Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn tìm hiểu nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.64 KB, 89 trang )

Tìm hiểu nhu cầu học tập của
giáo viên tiểu học tỉnh Bình
Phước
Trần Thị Thu Thủy


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực của nhân cách. Nhu cầu chi phối mãnh liệt đến đời
sống tâm lý nói chung, đến hoạt động của con người nói riêng. Nghiên cứu nhu cầu của con
người là một việc làm hết sức cần thiết bởi nhu cầu là động lực tạo nên mức độ độc lập, tích cực
và sáng tạo của con người .
Trong con người tồn tại nhiều loại nhu cầu ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, nhu cầu học
tập là một loại nhu cầu cấp cao, chi phối mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách
của con người. Đối với người giáo viên, nhu cầu học tập chi phối việc hoàn thiện nhân cách
nghề, ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục.
Chất lượng giáo dục là một vấn đề đang được quan tâm hàng đầu trong cuộc cách mạng giáo
dục ở nước ta hiện nay. Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận rằng nhân tố người thầy ảnh
hưởng trực tiếp đến việc đổi mới chất lượng giáo dục. Trong khi chúng ta đã và đang nghiên cứu
để làm đổi mới nhiều mặt của quá trình giáo dục (từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương
tiện…) rồi đem những kết quả đó nhồi nhét vào đầu giáo viên theo hình thức tập huấn ngắn hạn,
một chiều. Trong khi đã có không ít công trình nghiên cứu về nhu cầu học tập, về tính tích cực
nhận thức của học sinh… thì hầu như chưa có ai quan tâm tìm hiểu những đặc điểm tâm lý (đặc
biệt là nhu cầu học tập) của người thầy (một trong hai nhân tố quan trọng của quá trình giáo
dục: Thầy – Trò) trong giai đoạn mới này.
Trong tình hình chung đó, bản thân người giáo viên cũng nhận thức được vai trò quan trọng
của mình. Không ít người mong muốn được học tập nhiều hơn để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, nâng cao tầm hiểu biết để đáp ứng kịp thời những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Nhưng học như thế nào? ở đâu? bằng hình thức nào? vào thời gian nào?… không phải người giáo
viên nào cũng có thể lựa chọn hay có điều kiện để lựa chọn. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải tìm
hiểu nhu cầu học tập của họ, những phương thức nào họ mong muốn để thỏa mãn nhu cầu học


tập, giúp họ phát triển nhu cầu học tập đã có… Có như thế mới thực sự đổi mới toàn diện trong
giáo dục.


Tóm lại, việc tìm hiểu nhu cầu học tập của giáo viên trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần
thiết, đặc biệt là nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học. Bởi giáo viên tiểu học được xem là
người thầy đầu tiên trong bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có ảnh hưởng lớn
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ sau này. Muốn đổi mới giáo dục phải đổi
mới ngay từ bậc học này.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho các nhà quản lý giáo dục tình Bình Phước quan
tâm đúng mức đến nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học trong tỉnh. Đồng thời góp phần định
hướng cho trường CĐSP tỉnh Bình Phước trong việc phối hợp với các phòng giáo dục, các trường
tiểu học địa phương nhằm tạo điều kiện thỏa mãn và phát triển nhu cầu học tập của giáo viên
tiểu học trong tỉnh.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
“Tìm hiểu nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở đó,
đề xuất một số biện pháp phát triển nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học trong tỉnh.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
329 giáo viên tiểu học thuộc 8 huyện thị trong toàn tình Bình Phước, cụ thể là:
Thị xã Đồng Xoài :

40 giáo viên

Phước Long

:


44 giáo viên

Bù Đăng

:

48 giáo viên

Đồng Phú

:

40 giáo viên

Chơn Thành

:

38 giáo viên

Bình Long

:

40 giáo viên

Lộc Ninh

:


44 giáo viên

Bù Đốp

:

35 giáo vieân


3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ mục đích đã nêu, nhiệm vụ cụ thể của đề tài như sau:
4.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhu cầu, nhu cầu học tập, nhu cầu học tập của
giáo viên tiểu học, phương thức thỏa mãn nhu cầu…
4.2. Khảo sát thực trạng
4.2.1. Thực trạng mức độ biểu hiện của nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình
Phước.
4.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình
Phước.
4.2.3. Những hình thức học tập mà giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước đã sử dụng và
những hình thức học tập mà họ mong muốn để được thỏa mãn nhu cầu học tập của mình.
4.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình
Phước.
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước biểu hiện ở mức khá cao, tuy nhiên
không đồng đều giữa các nhóm giáo viên (thâm niên, nơi công tác, giới tính) do nhiều nguyên
nhân. Từng bước khắc phục những yếu tố gây cản trở việc thỏa mãn nhu cầu học tập sẽ giúp
phát triển nhu cầu học tập ở họ.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Nội dung: đánh giá thực trạng mức độ nhu cầu họïc tập nâng cao trình độ chuyên môn –
nghiệp vụ của giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước, những yếu tố ảnh hưởng và nguyên nhân của
thực trạng. Từ đó đề xuất những biện pháp nhằm phát triển nhu cầu học tập ở họ.
- Khách thể: 320 giáo viên tiểu học đang công tác tại các trường tiểu học trong tỉnh Bình
Phước.


