Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Luận văn tốt nghiệp Pháp luật về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.2 KB, 21 trang )

Pháp luật về bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Thị Bình
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TSKH Đào Trí Úc
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền con người và nghiên cứu những đặc trưng của
quyền con người trong xét xử hình sự. Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật bảo
đảm quyền con người trong xét xử hình sự. Xác định phương hướng, đề xuất những nội
dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con người trong xét xử
hình sự.
Keywords: Quyền con người; Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Lịch sử nhà nước và
pháp luật
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và cũng ln ln là
khát vọng của tồn thể nhân loại. Quyền con người được sinh ra và đồng thời cũng phải bảo đảm
thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho nên, nó khơng chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế
mà còn là chế định pháp lý cơ bản trong pháp luật của các quốc gia. Quyền con người là một
trong những giá trị nhân bản cao nhất mà các quốc gia trên thế giới đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ
quyền con người cũng là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia.
Mỗi quốc gia đều xây dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc gia của mình dựa trên các
điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để bảo đảm
các quyền con người được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. Hệ thống pháp luật này
phải phù hợp với các nguyên tắc, nội dung cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương
Liên Hiệp Quốc.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời, quyền con người được chính thức tuyên bố và ghi nhận bằng pháp. Quá trình phát triển


của cách mạng Việt Nam, với những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang, xét cho cùng cũng chỉ là
vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội mà cốt lõi của nó là bảo đảm thực hiện quyền con người.


Phản ánh các q trình phát triển đó, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đến Hiến pháp 1992 đều thể
chế hoá quyền con người, từng bước mở rộng quyền con người. Trên cơ sở đó, hệ thống chính
sách pháp luật bảo đảm quyền con người ngày càng được củng cố hồn thiện.
Trong q trình xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước ta đã chuyển hoá
nhiều nội dung về quyền con người trong các tuyên bố, công ước quốc tế mà Nhà nước ta tham
gia phê chuẩn, ký kết. Bên cạnh các hoạt động "lập pháp" đó, Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách, biện pháp và hoạt động thực tế bảo đảm thực hiện quyền con người. Các cơ quan bảo vệ
pháp luật không ngừng được củng cố, phát triển, xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tạo cho
mọi người có mơi trường tự do, bình đẳng để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo
vệ con người khỏi các hành vi xâm hại.
Song, quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo đảm thực hiện nó
khơng phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con người mà còn phải thực thi nhiều biện pháp
đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành, mọi người tham gia. Trong đó, Tồ án có vị trí, vai trị đặc
biệt quan trọng. Bởi vì, một trong những nhiệm vụ cơ bản trong xét xử của Tồ án chính là hoạt
động trực tiếp bảo vệ quyền con người đối với bên bị hại và cả bên bị cáo - là những người mà
quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại. Nhiều năm qua, theo quy định của pháp luật,
Toà án đã tích cực tham gia đấu tranh phịng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Song, trong xét xử vẫn
cịn oan sai; quyền con người của bị cáo có lúc có nơi chưa được tơn trọng cịn bị vi phạm, chưa
có biện pháp bảo đảm hữu hiệu. Điều đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật có tác động đáng kể.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân đặt ra nhiệm vụ cấp bách - phải hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý, bảo đảm quyền con người nhất là pháp luật trong lĩnh vực xét xử hình sự của Tồ án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Quyền con người được các tổ chức Quốc tế, các nước trên thế giới nói chung, Việt Nam

nói riêng quan tâm nghiên cứu.
Ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học về quyền
con người, quyền công dân. Nổi bật trong các cơng trình này là hai tập chun khảo "quyền con
người, quyền cơng dân" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993. Đi
sâu nghiên cứu tìm hiểu để đề ra các phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm "xây dựng và hoàn
thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay" là
luận án PTS của thầy giáo Nguyễn Văn Mạnh. Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn cuốn sách "Một số vấn đề về quyền dân sự
và chính trị", xuất bản năm 1997. PGS. TS Trần Ngọc Đường có một số bài viết về quyền con
người, trong đó có bài "Hành vi hợp pháp - nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền
và nghĩa vụ công dân" in trong tập 1 chuyên khảo "quyền con người, quyền công dân". Tạp chí
cộng sản tháng 5-1993 có đăng bài "Quyền con người và quyền công dân" của PGS. TS (hiện
nay là Giáo sư, Tiến sỹ) Hoàng Văn Hảo và Chu Thành. PTS (nay là Tiến sỹ) Lê Minh Thông


viết bài "Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta
hiện nay" trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 12-1998. Tác giả Nguyễn Văn Hiện có bài
"Tồ án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức" - Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, tháng 8-1999.
Các cơng trình khoa học, bài viết này hoặc là tổng quát, hoặc đi sâu nghiên cứu, phân
tích, luận giải một số nội dung về quyền con người, các biện pháp bảo đảm quyền con người, vấn
đề bảo vệ quyền con người...
Tiến sĩ Phạm Hồng Hải có biên soạn cuốn sách Đảm bảo quyền bào chữa của người bị
buộc tội, xuất bản năm 1999 và bài Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
ở nước ta (tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3 năm 1998) nêu lên một số vấn đề về vi phạm
quyền con người từ phía cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can, bị cáo và từ phía các phần tử
xấu đối với những người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, có hệ thống quy định của pháp
luật nước ta hiện nay về bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn

* Đối tƣợng: Đề tài tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện
quyền con người trong tư pháp hình sự.
* Phạm vi: Đề tài chỉ nghiên cứu về pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con người đối
với bị cáo bị truy tố trước Tồ mà khơng đi sâu phân tích về pháp luật bảo đảm quyền con người
đối với các đối tượng khác trong các vụ án dân sự, kinh tế, hơn nhân, gia đình ... cũng như các
bên khác tiến hành hoặc tham gia tố tụng hình sự.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
* Mục đích: Đưa ra các nội dung hồn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong
xét xử hình sự.
* Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền con người và nghiên cứu những đặc trưng của quyền con
người trong xét xử hình sự.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử hình
sự.
- Xác định phương hướng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm
thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phân tích - tổng hợp, khảo sát, so sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:


Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người, đặc biệt là quyền con
người trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, nội
dung hoàn thiện pháp luật trong xét xử hình sự.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.


