Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

bài dự thi tham gia giải lê quý đôn trên báo kqđ thứ ba ngày 13 tháng 10 năm 2009 bài dự thi tham gia giải lê quý đôn trên báo kqđ lần thứ 11 năm học 2009 2010 đề thi kỳ 2 môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.45 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Thứ ba , ngày 13 tháng 10 năm 2009


<b>Bài dự thi tham gia giải Lê Quý Đôn trên báo KQĐ</b>
<b>Lần thứ 11- Năm học 2009-2010</b>


<b>Đề thi kỳ 2: MÔN VĂN</b>


Đề bài: Phân tích hoàn cảnh và tâm trạng Thúy Kiều trong những câu thơ sau:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân


[cho đến] Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
<b>BÀI LÀM</b>


Sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh-vốn là “một đứa phong tình đã quen”- và bị Tú
bà ép vào con đường “buôn phấn bán hương’, Kiều đã tự tử nhưng không chết. Biết tính
tình nàng khảng khái , cứng rắn, Tú Bà đã cho nhốt Kiều ở lầu Ngưng Bích,đợi dịp thuận
lợi sẽ dễ bề trở tay. Đoạn trích <i>Kiều ở lầu Ngưng Bích đã nói lên cảnh cô đơn tột cùng</i>
của Thúy Kiều trong cảnh đất khách quê người và tưởng nhớ gia đình và người thân của
cô, được thể hiện trong mười bốn câu thơ đầu bài.


Qua con mắt lạ lẫm và cũng không cũng kém phần đau khổ của Thúy Kiều, bức
tranh thể hiện hình ảnh lầu Ngưng Bích hiện ra trước mắt cô:


“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
<i><b>Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung</b></i>
<i><b> Bốn bề bát ngát xa trông</b></i>


<i><b>Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”</b></i>


Câu thơ đầu tiên dường như đã tiết lộ tất cả hoàn cảnh của Thúy Kiều, một cô gái
thân phận con nhà trung lưu vừa đủ tuổi cập kê đành phải chôn dấu sắc xuân tuyệt thế


giai nhân “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” tại nơi lầu Ngưng Bích vắng lặng,
buồn tẻ. Và với bản chất trong sạch của mình, Kiều minh chứng ngay : Nàng bị nhốt ở
một chiếc lầu cao trơ trọi, lơ lửng giữa trời, nơi mà núi ngang tầm mắt và trăng treo lơ
lửng trên đầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

rình rập phía trước của nàng như nhỏ đi và chìm hẳn. Và cô thấy gì? Đó là những cồn cát
vàng nối tiếp cồn cát khác, cuốn lên những bụi hồng bay đi rất xa như khơng có điểm
dừng. Ơi! Cảnh thiên nhiên sao thi vị nhưng cũng vắng lặng và buồn tẻ cách ghê rợn đến
thế! Kiều nghĩ rằng, thân phận mình cũng như những hạt cát hồng bay vô định giữa một
“bụi hồng”-tức cuộc đời- buồn tẻ, chán ngán.


“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
<i><b>Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”</b></i>


Qua hai câu thơ tiếp theo, ta thấy nỗi nhớ thương tràn ngập trong lòng Kiều càng
lún sâu vào lớp bùn buồn tủi đến bẽ bàng. Nó bẽ bàng đến độ choán lấy Kiều trong mọi
thời điểm, từ lúc nàng ngắm nhìn <i>mây sớm cho đến lúc ngồi dưới ngọn đèn khuya. Nói</i>
theo phương ngôn ngày nay, sự bẽ bàng ấy đã bám theo nàng suốt 24/24, khiến cho
quãng thời gian của một ngày trôi qua, đối với nàng là một cực hình. Thiên tài của nhà
thơ Nguyễn Du đã được đánh bật ở đây, khi ông chỉ dùng một vài nét chấm phá mà đã
dựng nên được cảnh thiên nhiên rộng lớn mở ra trước ống nhìn tuyệt vọng của nàng, làm
rõ ràng thêm tâm trạng “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” của cô. Trong cảm xúc
tuyệt vọng ấy, Kiều dùng chút sức gắng gượng nhớ về người thân của nàng. Nỗi nhớ ấy
được chia đều cho hai đối tượng: Kim Trọng và gia đình của nàng trong tám câu thơ. Và
những lời độc thoại chứa chan tình cảm ấy của nàng đã nói lên được tất cả tính cách của
nàng.