- Thời gian: từ tháng 10/2005 đến tháng 10/2006.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích và tổng kết tài liệu nhằm xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra bằng phiếu hỏi, đàm thoại.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê ứng dụng: sử dụng phần mềm SPSS for
Windows 12.0.
8. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Tháng 10/2005 – tháng 11/2005 lựa chọn và đăng ký đề tài
Tháng 11/2005 – tháng 12/2005 sưu tầm tài liệu liên quan đến đề tài
Tháng 01/2006 – tháng 02/2006 lập và chỉnh sửa đề cương nghiên cứu, viết cơ sở lý luận cho
đề tài
Tháng 02/2006 – tháng 4/2006 xây dựng bộ công cụ điều tra
Tháng 4/2006 – tháng 5/2006 thu thập số liệu
Tháng 5/2006 – tháng 6/2006 nhập và xử lý số liệu
Tháng 6/2006 – tháng 7/2006 phân tích số liệu
Tháng 7/2006 – tháng 8/2006 viết và chỉnh sửa luận văn
Tháng 8/2006 – tháng 9/2006 hoàn chỉnh luận văn, viết tóm tắt
Tháng 10/2006 – tháng 11/2006 nộp luận văn và đăng ký bảo vệ.


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU VÀ NHU CẦU HỌC
TẬP CỦA GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.1. Những nghiên cứu về nhu cầu ở phương Tây
Nhu cầu thể hiện sự lệ thuộc của một cơ thể sống vào môi trường bên ngoài, thể hiện thành
những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể thiếu những điều kiện để tồn tại và phát triển. Từ đầu thế kỷ
XIX, Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lý của cá nhân bắt nguồn từ những nhu
cầu của nó (về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…). Vào giữa thế kỷ XIX, V.
Koller, E. Thorndike, N.E. Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được thúc đẩy bởi nhu
cầu. Họ đã đưa ra thuật ngữ “luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích và đáp ứng
của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đã đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi.
Vào cuối thế kỷ XIX, S.Freud và U.Mc. Dougall đã đề cập tới vấn đề nhu cầu trong lý
thuyết bản năng của con người và lý thuyết này được kiện toàn vào đầu thế kỷ XX. Theo Freud
[12], lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành vi
của con người đều hướng tới việc mong muốn thỏa mãn hay phá hủy và xâm lăng. Ông nghiên
cứu ở động vật và chứng minh một cách hùng hồn những hành vi hung bạo và phá hủy là
phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu quan trọng của cuộc sống. Lý thuyết bản năng ngay từ
khi ra đời đã trở thành trung tâm của các cuộc tranh luận của các nhà tâm lý học phương Tây.
Nhưng cuối cùng họ cũng bế tắc khi sử dụng lý thuyết này để giải thích các hành vi văn hóa và
văn minh của con người.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu cầu ở con
người. Đầu tiên là lý thuyết động cơ hệ do K. Lewin đề xướng. K. Lewin cho rằng, dưới sự tác
động của loại nhu cầu nào đó, trạng thái căng thẳng sẽ xuất hiện, đồng thời ở chủ thể cũng xuất
hiện sự liên tưởng có liên quan với nhu cầu. Ông cho rằng, những nhân tố thực của hoạt động
tâm lý của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà nó còn được xuất phát từ nhu


cầu xã hội. Nhu cầu vừa là nguyên nhân làm xuất hiện hệ thống căng thẳng và đó cũng là
nguyên nhân tạo ra sự hoạt động tích cực của con người, hoạt động sẽ làm dịu sự căng

thẳng…[29]
Tiếp theo đó là những công trình của các đại diện cho tâm lý học nhân văn như A. Maslow,
G. Ollport, K. Rodzerc và một số người khác. Trong đó điển hình là công trình nghiên cứu của
A. Maslow [31]. Ông chứng minh rằng tính xã hội nằm trong chính bản tính của con người. Con
người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về tình yêu, về lòng kính
trọng…Những nhu cầu này có bản chất bản năng đặc trưng cho giống người. Như vậy theo ông,
tính người của nhu cầu được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. Ông đã hình dung
nhu cầu và sự phát triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang. Ông đã
đem các loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi và thứ tự phát sinh trước
sau của chúng để quy về năm loại, sắp xếp thành năm bậc thang về nhu cầu của con người từ
thấp đến cao.