CHƢƠNG I
QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI
1.1. Khái lƣợc quyền con ngƣời và vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo quyền con
ngƣời
1.1.1 Khái niệm quyền con ngƣời
Mặc dù "quyền con người" mãi sau này (thế kỷ 18) mới được khẳng định, nhưng những ý
tưởng về nó lại ra đời rất sớm cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước.
Khi mà trong các Nhà nước chiếm hữu nô lệ, con người bị coi là những "cơng cụ biết nói" thì những
tiếng kêu cứu địi quyền được sống, được tự do, được quyền làm người ... cũng xuất hiện.
Quyền con người, ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là "đặc quyền". Cho
nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thơ bạo trong các Nhà nước cổ đại thì đã có
những cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ khai đó. Do có
những cuộc đấu tranh "làm cho cơng lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh không làm hại kẻ yếu"
mà đã xác lập nên Bộ luật Hamurabi. Mặc dù cịn nhiều hạn chế: là cơng cụ phục vụ mục đích
thống trị, song Bộ luật đó đã nêu lên được tư tưởng về bình đẳng, dân chủ, pháp luật hoá tư
tưởng về quyền con người.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là vấn đề rộng
lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên cứu, do đó có nhiều quan điểm, định
nghĩa khác nhau về quyền con người. Song, trước hết, quyền con người được hiểu là những đặc
quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật
là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù, những đặc quyền đó có trước,
song chừng nào chưa được cơng nhận thì chúng khơng thể được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt


tới cái gọi là quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể là bằng pháp luật. Các đặc quyền được
pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính thức trở thành quyền của con người.
Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật
đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ của mình với các cá nhân khác và với
chính quyền.

Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được xã hội thừa nhận và
bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người mang hai đặc tính cơ bản là tính nhân
đạo và tính pháp luật. "Quyền con người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có nội dung xã hội,
bị chế ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà nước" [32,57] và được "mở
rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã hội loài người" [49,21].
Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá nhân con người, nhưng
quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó với các con người khác trong tập thể, cộng
đồng. Hay nói cách khác quyền con người trở nên vô nghĩa khi con người tách khỏi tập thể,
cộng đồng và ở trong tập thể, cộng đồng nên quyền của cá nhân con người không thể tách rời
nghĩa vụ của họ đối với xã hội, Nhà nước. Vì rằng:"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [19,11].
Quyền con người là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Trong bầu trời khơng gì quý bằng nhân dân" [48,276]. Nhân dân là những con người cụ thể có
những quyền thiêng liêng, khơng ai có thể xâm phạm được.
1.1.2 Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo quyền con ngƣời
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động qua lại lẫn
nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người có tính "bẩm sinh" nhưng nó khơng thể
chính thức tồn tại nếu khơng có pháp luật. Trước hết, vai trò quan trọng của pháp luật đối với
quyền con người là nó ghi nhận (xác lập), củng cố, hoàn thiện quyền con người.
Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận. Thông qua pháp luật,
quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm quyền con người, pháp luật đưa ra những
điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm
quyền con người. Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng liêng, không thể xâm hại
một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của xã
hội, Nhà nước. Quyền con người được pháp luật xác lập mang tính tối cao, ổn định khơng dễ
dàng thay đổi. Điều 50 Hiến pháp 1992 khẳng định: quyền con người được quy định trong Hiến
pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tơn trọng,
phục tùng.
Theo tiến trình phát triển của lịch sử loài người, trên phương diện pháp luật, quyền con
người ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Từ chỗ các ý tưởng về quyền được sống như một con

người nhằm thốt khỏi "cơng cụ biết nói", tư tưởng về quyền con người dần phát triển lên thành
những học thuyết, thành các bộ luật riêng lẻ và trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng quốc
tế, khơng phân biệt màu da, địa vị, thành phần. Nhờ có pháp luật mà quyền con người trở thành
giá trị chung của nhân loại, được lồi người cùng nhau tơn trọng, bảo vệ. "Chỉ thông qua pháp


luật quyền con người mới trở thành ý chí và mục tiêu hành động chung của tồn xã hội, có tính
bắt buộc chung đối với tồn xã hội" [49,47].
1.2. Đặc trƣng quyền con ngƣời của bị can, bị cáo trong tƣ pháp hình sự.
Quyền con người khơng những được pháp luật ghi nhận mà còn được pháp luật bảo vệ.
Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền con người nào cũng phải được xử lý theo pháp luật.
Song, tất nhiên quyền con người cịn có quan hệ chặt chẽ với chủ quyền quốc gia, lợi ích của
Nhà nước, của các tổ chức, trật tự xã hội... là những khách thể được pháp luật nói chung và luật
hình sự nói riêng bảo vệ. Cho nên, những khách thể trên bị xâm hại do bất cứ ai thì người đó
phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền con người của bị cáo chỉ có thể được coi là bảo
đảm khi xét trong một tổng thể các mối quan hệ khác liên quan đến tội phạm do họ thực hiện.
Như vậy, việc xử lý đối với họ buộc phải tuân thủ những trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ
trong pháp luật, vì dẫu sao, quyền con người của họ vẫn phải được tôn trọng.
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 ở ngay chương I, Điều 11 với tên gọi “Bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo
quy định của Bộ luật này”. Bộ luật tố tụng hình sự có định nghĩa “bị can là người đã bị khởi tố
về hình sự” (theo khoản 1, Điều 49) và “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”
(khoản 1, Điều 50).
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN
CON NGƢỜI TRONG TƢ PHÁP HÌNH SỰ
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Để bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo, pháp luật đưa ra một loạt các quy định

buộc các bên tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân thủ. Pháp luật bảo đảm quyền con người
trong tư pháp hình sự là tổng thể các qui phạm pháp luật qui định về tội phạm, hình phạt và xét
xử hình sự cùng các quy định khác nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo và các bên có liên quan không bị xâm hại trái pháp luật.
Như vậy, việc bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự phải được thể hiện trên tất cả
các phương diện vừa nêu. Nó khơng dừng lại ở việc qui định tội phạm, hình phạt mà cịn qui định việc
xét xử các vụ án hình sự. Có nghĩa là nó phải được bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập pháp và áp dụng
pháp luật, ở cả trong luật nội dung và luật hình thức. Ở đó, quyền, nghĩa vụ của các bên tiến hành và
tham gia tố tụng được khẳng định, sự thật của vụ án và trách nhiệm hình sự phải được xác định một
cách khách quan, chính xác nhất. Ở đó, quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại phải được khôi phục lại,
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do họ gây ra.
2.1. Quy định của Hiến Pháp về bảo đảm quyền con ngƣời đối với ngƣời phạm tội


Ngày 24/9/1982, Việt Nam gia nhập hai Công ước quốc tế về quyền con người, đó là: Cơng ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và, Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hoá. Đây là một quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Gia nhập hai công ước
quốc tế này, “Nhà nước Việt Nam thừa nhận các giá trị cao quý của các quyền và tự do cơ bản
của con người”1. Đồng thời, chúng ta từng bước nội luật hóa các quy phạm pháp luật của hai
Cơng ước vào hệ thống pháp luật của mình. Sau Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 ra đời và
khẳng định: “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hố và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và pháp luật” (Điều 50). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nền lập hiến Việt Nam,
cụm từ “quyền con người” được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Từ quy định này của đạo
luật gốc, nhiều bộ luật, luật lần lượt ra đời điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng và ngày
càng củng cố, mở rộng quyền con người, quyền công dân. Đây là một bước phát triển tất yếu,
bởi vì quyền con người, quyền cơng dân sẽ khơng tồn tại trong thực tế nếu nó khơng được điều
chỉnh bởi pháp luật. Hơn thế, Hiến pháp Việt Nam nhấn mạnh rằng, quyền con người, quyền
công dân được các văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ghi nhận cũng có nghĩa là các quyền đó
được bảo đảm bởi sức mạnh tối cao của pháp luật với các thiết chế của nó.