“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
<i><b>Tin sương luống những rày trông mai chờ</b></i>
<i><b> Bốn bề góc bể bơ vơ</b></i>



<i><b>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”</b></i>


Lời thơ ở đây của nàng như là lời của một con tim đang đẫm máu vì nỗi nhung
nhớ người yêu còn đang dang dở. Đừng vội thấy nàng nhớ người yêu trước mà vội quy
nàng vào loại bỏ lơ chữ “hiếu” nhé, vì nàng cũng đã yên tâm về trách nhiệm của một
người con khi nàng dấn thân bán mình chuộc cha. Trong tình cảnh này,ta mới thấy thấm
thía bao nhiêu hình ảnh mà Nguyễn Du đã từng gợi : “<i>Lạ gì bỉ sắc tư phong / Trời xanh</i>
<i>quen thói má hồng đánh ghen</i>” hay qua những trải nghiệm của Thúy Kiều: “Đau đớn
<i>thay phận đàn bà / Dẫu rằng bạc mệnh cũng là lời chung”</i>. Chén rượu thề nguyền ngày
nào vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời còn đó để chứng giám cho mối
duyên thắm đầy mật ngọt,thế mà mỗi người trong cặp đôi đã phải đi mỗi người mỗi ngả.
Nàng Kiều giàu lòng vị tha đã không nghĩ cho riêng mình, mà lại đặt mình vào tình cảnh
chàng Kim, sẽ bối rối và tuyệt vọng chờ đợi nàng nhiều đến chừng nào! Đó cũng là điều
dễ hiểu, vì về phần nàng, những tâm trạng của nàng còn mãnh liệt và trao dâng nhiều hơn
thế: Càng tiếc nuối mối tình đầu trong trắng, nàng càng thấm thía tình cảnh bơ vơ, không
điểm tựa –vốn luôn là bi kịch của những thiếu nữ đang yêu-của mình. Câu thơ “<i>Tấm son</i>
<i>gột rửa bao giờ cho phai có thể được hiểu theo hai cách: một cách ý nói tấm son chung</i>
tình của nàng sẽ không bao giờ phai mờ được với chàng Kim Trọng, cách thứ hai như
muốn tố cáo gián tiếp xã hội thối nát bất nhân được thể hiện qua những con người buôn
người như “buôn hương bán phấn”, được thể hiện rõ qua tấm son ô nhục không thể chà
rửa được của nàng. Nhưng,dù có hiểu theo cách nào đi chăng nữa,thì trong thâm tâm
chúng ta vẫn thấy rằng: nỗi nhớ của Thúy Kiều thật sâu sắc và tình cảnh của nàng thì vô
cùng đáng thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b> Sân Lai cách mấy nắng mưa</b></i>
<i><b>Có khi gốc tử đã vừa người ôm”</b></i>


Có nhớ Kim Trọng đến mức nào đi chăng nữa, nàng Thúy Kiều bất hạnh của
chúng ta vẫn không thể nào nguôi ngoai được nỗi nhớ gia đình rất mực ấm êm của cô. Và


sự thực là, việc nhớ tới người yêu rồi chuyển sang nhớ gia đình đã làm tăng tiến thêm
một bậc về tấm lòng đa sầu đa cảm của Thúy Kiều. Với hình ảnh “<i>Xót người tựa cửa</i>
<i>hôm mai”, ta cảm nhận được nhịp đập của con tim nàng Kiều rên lên một tiếng rất mực</i>
thảm thương trong khi ruột gan đang cháy bỏng ,xót xa cho gia đình. Hình ảnh cha me
nàng càng mờ nhạt như chiếc đèn báo bão trong cơn mưa lớn thì tiếng nói của lương
tâm,của bổn phận càng thôi thúc nàng nhiều hơn nữa. Rồi đây ai sẽ quạt cho cha me nàng
trong những ngày hè nực nội, rồi đây ai sẽ tự tay ấp chăn màn cho hai thân của nàng để
giấc ngủ của họ mơ về con gái mình ở phương xa mà họ luôn tựa cửa trông ngóng thêm
phần yên bình? Nhưng nỗi nhớ của nàng Kiều càng thêm bâng khuâng và man mác phần
nhiều vì công ơn của cha me nàng quá sâu nặng đến nỗi đã làm nàng liên tưởng đến điển
tích cụ Lai Tử trong <i>Hiếu tử truyện. Có lẽ, nỗi buốn của nàng Kiều cũng mang tính ước</i>
lệ như khi thi sĩ Nguyễn Du tả sắc đep của nàng , hay nói đúng hơn là một sự định đoán:
<i>có khi, những ai… đau đáu.</i>


Xót thương cha me, tưởng nhớ người yêu, Kiều là một con người hiếu tình trọn
ven. Những câu thơ có nhạc lại có họa, vẽ ra trước mắt ta một trời biển chiều hôm lại tấu
lên một giai điệu sâu lắng của lòng người ấy là tiếng than thở mà nàng Kiều cũng như
Nguyễn Du muốn gửi đến mọi người qua đoạn trích, bằng bút pháp <i>tả cảnh ngụ tình, tình</i>
<i>ngụ trong cảnh sống động. Bài ca về sự bất công của xã hội phong kiến, tấm chung tình</i>
của những người con gái thời xưa cũng như những câu chuyện mang nặng triết lý ở đời,
sẽ mãi nằm trong những vần thơ của những tác gia mà mười bốn câu thơ đầu của đoạn
trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một ví dụ:


“ Trăm năm trong cõi người ta
<i>Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau</i>
<i> Trải qua một cuộc bể dâu</i>


</div>

<!--links-->

×