NC tự thể hiện
NC về sự tự trọng
NC được thừa nhận
NC về an ninh và sự an tồn

NC sinh lý

Để đi lên đỉnh của chiếc thang phải bắt đầu từ chân thang. Mỗi bậc nhu cầu đòi hỏi con
người phải có những nổ lực nhất định để có thể chuyển lên bậc tiếp theo. Mỗi bậc nhu cầu của
con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó. Nếu một nhu cầu ở bậc thấp cả hệ thống
không được đáp ứng, cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát triển tiếp theo. Theo Maslow,
sau khi nhu cầu cấp thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu cấp cao hơn. Ông
chỉ rõ, hành vi của con người thường không chỉ do một nhu cầu nào đó thúc đẩy mà là kết quả
của rất nhiều tác động. Theo ông, mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc cũng đều có liên quan
đến cấu trúc cơ thể của con người và đều được dựa trên một nền tản di truyền nhất định. Ông đã


mô tả các động cơ của con người mang tính vô thức và vượt qua ý chí của con người đã quy định

hành vi của nó. Thuyết của ông phủ định sự cần thiết phải hình thành một cách có mục đích các
nhu cầu của con người. [17, tr.176-182]
Đáng lưu ý là nghiên cứu của nhà tâm lý học người Mỹ – Herry Murray. Theo Murray, nhu
cầu được hiểu là một tổ chức cơ động, nó tổ chức và hướng dẫn các quá trình nhận thức, tưởng
tượng và hành vi. Nhờ nhu cầu mà hoạt động mang tính chất có mục đích, do đó hoặc là đạt
được sự thỏa mãn nhu cầu hoặc là ngăn ngừa sự đụng độ khó chịu với môi trường. Theo ông,
nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động
qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ chúng nhằm mục đích đạt được sự thích ứng.
Học thuyết của Murray chịu nhiều ảnh hưởng của S. Freud nhưng theo ông nếu chỉ giải thích
như S. Freud thì quá đơn giản. Theo thuyết của ông, những nhu cầu tâm lý xác định được ở con
người là những nhu cầu mà mọi người đều cảm thấy nhưng ở những mức độ khác nhau và cường
độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Tuy nhiên ông, không hề đả động trực tiếp đến vấn đề
nội dung của các nhu cầu, động cơ của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động
cơ đã gây ra hành động.
H.Murray đã xây dựng bảng phân loại các nhu cầu (gồm 20 loại nhu cầu) [17, tr.172-174].
Đây là một trong những bảng phân loại phổ biến nhất ở phương Tây. H. Murray đã chia các nhu
cầu thành nhu cầu nguyên phát và nhu cầu thứ phát. Nhu cầu nguyên phát là những nhu cầu tự
nhiên của con người với tư cách là một cơ thể sống. Nhu cầu thứ phát là loại nhu cầu đặc trưng
cho con người như là một tồn tại xã hội và bắt nguồn từ sự giao tiếp của con người. Ông còn
phân biệt những nhu cầu tường minh và nhu cầu tiềm tàng. Nhu cầu tường minh được thể hiện
tự do ra bên ngoài. Nhu cầu tiềm tàng không thể hiện trong những hành động thích ứng mà chỉ
trong tưởng tượng, trong giấc mơ và trò chơi. Ông cho rằng, nhu cầu càng ít được thỏa mãn trong
đời sống thực bao nhiêu thì nó càng giữ vị trí to lớn trong tưởng tượng bấy nhiêu.
Vào nữa cuối thế kỷ XX, có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của con người được
bổ sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của Mc. Clelland, Carl Rogers, Rom
Harré…
Mc. Clelland cho rằng động cơ thúc đẩy con người có thể hiểu theo nghóa “nhu cầu” chứ
không phải “sinh lý”. Thay vào đó Mc.Clelland nhấn mạnh tầm quan trọng của nhu cầu xã hội,



nhất là nhu cầu thành tựu và nhu cầu hội nhập. Mc. Clelland cho rằng động cơ thúc đẩy thành
tựu là lý do giải thích tại sao một số người có vẻ làm rất thành thạo trong khi người khác tỏ ra
lưỡng lự, không có vẻ thành công. [30, tr. 503-504]
Lý thuyết của Carl Rogers nhấn mạnh tầm quan trọng của khái niệm cái tôi và sự phát triển
cá nhân, cho rằng cả hai yếu tố này đều cần thiết trong việc phát triển nhân cách khỏe mạnh.
Rogers cho rằng con người ai cũng có hai nhu cầu cơ bản. Thứ nhất là nhu cầu thể hiện đầy đủ
tiềm năng của mình, mà Rogers xem là sự phấn đấu tích cực đối với sự phát triển cá nhân. Thể
hiện đầy đủ tiềm năng của mình là tạo ra những khía cạnh cái tôi có thực. Rogers xem nhu cầu
này là nhu cầu cơ bản ở mọi con người, phải được thỏa mãn nếu không sẽ sinh ra rối loạn tâm
lý. Nhu cầu thứ hai là nhu cầu tôn trọng tích cực – tình cảm thương yêu hay tôn trọng từ người
khác. Rogers xem sự phát triển nhân cách khỏe mạnh xảy ra thông qua các mối quan hệ, cung
cấp cho cá nhân sự tôn trọng tích cực không điều kiện. Ông khẳng định nếu muốn tâm lý khỏe
mạnh cả hai nhu cầu này phải được thỏa mãn. [30, tr. 505]
Rom Harré cho rằng được người khác trong xã hội tôn trọng là một tác nhân thúc đẩy quan
trọng ở con người. Chân giá trị con người cho dù xuất hiện ở đâu đều là yếu tố quyết định trong
sự tương tác ở con người. Ông cho rằng đối với con người tránh bị người khác cười hay nhìn với
vẻ chế giễu là điều quan trọng hơn các điều khác. Nhu cầu tôn trọng xã hội do Harré nhận dạng
cũng liên kết với khía cạnh động cơ thúc đẩy xã hội khác. [30, tr. 506]