Một nội dung vơ cùng quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân nhưng
chưa được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước đây, thì nay, Hiến pháp 1992, quy định:
“ Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã
có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố,
xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh” (Điều72).
2.2. Bảo đảm quyền con ngƣời đối với ngƣời phạm tội thông qua các quy định về tội phạm
và hình phạt
2.2.1. Quy định trách nhiệm hình sự
Với phương châm " biết để khơng thực hiện" và "phòng tội hơn trị tội", cho nên pháp luật
hình sự, một mặt liệt kê cụ thể, rõ ràng những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị cấm, mặt khác
đưa ra các quy định buộc mọi người phải tuyệt đối tuân thủ. Theo nghĩa đó, Điều 2 Bộ luật hình
sự quy định" chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự". Đây là cơ sở thống nhất, duy nhất của trách nhiệm hình sự. Nó khẳng định "chủ
thể của một hành vi tội phạm chỉ có thể là một thể nhân cụ thể - tức là một cá nhân chứ không
phải là một tập thể hay một kiểu cộng đồng nào" [67,4]. Nếu ai đó (bị cáo) đã phải chịu trách
nhiệm hình sự thì ít nhiều, quyền con người, quyền công dân của họ cũng phải bị hạn chế. Cho
nên, ở đây pháp luật quy định là: trách nhiệm hình sự chỉ được đưa ra áp dụng đối với người
phạm tội, tức là khi mà người đó thực hiện hành vi vi phạm điều mà pháp luật hình sự cấm, hay
nói cách khác một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự bởi những hậu quả do hành vi của
1

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người. Các văn kiện quốc tế về quyền
con người. Nxb. Chính trị quốc gia. H, 1998, tr. 7.


chính người đó gây ra. Ngồi việc vi phạm điều cấm của pháp luật hình sự - phạm tội ra, thì bất
luận trong trường hợp nào, trách nhiệm hình sự cũng không thể được đưa ra áp dụng. Không
những thế, chỉ có những dấu hiệu của hành vi được mơ tả trong luật mới là cơ sở cho việc giải

quyết trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công
dân, là sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự
quy định, tức là đối với tội phạm. Hành vi có thể được coi là tội phạm nếu có các yếu tố của một
cấu thành tội phạm và được luật hình sự quy định.
2.2.2. Quy định phân loại tội phạm
Việc đặt ra các quy phạm pháp luật hình sự khơng phải là để trừng phạt mà các quy phạm
này "có khả năng tác động lên ý thức và ý chí của cá nhân, một mặt chúng kích thích các hoạt
động hợp pháp, khuyến khích các hành vi tích cực pháp luật; mặt khác lại có tác động kìm chế,
đe doạ các động cơ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân" [21,204]. Do vậy, việc
quy định tất cả mọi tội phạm trong một Bộ luật hình sự là quan trọng, nhưng quan trọng hơn đối
với việc quy định tội phạm là xác định rõ ràng giới hạn giữa hành vi bị coi là tội phạm với các
hành vi vi phạm pháp luật khác. Bởi vì, nếu khơng xác định cụ thể giới hạn đó thì có hành vi tuy
chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ngược
lại, có trường hợp phạm tội lại coi là vi phạm pháp luật khác. Điều đó vi phạm nguyên tắc công
bằng - là nguyên tắc quan trọng được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định được rằng, tội phạm xuất phát từ những hành vi (hành động
hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì theo Mác "Chỉ theo mức độ tơi tự biểu hiện
ra, theo mức độ tôi bước vào lĩnh vực thực tế, thì tơi mới bước vào phạm vi nằm dưới quyền lực
của nhà lập pháp. Ngoài những hành vi của mình ra, tơi hồn tồn khơng tồn tại đối với pháp
luật, hồn tồn khơng phải là đối tượng của nó. Những hành vi của tơi đó là lĩnh vực duy nhất
trong đó tơi đụng chạm tới pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tơi đòi quyền tồn
tại, quyền hiện thực, và như vậy là do nó mà tơi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành" [42,
513]. Do đó, các yếu tố khác như: thái độ, ý định, âm mưu, quan điểm của con người khi chưa
được thể hiện trong thực tế bằng hành vi thì khơng thể coi là tội phạm được. Cịn tính nguy hiểm
cho xã hội là dấu hiệu vật chất tổng hợp của mọi hành vi trái pháp luật. Việc phân biệt tội phạm
với các vi phạm pháp luật khác dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi, từ đó đưa
tới các phản ứng khác nhau của Nhà nước đối với từng loại vi phạm pháp luật - pháp luật hình sự
xác định chính xác giới hạn của hành vi phạm tội và hành vi không phạm tội và được khẳng định
tại Điều 8 BLHS "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc

lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hố, quốc phịng, an ninh trật tự, an tồn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của pháp luật xã hội chủ nghĩa ....
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
khơng đáng kể, thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác".


2.2.3. Quy định hình phạt, mục đích hình phạt, áp dụng hình phạt
Xuất phát từ nhu cầu tơn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
các tổ chức ... mà Nhà nước đề ra Pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng. Và để thực hiện
pháp luật, Nhà nước dùng hai biện pháp chính là giáo dục thuyết phục và cưỡng chế. Trong đó
giáo dục thuyết phục là cơng việc quan trọng hàng đầu. Song pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình
sự khơng thể mất đi tính cưỡng chế của nó. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế. Nói đến nó nhiều
người nghĩ ngay đến các biện pháp trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước. Song hình phạt được
đặt ra, trước hết là để phịng ngừa, răn đe và sau đó mới là cơ sở để Toà án cân nhắc trách nhiệm
hình sự đối với ai cố tình vi phạm những điều được pháp luật tuyên bố bảo vệ. Đến lượt nó, bản
thân hình phạt cũng phải bảo đảm nhân đạo, công bằng. Mác khẳng định "cả lịch sử lẫn lý trí đều
xác nhận như nhau cái sự thật là: sự tàn nhẫn không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác biệt nào làm cho
sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vơ hiệu, bởi vì sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là
kết quả của pháp luật" [42, 179].
" Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" (Điều 8 BLHS). Hình phạt chỉ do Bộ luật hình sự quy
định.
Như vậy, hình phạt là phản ứng của Nhà nước, đồng thời cũng là sự lên án của xã hội đối với
người phạm tội. Tính tất yếu, tính khơng thốt khỏi trách nhiệm của người phạm tội không thể gây ra
một sự nghi ngờ nào về bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân. Điều này cũng có nghĩa là người
phạm tội chịu hình phạt phải bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của mình. Để bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân, địi hỏi ở đây là: biện pháp hình phạt phải được quy định tương xứng với tính
chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội "Sự đo lường trách nhiệm đối với tội phạm được

