ta ngồi mê, để thấy trên đường xa, một chuyến xe tựa </i>
<i>như, vừa đến nơi chia lìa. </i>


<i>(Tình do tâm mà sinh, có khi tình mất mà tâm cịn động vọng. Ðến lúc tâm bình an thì </i>
<i>tình kia cũng đoạn nỗi). </i>


<i>[Nhạc] Mạnh và liền nhau, Êm dịu lại </i>


Khúc 2:


<i>“Từ đó ta nằm đau, ôi núi cũng như đèo, một chút vô thường theo...”</i>


Bài tự tình khúc cuối này như bức tranh thuỷ mặc của cõi tâm bao la vơ cùng. Từ đó... từ
chốn vơ thuỷ vơ chung để mà chiêm nghiệm tồn cảnh lộ trình đã qua của người nghệ sĩ
– kẻ hành hương -- giờ nằm đau dạt dào bi cảm trước cái như tính của vẻ đẹp, của sự vật;
chẳng cịn biện biệt nữa khơng gian <i>(ơi núi cũng như đèo) </i>với thời gian <i>(từng phút cao </i>
<i>giờ sâu)</i> để rồi nhập vào với trạng thái tịnh mặc (samadhi) ngay trong nỗi đau – [ở một
nghĩa nào đó] là đang trải qua kinh nghiệm về cái chết. Ði vào cõi chết như một âm điệu
ngân vang rồi <i>cũng sẽ chìm trơi </i>vào với cái tịch lặng: cõi đi về thiết yếu của âm nhạc, của
chính đời người.


<i>Từ đó</i> -- tình u là hoa nở hồng ban sớm nở hết trong hồng hơn, vẫn cịn mãi khát
mong, lại phải nhờ tới ngọn gió vơ thường thổi qua để tiếp tục hoá thân thành sương tinh
khiết rụng mát trong bình minh.



<i>Vườn khuya đố hoa nào mới nở, </i>
<i>Ðời ta có ai vừa qua... </i>


(Ðêm thấy ta là thác đổ)


<i>Từ đó ta là đêm, nở đố hoa vơ thường. </i>


<i>Từ đó --</i> người đi hành hương nhập thể vào với bóng đêm vơ tận (là cõi chân khơng) để
nở ra <i>đóa hoa vơ thường:</i> người chiêm ngắm [đoá hoa] đã trở thành cái [đố hoa] mà
mình chiêm ngắm. Vẻ đẹp của đố hoa vơ thường là nở ra <i>nụ cười khúc khích trên lưng</i>


đài gương của cái dục mang hương sắc hoa tình của cái chết.


<i>Từ đó</i> -- đố hoa là biểu hiện rõ nhất về sự vô thường: hiện, hiển và biến:


<i>Mùa mưa tới cành hoa trắng ngần </i>
<i>Ðã ra đời đùa vui phút giây </i>
<i>Sau một lần đến bên người </i>


<i>Khép lại tấm lịng nghìn năm nhớ ai... </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Từ đó</i> -- đố hoa ấy đã khép lại những cánh mong manh trước cả lúc trăng tàn nguyệt tận.


<i>Từ đó -- </i>


<i>Chìm dưới sương thu là một đố thơm tho.</i>


(Chìm dưới cơn mưa)


Nhưng <i>từ đó</i>, để kết tinh nên một đoá mong manh, thơm tho ấy dâng cho đời, đã là sự


cưu mang và hi hữu kể từ <i>trăm năm trong cõi người ta... </i>


<i>(Nhạc để chấm dứt...) </i>


<i><b>Khúc kết </b></i>



<i>Những phương trời gió loạn nào đã đi qua, </i>
<i>Cịn lại đố hoa vơ thường </i>


<i>Phất phơ giữa tuế nguyệt không thời.</i>
<b>Hà Vũ Trọng</b>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×