1.1.2. Những nghiên cứu về nhu cầu ở Xô Viết
Dựa vào học thuyết của các tác giả kinh điển của chủ nghóa Mac –Lênin, các nhà tâm lý
học Xô Viết đã nhấn mạnh ý nghóa căn bản của nhu cầu, coi nó là động lực thúc đẩy con người
hoạt động.
Về vấn đề này, F, Anghen từng viết: “Người ta quy cho trí óc, cho sự mở mang và hoạt động
của bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội phát triển được nhanh chóng, và đáng lẽ người ta phải
giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình quyết định (mà những nhu cầu đó quả
thực đã phản ánh vào đầu óc của người ta và làm cho họ có ý thức đối với những nhu cầu đó) thì
người ta lại quen giải thích rằng hoạt động của mình là do tư duy của mình quyết định” [6, tr.
493]



Mác cũng đánh giá cao vai trò của nhu cầu trong sự tồn tại và phát triển của con người. Con
người sinh ra, để tồn tại và phát triển phải tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu của bản
thân (từ nhu cầu cấp thấp đến nhu cầu cấp cao). Việc hướng đến tìm mọi phương thức thỏa mãn
nhu cầu giúp con người ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất phục vụ cho bản thân và cho sự
phát triển của xã hội.
Trong tâm lý học Xô Viết, người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu
là D.N. Uznatze. Trong cuốn Tâm lý học đại cương xuất bản năm 1940, ông đã chú ý tới khái
niệm nhu cầu và ý nghóa của nó đối với hoạt động của cơ thể ngoài nhu cầu của con người.
Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó
phát triển tương ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất
hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu đó.
Theo D.N. Uznatze, ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu sống (nhu cầu tồn tại
– đói, khát, tình dục…) –-+ nhu cầu cấp thấp và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí
tuệ…). Trong những hành vi hàng ngày của mình, con người không chỉ mong muốn thỏa mãn
những nhu cầu cấp thấp mà còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao. Ý nghóa của các
loại nhu cầu ở những con người khác nhau là khác nhau. Ở những người này nhu cầu cấp cao có
ý nghóa nhưng ở những người khác lối sống được xác định một phần lớn bởi nhu cầu cơ thể.
Theo ông, sự trội hơn của nhu cầu cấp cao hay nhu cầu cấp thấp phụ thuộc vào hoàn cảnh sống,
vào giáo dục và ấn tượng, vào sự thể nghiệm mà con người thấy có ý nghóa.
X.L.Rubinstêin đã tạo ta một hệ thống tri thức phong phú, trong đó có lý thuyết về nhu cầu,
dựa trên quan điểm triết học Mac – Lênin. Theo ông, con người có nhu cầu sinh vật nhưng bản
chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời các vấn
đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông cho rằng, nhu cầu là một thành tố của động cơ –
“hạt nhân của nhân cách”. Với tư cách này, nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác nhau của
nhân cách – đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm tin. Tuy nhiên khi nghiên cứu về
nhân cách, ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải khám phá ra quá trình nảy sinh và những
biểu hiện của nhu cầu. Ông nhấn mạnh mối quan hệ lẫn nhau của con người với tự nhiên, đó là
mối quan hệ nhu cầu, nghóa là sự cần thiết của con người về mộït “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể
con người. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn nhu

cầu thông qua hoạt động của chủ thể. Vì vậy, theo ông, phải thống nhất các yếu tố khách quan


(thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ quan (thuộc về chủ thể – trạng thái tâm lý của chủ thể)
trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Từ quan niệm trên về nhu cầu, ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa
mang tính thụ động. Cụ thể: nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể, nhưng được
thỏa mãn hay không lại phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong những điều kiện cụ thể
(tính thụ động của nhu cầu); mặt khác, nhu cầu sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng,
phương thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu, nghóa là nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích
hoạt động (tính tích cực của nhu cầu).
Theo X.L.Rubinstêin, sự hình thành một nhu cầu cụ thể luôn luôn có sự tham gia của ý thức
ở những mức độ khác nhau và phải trải qua 3 mức độ: ý hướng, ý muốn, ý định.
Tóm lại khi xem xét một nhu cầu cụ thể của con người dưới sự tham gia của ý thức, sự
thống nhất hai yếu tố chủ quan và khách quan ta thấy ý nghóa của nhu cầu như là nguồn gốc tích
cực của nhân cách con người. Và chính sự tham gia của ý thức vào trong quá trình hình thành
nhu cầu đã làm cho nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật.
Người đi sâu phân tích bản chất tâm lý của nhu cầu hơn cả phải kể đến là A.N. Leonchiev.
Khi bàn về vấn đề nhu cầu, Leonchiev cho rằng, một nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu
cầu về một cái gì đó. Nghóa là nhu cầu phải có đối tượng (các vật thể có khả năng thỏa mãn nhu
cầu). Đối tượng này không phải xuất hiện cùng lúc và rõ rệt với các trạng thái có tính chất nhu
cầu (những ước mong, những ý muốn chủ quan của chủ thể) mà nó chỉ “phát lộ” ra trong quá
trình con người hoạt động để thỏa mãn nhu cầu. Ông viết: “nhu cầu với tính chất là một sức
mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động” [16, tr.279].
Ông cho rằng, thoạt đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như là một tiền đề của hoạt động. Con người
càng tích cực hoạt động bao nhiêu thì nhu cầu càng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả của
hoạt động (nghóa là càng tiến gần đến thỏa mãn nhu cầu). Bản thân nhu cầu không trực tiếp
thúc đẩy hành động của con người. Chỉ khi nhu cầu gặp được đối tượng đáp ứng cho nó thì nó sẽ
chuyển hóa thành động lực thúc đẩy con người hoạt động – đó là động cơ.
Khi bàn về mối liên hệ giữa nhu cầu và hoạt động, Leonchiev thiên về quan niệm cho rằng

các nhu cầu của con người đều được sản xuất ra. Điều đó có nghóa là, nhu cầu không chỉ đơn
thuần là những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hoàn toàn hoạt động của con người (nhu


cầu  hoạt động  nhu cầu) mà nhu cầu nảy sinh trong quá trình hoạt động và sau đó quay trở
lại chi phối hoạt động của con người (hoạt động  nhu cầu  hoạt động). Ông khẳng định đây
mới đúng là quan niệm macxít về nhu cầu. Ông lý giải rằng: “Chẳng phải chỉ khi nào xuất hiện
với nội dung đối tượng của nó thì nhu cầu mới mang tính chất là nhân tố quy định một hoạt động
cụ thể đó sao? Mà nội dung này thì lại không trực tiếp bao hàm trong các nhu cầu và do đó cũng
không thể suy diễn ra từ các nhu cầu ấy” [16, tr.282]
Khi xét về nguồn gốc của các nhu cầu của con người, Leonchiev không đồng ý với quan
điểm cho rằng một phần các nhu cầu của con người thì có nguồn gốc xã hội và phần còn lại thì
có nguồn gốc thuần túy sinh học (những nhu cầu chung cho con người và con vật). Ông cho đây
là sự chấp nhận một cách nữa vời nguồn gốc xã hội – lịch sử của các nhu cầu của con người và
“như vậy là lónh vực nhu cầu của con người bị phân đôi” [16,tr.283]. Ông chỉ ra nguyên nhân chủ
yếu của sự sai lầm này là do người ta chỉ xem xét “chính bản thân các nhu cầu” tách khỏi những
điều kiện vật chất của nó cũng như tách khỏi những phương thức để thỏa mãn nó và do đó cũng
tách khỏi cái hoạt động mà trong đó diễn ra sự biến hóa của nhu cầu. Ông khẳng định “sự cải
biến của lịch sử vẫn bao quát toàn bộ lónh vực các nhu cầu” [16,tr.284]. Tất cả các nhu cầu của
con người (kể cả nhu cầu bậc cao hay nhu cầu sinh tồn cơ bản) không tách rời nhau mà có mối
quan hệ với nhau. Và sự phát triển của các nhu cầu của con người bắt đầu từ chỗ con người hoạt
động để thỏa mãn những mối quan hệ này và ngược lại, con người thỏa mãn các nhu cầu sơ
đẳng của mình là để hành động. Đó cũng là con đường có tính chất nguyên tắc của sự phát triển
các nhu cầu của con người.
A .G. Kovaliov khẳng định nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu do con người cảm thấy cần được
thoả mãn để tồn tại và phát triển, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động của cá nhân.
Cũng như hầu hết các nhà tâm lý học Xô Viết khác, Kovaliov cho rằng lúc mới xuất hiện,
nhu cầu chỉ là trạng thái thiếu thốn cái gì đó, là điều kiện bên trong kích thích con người vận
động, tìm tòi không phương hướng. Chỉ khi nhu cầu gặp đối tượng có thể đáp ứng, nó mới có
khả năng hướng dẫn và điều khiển hoạt động. Lúc đó nhu cầu trở thành động cơ trực tiếp thúc

đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.