và cần phải dựa trên nguyên tắc công bằng và hợp lý" [45,182] "Điều đó đặt ra những địi hỏi rất cao
đối với hoạt động lập pháp khi quy định các biện pháp trách nhiệm (hình phạt)" [73,101].
Thực tiễn cho thấy rằng, việc quy định và đặc biệt là áp dụng các biện pháp hình phạt
tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội gặp khơng ít khó khăn. Do đó, việc
lập pháp chưa bao giờ được coi là hoàn thiện. Đồng thời trong xét xử, số lượng các vụ án bị cải
sửa theo cả hai hướng tăng và giảm mức hình phạt đối với các bị cáo còn nhiều.
2.3 Bảo đảm quyền con ngƣời đối với bị can, bị cáo thông qua các quy định của tố tụng
hình sự
2.3.1. Quyền của bị cáo khi tham gia tố tụng (xét xử)
Nhằm tôn trọng thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, phê chuẩn, Việt Nam không
ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật của mình mà điểm nổi bật trong đó là xây dựng các qui
định bảo đảm cho quyền con người, quyền công dân của người phạm tội không bị xâm hại trái
pháp luật.
Đối với quá trình xét xử, pháp luật có các qui định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo. Các ngun tắc xét xử nêu trên khơng nằm ngồi mục đích đó. Bên cạnh đó,
pháp luật cịn ghi nhận các quyền cụ thể của bị cáo và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện.


Qua việc phân tích các nguyên tắc xét xử, thấy rằng, thực chất đó là những qui định nhằm
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bởi lẽ, các ngun tắc đó là nghĩa vụ của Tồ án
cho nên tự nó cũng đã hàm chứa quyền của bị cáo. Các quyền đó có thể khái quát chung lại như
là quyền được bảo vệ và xét xử công bằng của bị cáo.
Ngồi việc có các quyền được pháp luật qui định đối với mọi cơng dân nói chung, trong
q trình tham gia tố tụng (xét xử), bị cáo cịn có một số quyền như sau:
2.3.1.1. Quyền đƣợc coi là vơ tội khi chƣa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực
pháp luật.
2.3.1.2. Quyền đƣợc đƣa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục đƣợc pháp luật qui định
2.3.1.3. Quyền đƣợc giao nhận quyết định đƣa vụ án ra xét xử
2.3.1.4. Quyền đƣợc tham gia phiên toà
2.3.1.5. Quyền đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng

2.3.1.6. Quyền đƣa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị, bào chữa
2.3.1.7. Quyền đƣợc nói lời sau cùng
2.3.1.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm
2.3.2 Một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực trạng áp dụng các quy
định này.
Tố tụng hình sự là một ngành luật có ảnh hưởng vơ cùng sâu sắc đến quyền con người.
Bởi vì lĩnh vực tố tụng hình sự rất nhạy cảm với khả năng xâm phạm đến quyền con người.
Trong tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng được phép áp dụng các biện pháp cưỡng
chế như bắt người, tạm giữ, tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do về thân thể của con
người. khi đưa ra các quy định của pháp lụt tố tụng hình sự, các nhà làm luật cũng phải tính đến
việc quy định có ảnh hưởng đến các quyền của con người khơng, có làm phương hại đến các
quyền xã hội của con người và cộng địng xã hội hay khơng. Tuy nhiên, các nhà làm luật cũng
tính đến giới hạn các quyền đó đến đâu và cơ chế để bảo vệ các quyền đó khi bị xâm hại. Ví dụ,
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định một số biện pháp cưỡng chế như: khám xét, kê biên tài sản…
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do về nơi chốn, chỗ ở; hay một số các quyết định như khởi tố
bị can, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định thi hành án… ảnh hưởng đến quyền công dân
của con người. Cũng nhân thấy rằng, hiện nay vẫn còn một số nội dung về Luật Tố tụng hình sự
vẫn chưa được thể hiện cụ thể và rõ ràng, nên cần tiếp tục nghiên cứu.

CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
3.1. Quan điểm chung về phƣơng hƣớng hoàn thiện
3.1.1. Bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Đảng, Nhà nƣớc ta.


Quyền con người với các quy định cụ thể ở quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã
được khẳng định một cách trân trọng trong Hiến pháp 1992, thể hiện bản chất dân chủ - nhân đạo
- tiến bộ của Đảng, Nhà nước ta cần được quán triệt để điều chỉnh và bảo vệ bằng các quy phạm

của pháp luật hình sự, làm cơ sở để Tồ án giải quyết các vụ án.
Trong thư gửi Hội thảo quốc gia nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn nhân quyền Thế giới
do Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban tư tưởng văn hoá Trung ương, Bộ
ngoại giao, trung tâm Khoa học và nhân văn Quốc gia tổ chức tháng 12/1998, Tổng Bí thư Lê
Khả Phiêu đã khẳng định lại quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là:"Bảo vệ và phát
triển quyền con người không chỉ là một nhiệm vụ lớn hiện nay mà chính là lý tưởng phấn đấu
của những người Cộng sản; là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; là cốt lõi của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [36,67]. Do đó, trong quá trình xây dựng pháp luật cần
"ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân" [18,130].
3.1.2. Bảo đảm thực hiện các quy định trong các Công ƣớc Quốc tế mà Việt Nam
tham gia, ký kết về quyền con ngƣời đối với các bị can, bị cáo
Là thành viên của Liên hiệp quốc, Việt Nam đã tham gia phê chuẩn và cam kết thực hiện
8 Công ước Quốc tế về quyền con người; "tham gia các Công ước này, Nhà nước Việt Nam thừa
nhận các giá trị cao quý về các quyền và tự do cơ bản của con người" [37,7]
Do đó, "để nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế và để cho thế giới thấy rằng
"sự thừa nhận" này không phải là hình thức - chỉ nằm trên giấy tờ, mà là có thật - được ghi nhận
trong pháp luật quốc gia và được thực thi trong cuộc sống, thì hệ thống pháp luật Việt Nam
(trong đó có pháp luật hình sự) cần được hoàn thiện cho phù hợp với các nguyên tắc và các quy
phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế" [11,29].
Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xét xử án hình
sự cần phải tính đến các yếu tố, đặc điểm phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, truyền thống pháp lý của
dân tộc Việt Nam ta. Có như vậy pháp luật mới có tính khả thi và tồn tại được trong điều kiện Việt
Nam.
3.1.3. Các bảo đảm trong xét xử của Toà án
Việc hoàn thiện pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc: pháp chế, dân chủ, nhân đạo,
cơng bằng, cá thể hố trách nhiệm hình sự. Bảo đảm quyền con người bao gồm nhiều mặt nên
việc hoàn thiện pháp luật phải hoàn chỉnh, đồng bộ, mang tính ổn định cao và phải cụ thể, rõ
ràng, tránh tình trạng giải thích, áp dụng pháp luật khơng thống nhất. Như vậy, các quy định về
định tội, định khung, xác định chế tài, quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng, người tiến
hành tố tụng ... phải chặt chẽ, khắc phục kẽ hở, tránh được tuỳ tiện. Chẳng hạn, các quy định về

tội danh không được quá chung chung, trừu tượng; các tình tiết định khung trong cấu thành tội
phạm phải thực sự đánh dấu sự thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm một cách
đáng kể... tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải bảo đảm được tính ổn định đồng thời phải theo
kịp bước tiến trong đời sống xã hội. Hơn nữa, các luật mới (sửa đổi, bổ sung) phải có tính khả
thi, hạn chế việc cần thiết phải có nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Đồng thời từ
Hiến pháp đến các văn bản dưới luật phải tạo thành một thể thống nhất, trong đó Hiến pháp, luật


giữ vị trí tối cao. Điều đó tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của Toà án mà đặc biệt là trong việc
áp dụng pháp luật.
Việc hoàn thiện pháp luật một mặt phải nhằm phòng ngừa các hành vi vi phạm quyền con
người, mặt khác phải tạo điều kiện cho việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, nghiêm minh các
hành vi phạm tội, có nghĩa là khơng bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
3.2. Nội dung hồn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con
ngƣời
3.2.1 Về pháp luật hình sự
Theo tiến trình phát triển của xã hội lồi người, quyền con người về mặt pháp lý ngày
càng được củng cố, mở rộng. Chính vì vậy, việc hồn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người
nói chung và quyền con người trong xét xử hình sự nói riêng cũng là công việc thường xuyên,
liên tục. Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường - trưởng đồn đại biểu nước ta
tham dự khố họp hàng năm lần thứ 56 của Uỷ ban Nhân quyền Liên hiệp quốc họp tại Giơ ne
vơ, ngày 28/3/2000 đã phát biểu: "Phấn đấu để đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người
là trách nhiệm thường xuyên của mọi quốc gia. Trên thực tế, tất cả các quốc gia trên thế giới cần
phấn đấu để vượt qua thách thức này. Điều quan trọng là các Chính phủ ln coi trọng mục tiêu
phấn đấu vì các quyền con người và có chính sách nhất qn để thực hiện mục tiêu đó" [14,8].
Quyền con người của bị cáo, trước tiên phụ thuộc vào các quy định của luật và tính khả thi của
nó. Do đó, pháp luật phải có quy định cụ thể, mang nội dung xác định, đặc biệt là quyền và nghĩa
vụ giữa một bên là cơ quan tiến hành tố tụng, một bên là bị cáo và đại diện của họ.
Hiện nay, thực tiễn cuộc sống đang đặt ra vấn đề cần hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người

đối với bị cáo với những nội dung cơ bản như sau:
Về các qui định của pháp luật về tội phạm, trách nhiệm hình sự, về lỗi
Như đã phân tích, Điều 8 BLHS hiện nay liệt kê một cách khá dài các khách thể được
luật sự sự bảo vệ. Nhưng chưa hết, sau đó cịn phải quy định thêm: xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Như vậy, những khách thể được nêu ra là rất cụ thể
nhưng vừa dài lại vừa thiếu. Do đó, cần đưa ra quy định ngắn gọn nhưng vẫn bảo đảm bao quát
hết được các khách thể mà luật hình sự cần bảo vệ.
* Về khái niệm tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho cá nhân, xã hội, quốc gia hay hồ bình, ổn định và phát triển
của quốc tế được qui định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vơ ý xâm phạm các khách thể được luật hình sự bảo vệ.
* Chế định trách nhiệm hình sự được coi là chế định quan trọng trong pháp luật hình sự,
nên cần được chính thức quy định trong Bộ luật hình sự theo hướng sau:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mang tính cưỡng chế
Nhà nước do Toà án áp dụng đối với người phạm tội và được thực hiện bằng hình phạt cụ thể do
Bộ luật hình sự qui định.


Trước hết, qui định này khắc phục được "lỗ hổng" trong Bộ luật hình sự. Hay nói cách khác, nó
góp phần hồn chỉnh kỹ thuật lập pháp (hình sự) ở nước ta hiện nay. Qui định này cũng thể chế
hoá được qui định tại Điều 72 Hiến pháp, thể hiện rõ tinh thần nhân đạo "không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật". Nó thể
hiện được lơ gíc: khơng có tội phạm sẽ khơng có trách nhiệm hình sự và thể hiện được ngun
tắc: trách nhiệm hình sự do Tồ án áp dụng. Đồng thời nó cũng nêu lên được căn cứ duy nhất
của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện tội phạm.
* Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của tội phạm. Việc xác định lỗi của chủ thể trong tội
phạm giúp cho sự phân biệt giữa hành vi có tính chất tội phạm và hành vi khơng có tính chất tội phạm,
đồng thời góp phần phân biệt được mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và của người phạm tội.
Chính vì vậy, cần quy định lỗi là gì trong Bộ luật hình sự. Nên chăng, qui định lỗi là thái độ tâm lý của
người phạm tội được thể hiện với hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do

mình thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra.
3.2.2 Về pháp luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, Về quyền, nghĩa vụ của bị can, bị cáo, người bào chữa:
Phải khẳng định rằng, một hệ thống pháp luật dân chủ tiến bộ phải là hệ thống pháp luật
vì con người, cho con người, bảo đảm sự an tồn cho con người trong đó có cả những người có
một thời lầm lỗi. Điều này cũng đúng với bản chất của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ngày
nay, các quốc gia không ngừng phấn đấu trên mọi lĩnh vực mà quan trọng hơn cả là lập pháp, hành pháp
và tư pháp để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người .
Thực hiện mục đích này, trước hết các quy định về quyền, nghĩa vụ của cơng dân nói chung, bị
cáo nói riêng phải cụ thể, rõ ràng, xác thực, dễ hiểu, dễ thực hiện.
"Để làm được điều đó, chương V của Hiến pháp 1992 cần bao quát toàn bộ tinh thần của
quyền con người" [59,4] để từ đó các luật về quyền con người được củng cố, hoàn thiện.
"Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao quý
nhất" [11,10] cho nên, theo như Hiến pháp 1946, chương "quyền và nghĩa vụ của công dân" nên được
đặt ở vị trí chương thứ II trong Hiến pháp.
Một bảo đảm vô cùng quan trọng cần được khẳng định trong Hiến pháp là: Mọi cơng dân có
quyền được khởi kiện u cầu Tồ án có thẩm quyền trong nước bảo vệ quyền cơ bản của mình khi bị
xâm hại trái pháp luật.
Thứ hai, nâng cao ý thức, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng về việc đảm bảo các
quyền của những người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự. Đây là vấn đề hết sức quan
trọng vì quyền con người có được đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm và
những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng bắt người tùy tiện, bắt oan sai, khơng đúng trình tự thủ tục là do trình độ, năng lực của một
bộ phận cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn hạn chế, ý thức pháp luật chưa được đề cao. Do
nhận thức khơng đầy đủ về tính chất, vai trị và tầm quan trọng của hoạt động, bắt người, tạm