Kovaliov chia nhu cầu của con người thành hai loại cơ bản: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần. Ngoài ra còn có nhu cầu lao động, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu hoạt động xã hội – những
nhu cầu bao gồm các yếu tố của cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Kovaliov đã đưa ra năm quy tắc chung của sự hình thành và phát triển các nhu cầu [17, tr.
188]:
- Nhu cầu có thể nảy sinh, củng cố chỉ trong quá trình luyện tập có hệ thống một hoạt
động cụ thể.
- Nhu cầu được phát triển khi phương tiện thỏa mãn nhu cầu đa dạng và phong phú.
- Nhu cầu tinh thần được hình thành khi hoạt động nhằm thỏa mãn nó phù hợp (vừa sức,
đặc biệt trong giai đoạn đầu).
- Điều kiện quan trọng để phát triển các nhu cầu tinh thần là việc chuyển từ hoạt động
nhớ lại sang hoạt động sáng tạo.
- Nhu cầu được củng cố khi chủ thể ý thức được ý nghóa đối với bản thân và xã hội. Đồng
thời, việc giáo dục và dư luận tập thể cũng góp phần củng cố và phát triển nhu cầu.

1.1.3. Những nghiên cứu về nhu cầu ở Việt Nam
Hầu hết các nhà tâm lý học Việt Nam đều chịu ảnh hưởng rất lớn của tâm lý học Macxit.
Vì thế, những nghiên cứu về nhu cầu trong tâm lý học Việt Nam cũng bắt nguồn từ những luận
điểm của tâm lý học Macxit.
Khái niệm nhu cầu trong Từ điển tâm lý học của Viện Tâm lý học Việt Nam do Vũ Dũng
chủ biên được định nghóa như sau: “Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận
thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính
tích cực của cá nhân” [9, tr.190]. Nhu cầu vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Nhu cầu
của con người không ngừng phát triển, bởi vì nhu cầu luôn luôn gắn liền với lịch sử xã hội, là
một bộ phận cấu thành của nó. Nhu cầu và mục đích của con người có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Cũng giống như nhu cầu, mục đích của con người có tính ý thức chủ quan, con người tin
rằng sự thỏa mãn nhu cầu chỉ cụ thể bằng cách đạt được mục đích. Điều đó tạo cho họ khả năng

cân nhắc giữa hình dung chủ quan của họ về nhu cầu với nội dung khách quan của nó khi tìm
kiếm công cụ để đạt được mục đích tức là chiếm lónh đối tượng. Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cái


thúc đẩy con người hoạt động và động cơ trở thành hình thức thể hiện nhu cầu. Nếu trong nhu
cầu, hoạt động của con người về thực chất phụ thuộc vào nội dung xã hội – đối tượng, thì ở
động cơ, sự phụ thuộc đó được thể hiện ở tính tích cực riêng lẻ của chủ thể. Giáo dục nhu cầu là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình phát triển nhân cách.
Quan niệm của các nhà tâm lý học Việt Nam về nhu cầu thể hiện trong bộ sách Tâm lý học
do tập thể các nhà tâm lý học đầu ngành của Việt Nam biên soạn như: Phạm Minh Hạc, Phạm
Hoàng Gia, Hồ Ngọc Đại, Trần Trọng Thuỷ, Trương Anh Tuấn, Nguyễn Thị nh Tuyết, Đặng
Xuân Hoài, Lê Văn Hồng, Nguyễn Quang Uẩn, Lê Khanh… Dù mỗi tác giả có một cách lập
luận khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một quan điểm là: Nhu cầu được hiểu là sự biểu hiện
mối quan hệ tích cực của các cá nhân đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy
cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. [3, 23, 25]
Hầu hết các tác giả này đều thống nhất cách nhìn nhận về các đặc điểm cơ bản của nhu cầu
của con người:
- Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng.
- Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định.
- Nhu cầu có tính chu kỳ.
- Nhu cầu có tính ổn định.
- Nhu cầu của con người mang bản chất xã hội.
Các công trình nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu học tập ở Việt Nam gồm có: “Nghiên cứu
nhu cầu thành đạt và mối quan hệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên”- Luận văn
thạc só của Võ Thị Ngọc Châu (1999); “Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học viên só quan
quân sự trong quá trình học tập các môn toán, khoa học tự nhiên” – Luận án tiến só của Phạm
Duy Khiêm (2000); “Nghiên cứu đặc điểm nhu cầu nhận thức của học sinh kém bậc tiểu học” –
Luận án tiến só của Nguyễn Văn Lũy (2000); “Công trình nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu, nguyện
vọng và thái độ của thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường” – Công trình nghiên cứu của
tập thể tác giả Thái Duy Tuyên, Võ Tấn Quang, Lê Đức Phúc, Đặng Thành Hưng, Bùi Hồng

Yến; “Nhu cầu học tập của sinh viên sư phạm” - Luận án tiến só của tác giả Hoàng Thị Thu Haø
(2003)…


Những công trình nghiên cứu trên đều có những đóng góp nhất định trong việc làm sáng tỏ
lý luận về nhu cầu, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn khái quát hơn về nhu vầu và vị trí của
nhu cầu trong tâm lý học. Đặc biệt là công trình nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Thu Hà đã đi
sâu nghiên cứu về các mức độ của nhu cầu học tập: ý hướng, ý muốn và ý định học tập. Đề tài
này đã góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về nhu cầu học tập nói chung và nhu cầu học tập của
sinh viên sư phạm nói riêng. Đồng thời, đề tài này cũng xây dựng được một số biện pháp tá c
động sư phạm góp phần làm phát triển nhu cầu học tập của sinh viên sư phạm.

Tóm lại, có nhiều lý thuyết và quan điểm nghiên cứu về nhu cầu trong và ngoài nước. Bàn
về nhu cầu, mỗi lý thuyết đề cập có những nét riêng, song có thể nhận định khái quát về nhu
cầu như sau: Nhu cầu là sự đòi hỏi của chủ thể về một hay nhiều đối tượng nào đó cần được
thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý nằm trong cấu trúc của xu
hướng. Ban đầu nhu cầu xuất hiện chỉ là trạng thái thiếu thốn cái gì đó mà chưa rõ đối tượng
nào có khả năng thỏa mãn nhu cầu. Khi nhu cầu gặp đối tượng, lúc đó nhu cầu trở thành động
cơ trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng. Nhu cầu là nguồn gốc tính tích
cực hoạt động của cá nhân. Có nhiều cách phân loại nhu cầu tùy theo tính chất, đặc điểm, nội
dung, đối tượng, phương thức thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu của con người mang bản chất xã hội
lịch sử. Nó vận động và phát triển không ngừng cùng với sự phát triển của xã hội thông qua
hoạt động của chủ thể.
Trong các lý thuyết về nhu cầu, người nghiên cứu quan tâm nhiều đến lý thuyết về nhu cầu
của X.L. Rubinstein. Lý thuyết này đã đưa ra được 3 mức độ cơ bản của nhu cầu của con người:
ý hướng, ý muốn, ý định. Căn cứ vào 3 mức độ này chúng ta có thể ứng dụng vào việc nghiên
cứu, tìm hiểu mức độ biểu hiện của các nhu cầu của con người, đặc biệt là những nhu cầu cấp
cao như nhu cầu nhận thức, nhu cầu học tập…
1.2. LÝ LUẬN VỀ HỌC TẬP VÀ NHU CẦU HỌC TẬP CỦA GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
1.2.1. Lý luận về học tập của giáo viên tiểu học

1.2.1.1. Giáo viên tiểu học
Giáo viên


Giáo viên là những người đã trưởng thành về thể chất, xã hội và tâm lý, đã được đào tạo
và cấp bằng bởi các trường sư phạm và đang trực tiếp giảng dạy tại một trường nào đó.
Để trở thành giáo viên, trước hết họ phải hoàn thành chương trình học phổ thông (tốt
nghiệp lớp 12) hoặc ít nhất là hoàn thành chương trình trung học cơ sở (tốt nghiệp lớp 9). Sau
đó, họ phải tham gia một cuộc thi tuyển ở các trường sư phạm. Sau khi trúng tuyển, họ được đào
tạo trong thời gian tối thiểu là 2 năm đối với bậc trung cấp và tối đa là 4 năm đối với bậc đạ i
học. Trong quá trình học tập tại các trường sư phạm, họ được cung cấp những kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm cần thiết để có thể đứng trên bục giảng thực hiện các
nhiệm vụ dạy học của mình sau này. Ngoài việc học lý thuyết, họ còn được tham gia thực hành,
kiến tập, thực tập…để rèn luyện kỹ năng nghề dạy học. Sau khi kết thúc khóa học, họ phải tham
gia một kỳ thi tốt nghiệp hoặc tiến hành một luận văn tốt nghiệp tùy theo trình độ được đào tạo.
Thực hiện đầy đủ các yêu cầu trên, họ được cấp bằng sư phạm và được phân công giảng dạy tại
các trường phổ thông trong cả nước. Khi đó họ đã thực sự trở thành một người giáo viên.
Trước đây, trong tình trạng thiếu giáo viên, ở một số nơi, một số trường sư phạm ở các
tỉnh thành trong cả nước đã tuyển sinh với yêu cầu tối thiểu là tốt nghiệp lớp 9 để đào tạo giáo
viên tiểu học và giáo viên mầm non. Càng về sau này, yêu cầu đối với chất lượng giáo dục
càng cao thì tiêu chuẩn tuyển sinh cũng trở nên khắt khe hơn – tối thiểu phải có bằng tú tài.
Những giáo viên thuộc diện nêu trên, trong quá trình công tác vẫn được bồi dưỡng thường
xuyên để nâng cao tay nghề và đến nay, hầu hết đã được chuẩn hóa cho phù hợp với yêu cầu
mới của giáo dục.
Ngoài số lượng giáo viên được đào tạo trực tiếp tại các trường sư phạm ra, còn một số ít
giáo viên được đào tạo từ các nguồn khác. Họ là những người đã tốt nghiệp tại một trường đại
học, cao đẳng nào đó và tham gia một khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm được tổ chức tại các
trường đại học sư phạm. Khi có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm, họ tham gia công tác giảng dạy
và cũng trở thành người giáo viên.
Ngoài việc trực tiếp tham gia công tác giảng dạy, giáo viên còn có thể tham gia nhiều