giữ, tạm giam cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án làm cho
việc vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đến những hoạt động tùy tiện, trái pháp luật xâm hại đến
quyền con người, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Để bảo đảm được quyền con người, quyền

công dân trong hoạt đọng tố tụng, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho điều tra viên,
kiểm sát viên, thẩm phán, phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chính
trị và đạo đức cơng vụ cho những cán bộ này; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có
thẩm quyền và trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương (ở mức độ cho
phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của
cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân.
Mặt khác, để nâng hiệu quả công tác và bảo đảm được quyền con người, chủ thể tiến hành
tố tụng phải nhận thức được rõ ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Phải hiểu
rằng: áp dụng các biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam là nhằm bảo vệ trật tự pháp luật,
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nhưng cần chú ý bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị áp dụng. Bởi vì người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn chưa phải là tội phạm, họ
mới chỉ tạm bị hạn chế một số quyền như quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú. Những quyền
khác của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn vẫn phải được bảo đảm và được tôn trọng.
Chẳng hạn, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm. Việc áp dụng tùy tiện các biện pháp ngăn chặn như việc bắt oan người
vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn… đều làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Người thực hiện một trong
các hành vi nói trên phải bị xử lý nghiêm khắc, thậm chí có thể bị truy tố theo pháp luật để bảo
đảm sự nghiêm minh, công bằng xã hội, bảo đảm quyền con người của người bị bắt oan, sai, bị
tạm giữ, tạm giam quá hạn. Những hành vi bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai
thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn không chỉ xâm hại hoạt động đúng đắn của cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của
con người, cơng dân mà cịn làm suy giảm uy tín của Nhà nước ta, nhà nước của dân, do dân và
vì dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc
hiểu đúng, hiểu đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về các biện pháp
ngăn chặn sẽ nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; qua đó cũng góp
phần quan trọng và cần thiết để bảo đảm quyền con người. Với yêu cầu của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, việc bắt, giam giữ cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy
nhiên, khơng thể vì bất cứ một lý do gì mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính
chất, sai đối tượng, khơng đảm bảo các u cầu của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân. Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt đối với người phạm tội
mà là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để tước bỏ diều kiện gây ra phạm tội, ngăn chặn hành
vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật của người thực hiện và hành vi phạm tội, đảm bảo sự
hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Viện Kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi


đã xác định rõ ràng căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Viện
kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu vụ án, và cả người bị
bắt về các tình tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt. Trong
trường hợp bắt người khơng có căn cứ thì Viện Kiểm sát kiên quyết khơng phê chuẩn lệnh bắt.
Mỗi kiểm sát viên cần phải luôn đề cao trách nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong q
trình thực thi cơng vụ của mình.
Thứ ba, nâng cao nhận thức của những người tham gia tố tụng về quyền con người trong tố tụng
hình sự. Muốn thực hiện được tốt quyền của mình thì ngay bản thân những người tham gia tố
tụng cần phải có những nhận thức nhất định về các quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng
hình sự.
Đây là một vấn đề gặp rất nhiều vướng mắc hiện nay trong khi giải quyết các vụ án hình sự.
Rất nhiều người dân khơng nắm được các quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi tham gia
với những tư cách khác nhau trong các vụ án hình sự. Rất có nhiều vụ án hình sự khơng có người
bào chữa tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại… Một
trong những nguyên nhân chính là người tham gia tố tụng không biết tầm quan trọng và lợi ích
cho họ khi có người bào chữa tham gia, do đó họ khơng mời người bào chữa. Những yếu kém
trong nhận thức về pháp luật của những người tham gia tố tụng cũng là nguyên nhân dẫn đến sự
cẩu thả, thiếu trách nhiệm trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của những người
tham gia tố tụng. Do đó, việc phổ biến pháp luật cho nhân dân cần được sâu rộng hơn nữa. Chỉ
khi người dân biết được các quyền của mình mà pháp luật cho phép, họ mới có thể thực hiện tốt
các quyền của mình.
Thứ tư, cần tăng cường số lượng cho đội ngũ luật sư và nâng cao vai trò, vị trí của luật sư
trong q trình tranh tụng. Thời gian vừa qua, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc
đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ luật sư nhưng nhìn chung đội ngũ luật sư cịn có nhiều hạn chế,

còn thiếu và yếu về số lượng và chất lượng. Hiện nay cả nước có khoảng 4000 luật sư, tuy nhiên
số luật sư này còn khá khiêm tốn so với tổng quan gần 80 triệu người dân Việt Nam. Số lượng
các vụ án hình sự có người bào chữa tham gia lại càng khiêm tốn hơn vì trong số đó có rất nhiều
vụ án hình sự khơng có người bào chữa do bị cáo khơng có khả năng về tài chính hoặc khơng
muốn mời người bào chữa. Bên cạnh việc tăng cường về số lượng thì việc phát triển và nâng cao
về trình độ pháp luật, kỹ năng tranh tụng cho người luật sư là hết sức cần thiết. Bên cạnh việc
quan tâm bồi dưỡng đội ngũ luật sư, tăng cường số lượng luật sư co các đoàn luật sư, cần chú
trọng tới việc xây dựng quy chế hoạt động cụ thể cho bào chữa viên nhân dân. Ngồi việc có
kiến thức vững chắc về mặt pháp luật khi tham gia tranh tụng, người bào chữa nói chung và luật
sư nói riêng cần phải có đạo đức nghề nghiệp, phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người
bào chữa ngay cả khi phiên tòa đã kết thúc. Sau khi kết thúc việc xét xử, luật sư nên hướng dẫn
cho khách hàng biết cách làm đơn kháng cáo, cách thăm nuôi bị cáo bị tạm giam, tôn trọng và
bảo đảm giữ bí mật cho khách hàng.


Tóm lại, bảo đảm quyền con người là vấn đề rất quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và
nhân dân quan tâm, bảo vệ. Bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự…Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con
người, quyền cơng dân, coi đó như những chế định quan trọng và là mục tiêu cuối cùng của chế
độ ta. Bộ luật Tố tụng hình sự của nhà nước ta đã ghi nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân qua nhiều chế định khác nhau. Các quy định về bắt người, tạm giữ, tạm giam là một trong
các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của nhân dân và của cả bị can, bị
cáo của người bị bắt. Tất cả những quy định của Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự về bắt,
tạm giữ, tạm giam đều nhằm góp phần phát huy dân chủ, tăng cường hơn nữa hiệu lực của Nhà
nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân để xây dựng một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh và giàu mạnh.
KẾT LUẬN
Với mục đích đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu để đề xuất phương hướng, nội dung hoàn thiện
pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự, đề tài đã cố
gắng xem xét làm sáng tỏ một số vấn đề về quyền con người và thực trạng các quy định của pháp

luật hiện nay ở nước ta về bảo đảm quyền con người trong xét xử án hình sự.
Quyền con người có lịch sử lâu đời và luôn là giá trị xã hội cao quý nhất cho dù lúc nào
đó và ở đâu đó nó có bị chà đạp nhưng ý nghĩa của nó thì chẳng bao giờ bị mất đi. Theo tiến
trình phát triển của xã hội loại người, quyền con người ngày càng được bảo đảm trên bình diện
quốc tế và ở mỗi quốc gia. Một trong những bảo đảm đó, cái mà được coi là quan trọng hàng đầu
là nỗ lực thường xuyên của các quốc gia trong việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống
pháp luật để ghi nhận và thực hiện quyền con người. Hay nói cách khác, cái bảo đảm quan trọng
đối với quyền con người có thể được coi là bảo vệ bằng pháp luật. Mà trong pháp luật, bảo vệ
chắc chắn hơn cả là bảo vệ bằng Hiến pháp và các luật, trong đó có luật hình sự.
Hoạt động lập pháp hình sự có nhiệm vụ là phản ánh khách quan các nhu cầu và lợi ích
cần được luật hình sự bảo vệ. Ở đó, việc bảo đảm quyền con người cho mọi cơng dân nói chung
và bị can, bị cáo nói riêng là một trong những nhu cầu quan trọng nhất, bức thiết nhất, nó địi hỏi
phải được thể hiện rõ trên các mặt cơ bản như: quy định rõ ràng, cụ thể cơ sở của trách nhiệm
hình sự; xác định chính xác tội phạm, phân loại tội phạm và ranh giới giữa tội phạm và không
phải là tội phạm; quy định hình phạt và hệ thống hình phạt phải tương xứng với tội phạm và
các loại tội phạm; quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tiến hành và tham gia tố tụng; và
quy định các nguyên tắc áp dụng hình phạt.
Để bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo thì tất cả các vấn đề trên có thể coi là xây
dựng và áp dụng pháp luật phải được thực hiện một cách đồng bộ, không thể coi nặng mặt này
mà bỏ qua mặt khác. Bởi vì, hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật có mối quan hệ
gắn bó với nhau. Việc xây dựng pháp luật tốt tạo cơ sở an toàn cho các lợi ích cần phải được bảo


vệ đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn. Việc xét xử của Toà
án phải dựa vào pháp luật và phải tuân theo pháp luật. Do đó, để có được một phán quyết của
Tồ án đúng đắn thì địi hỏi pháp luật phải mang tính cơng bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế.
Có thể tin tưởng khẳng định rằng, pháp luật hình sự Việt Nam đã hội đủ các đặc tính trên
và ngày càng được hoàn thiện, theo hướng dân chủ tiến bộ và bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền,
lợi ích của người phạm tội.
Tuy nhiên, theo quy luật khách quan và do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, việc

bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo bằng pháp luật ở nước ta cịn có những hạn chế nhất
định như đã tìm hiểu, phân tích trên. Vì phạm vi của đề tài cũng như trình độ nhận thức, tác giả
đề tài mạnh dạn đưa ra một số phương hướng, nội dung cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế
đó đồng thời góp phần hồn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử án hình sự ở
nước ta hiện nay.
References
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ Ba (khoá VIII). Lưu hành nội bộ, tháng 6 năm 1992.
2.

Nguyễn Thị Bình. Bàn về quyền con người. Tạp chí Cộng sản, tháng 5 năm 1993.

3.

Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Niên. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Nxb chính trị
quốc gia, H, 1999.

4.

Trần Văn Bính (chủ biên). Tồn cầu hố và quyền cơng dân ở Việt Nam (nhìn từ khía cạnh
văn hố). Nxb Chính trị quốc gia. H, 1999

5.

Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992. Nxb Khoa
học và xã hội. H, 1994.

6.

Bộ luật hình sự của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985. Nxb Chính trị

quốc gia.H, 1993.

7.

Bộ luật hình sự của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999. Nxb Chính trị
quốc gia. H, 2000.

8.

Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb Chính trị quốc
gia. H, 1993.

9.

Lê Cảm. Về một số quy định của phần chung dự án Bộ luật hình sự sửa đổi. Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, tháng 4 năm 1999.

10. Lê Cảm. Những điểm mới cơ bản của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Tạp chí dân chủ
và pháp luật, tháng 3/2000


11. Lê Cảm. Hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Nxb Cơng an nhân dân. H, 1999
12. Nguyễn Ngọc Chí. Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự. Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 4 năm 1999.
13. N.N Cốp tun. Về vai trị của Tồ án trong việc chứng minh trong các vụ án hình sự dưới
ánh sáng các nguyên tắc hiến định. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Liên Bang Nga), tháng
6-1998, tiếng Nga.
14. Hà Hùng Cường. Việt Nam nỗ lực xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ các quyền con
người. Báo nhân dân ngày 31/3/2000

15. Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị
quốc gia. H, 1996.
16. I.U.Đmitriép, G. G. Treremnức. Cơ quan tư pháp trong hệ thống phân chia quyền lực và
việc bảo vệ quyền và tự do của con người. Tạp chí Nhà nước và pháp luật (Nga), số 8 năm
1998 tiếng Nga.
17. Trần Văn Độ. Vấn đề phân loại tội phạm. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 năm 1999.
18. Trần Văn Độ. Lỗi và các hình thức của nó trong luật hình sự Việt Nam. Khoa luật trường
đại học tổng hợp quốc gia Matxcơva mang tên Lô mô nô xốp. M, 1986, tiếng Nga.
19. Trần Ngọc Đường (chủ biên). Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Nxb Chính trị Quốc
gia, H, 1998.
20. Trần Ngọc Đường (chủ biên). Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nxb
Chính trị quốc gia. H, 1999
21. Trần Ngọc Đường. Hành vi hợp pháp- nhân tố bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ
công dân. Chuyên khảo quyền con người, quyền cơng dân. Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
22. A.M Gia kốp lép. Ngun tắc cơng bằng và những cơ sở của trách nhiệm hình sự. Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật Xơ Viết, số 3 năm 1982, tiếng Nga.
23. A.X.Gorelic. Bảo vệ các quyền cơ bản của con người bằng pháp luật hình sự. Trong sách
"Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự và chính sách hình sự hiện nay. Viện Nhà nước
và pháp luật (Liên bang Nga). M, 1994, tiếng Nga.
24. Phạm Hồng Hải. Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ở nước ta. Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, tháng 3/1998.


25. Phạm Hồng Hải. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nxb Công an nhân dân.
H, 1999
26. Hoàng Văn Hảo, Chu Thành. Quyền con người và quyền cơng dân. Tạp chí Cộng sản, tháng
5 năm 1993.
27. Hồng Văn Hảo, Vũ Công Giao. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền - một văn kiện có tính
chất bước ngoặt trong lịch sử nhân quyền quốc tế. Tạp chí Cộng sản, tháng 2 năm 1999.

28. Nguyễn Văn Hiện. Toà án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức. Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, tháng 8 năm 1999.
29. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Nxb Chính trị quốc gia, H,
1993.
30. Hiến pháp Liên bang Nga, Nxb Sách pháp lý. M, 1996, tiếng Nga.
31. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bàn về quyền con người (tổng luận phân tích - lý
luận và thực tiễn). Trung tâm thơng tin tư liệu. H, 1994
32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Quyền con người - quyền công dân trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Thông tin chuyên đề. Trung tâm thông tin tư liệu, tháng 5/1995.
33. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu quyền con người. Quyền
con người, quyền công dân. Chuyên khảo, tập 1, 1992.
34. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu quyền con người. Quyền
con người, quyền công dân. Chuyên khảo, tập 2, 1992.
35. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu quyền con người. Một số
vấn đề về quyền dân sự và chính trị. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1997.
36. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.Tạp chí nghiên cứu lý luận, tháng 3/2000.
37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các văn kiện quốc tế về quyền con người. Nxb
Chính trị quốc gia. H, 1998.
38. V. H. Kuđriavcev. Đạo luật, hành vi, trách nhiệm. Nxb Khoa học. M, 1986, Tiếng Nga.
39. V. I. Lê Nin Toàn tập, tập 4. Nxb tiến bộ Matxcơva, 1997, bản tiếng Việt.
40. Nguyễn Đình Lộc. Bộ luật hình sự mới (năm 1999) và một số vấn đề cần quan tâm. Tạp chí
dân chủ và pháp luật. Số chuyên đề về Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tháng 3/2000
41. Uông Chu Lưu. Những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần chung của Bộ luật hình sự.
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, tháng 3/2000.
42. C.Mác và Ph. Ăng ghen. Tồn tập, tập 1. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1995


43. C.Mác và Ph.Ăng ghen. Toàn tập tập 1, tiếng Nga.
44. C. Mác và Ph. Ăng ghen. Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia. H, 1995

45. C.Mác và Ph.Ăng ghen. Toàn tập, tập 13, tiếng Nga.
46. H. S. Malein. Vi phạm pháp luật: Khái niệm, nguyên nhân, trách nhiệm. Nxb pháp lý. M,
1985. tiếng Nga.
47. Nguyễn Văn Mạnh. Quyền chính trị của phụ nữ trong cơng ước về xố bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật Việt Nam. Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
tháng 3/2000.
48. Nguyễn Văn Mạnh. Xây dựng và hoàn thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người
trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay. Luận án PTS
49. Nông Đức Mạnh. Lời bế mạc kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá X. Báo nhân dân, ngày
22/12/1999
50. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 8. Nxb chính trị quốc gia H, 1996.
51. Lê Văn Minh. Nên chăng thay đổi Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự.Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, tháng 5 năm 1999.
52. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993. Nxb chính trị quốc gia. H, 1994.
53. Đinh Văn Quế. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
Nxb chính trị quốc gia H, 1998.
54. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết số 32/1999/QH10 về việc
Thi hành Bộ luật hình sự. Cơng báo, 01/2000.
55. Nguyễn Duy Q. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - điều kiện cơ bản bảo đảm quyền con
người ở nước ta. Tạp chí Cộng sản, tháng 2 năm 1999.
56. C. A. Sây pher. Về khái niệm và mục đích của chứng minh trong tố tụng hình sự. Tạp chí
Nhà nước và pháp luật thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga, số 9 năm 1996, tiếng
Nga.
57. G. T. Tkeseliadde. Thực tiễn xét xử và đạo luật hình sự. Nxb "Mecniereba". Tbilisi, 1975.
58. Hữu Thọ. Huy động toàn xã hội phòng, chống tệ nạn xã hội. Báo nhân dân ngày 29/3/2000.
59. Lê Minh Thơng. Hồn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ
ở nước ta ta hiện nay. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 12/1998.
60. Lê Minh Thông. 50 năm - tuyên ngơn thế giới về quyền con người. Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, tháng 4/1998.



61. Phan Hữu Thức. Một số vấn đề về hình sự hố, dân sự hố, hành chính hố, ngun nhân và
giải pháp phịng, chống. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 4/1999.
62. Toà án nhân dân tối cao - Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính và tố tụng. Tạp chí Tồ án nhân dân, tháng 3 - 2000
63. Tồ án nhân dân tối cao - Công văn số 34/2000/KHXX ngày 30/3/2000 của Toà án nhân dân
tối cao trả lời Toà án dân dân tỉnh Hà Nam về việc áp dụng điểm C mục 3 Nghị quyết số 32
của Quốc hội "Về việc thi hành Bộ luật hình sự". Tạp chí Tồ án nhân dân, tháng 4- 2000
64. Tồ án nhân dân tối cao. Công văn số 10/2000/KHXX, ngày 10/1/2000 hướng dẫn thi hành
mục 3 Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự. Tạp chí Toà án nhân dân,
tháng 2/2000.
65. Toà án nhân dân tối cao. Các văn bản về hình sự, nhân sự và tố tụng. H, 1990.
66. Phùng Văn Tửu. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, pháp luật của dân, do dân, vì dân ở
Việt Nam. Nxb chính trị quốc gia H, 1999.
67. Đào Trí úc. Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc và trách nhiệm cá nhân và về lỗi.
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 9 năm 1999.
68. U.O. UMOZURIRE. Quyền con người và phát triển. Đỗ Sáng lược thuật. Tạp chí thơng tin
khoa học xã hội, tháng 8 năm 1999.
69. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý. Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình
sự trong giai đoạn hiện nay. Nxb Cơng an nhân dân. H, 1994.
70. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý. Chuyên đề về một số vấn đề lý luận, thực tiễn phục vụ
cho việc xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi). Thơng tin khoa học pháp lý, tháng 06/2000.
71. Viện Nhà nước và pháp luật. Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nxb Chính trị quốc gia. H, 1994.
72. Quách Thành Vinh. Một số vấn đề liên quan tới việc làm xấu hơn tình trạng của bị cáo xét
xử phúc thẩm. Tạp chí Cộng sản, tháng 12 năm 1999.
73. Võ Khánh Vinh. Ngun tắc cơng bằng trong luật hình sự Việt Nam. Nxb Công an nhân
dân. H, 1994.




×