công tác khác như: công tác quản lý, công tác đoàn đội, các công tác xã hội… Điều đó có nghóa
là, giáo viên là những người đã trưởng thành và có một vị trí nhất định trong cơ quan, trong xã


hội. Họ được hưởng những quyền lợi và thực hiện những nghóa vụ theo đúng vai trò vị trí đó của
họ.
Vị trí của người giáo viên trong xã hội
Người thầy giáo có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của Đảng và
Nhà Nước. Thầy giáo là cầu nối liền giữa nền văn hóa dân tộc và nhân loại với sự tái sản xuất
văn hóa ấy trong chính thế hệ trẻ. Hoạt động của người giáo viên nói chung cũng như hoạt động
của người giáo viên tiểu học gồm có: hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục, hoạt động tự hoàn
thiện chuyên môn nghiệp vụ và hoạt động xã hội.
Thời đại ngày nay, người giáo viên không chỉ có chức năng truyền đạt tri thức cho học
sinh mà còn có chức năng tác động tích cực đến sự hình thành nhân cách của học sinh. Người
giáo viên phải có tính tích cực công dân, có ý thức trách nhiệm xã hội, hăng hái tham gia đóng
góp cho sự phát triển của cộng đồng. Giáo viên phải có lòng yêu trẻ, hợp tác với trẻ. Nhà
trường hiện tại phải tô đậm tính nhân văn của mình, nên hoạt động của người giáo viên phải
chú ý đến mục tiêu nhân bản. Một giờ lên lớp không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ tri thức khoa
học, hình thành các kỹ năng cụ thể mà phải hướng vào việc tạo dựng, phát triển nhân cách cho
học sinh. Người thầy giáo phải làm việc với tập thể học sinh, nhưng phải chú ý đến từng học
sinh. Vì vậy cá thể hóa quá trình dạy học và giáo dục là việc làm khó khăn và đầy trách nhiệm
của người giáo viên. Thầy giáo có nhiệm vụ đào tạo hàng loạt nhân cách công dân, nhưng lại
phải vun trồng từng học sinh, làm nảy nở hết bản sắc riêng của mỗi học sinh để chúng trở thành
con người có cá tính. Do vậy, sản phẩm của nhà giáo dục không theo khuôn mẫu nhân cách cố
định. Bởi lẽ, trẻ em này khác trẻ em khác, trẻ em này không hòa tan vào trẻ em khác, nó là nó
nhưng chỉ có thể là nó khi nó ở trong xã hội trẻ em, ở trong cộng đồng.
Người giáo viên trong xã hội hiện đại không phải dạy cái gì mà thầy thích, mà phải dạy
cho học trò cái mà hiện đại yêu cầu, cái mà xã hội đòi hỏi. Giáo viên phải là người đại diện cho
trí tuệ thời đại. Ngày nay không cho phép “hơn một chữ đã là thầy”, nếu thầy bị “lão hóa kiến
thức” thì thầy sẽ bị đào thải ra khỏi đội ngũ. Thời xa xưa, giáo viên chỉ học một lần là dùng đủ

cho cả đời. Nhưng ngày nay, giáo viên không chỉ được đào tạo cao về khoa học tự nhiên, khoa
học ứng dụng, khoa học xã hội mà phải được chú trọng đào tạo về các khoa học nhân văn, khoa
học nghiệp vụ. Đồng thời, người giáo viên phải học suốt đời.


Những đặc điểm nhân cách chủ yếu của người giáo viên
Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và
giá trị tinh thần của mỗi con người. Nhân cách của mỗi người có những nét đặc trưng riêng,
không lặp lại ở người khác. Mặc dù vậy, nhờ mang tính xã hội nên những nhóm người, những
tập thể sống trong cùng một cộng đồng, cùng một môi trường có những nét tương đồng nhau,
ảnh hưởng lẫn nhau về nhân cách.
Trong xã hội, mỗi lónh vực nghề nghiệp khác nhau có những yêu cầu đặc trưng về nhân
cách cho những người hoạt động trong lónh vực nghề nghiệp đó. Nghề dạy học cũng đòi hỏi
người giáo viên phải có những nét nhân cách đặc trưng cho nghề này. Đối với những ngành
nghề khác trong xã hội, nghề dạy học là nghề đòi hỏi cao về sự trao dồi nhân cách đối với
những người giáo viên. Bởi vì, đây là nghề “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Nói cách
khác, công cụ của nghề dạy học chính là nhân cách của người giáo viên và sản phẩm mà họ tạo
ra là nhân cách của học sinh – những công dân tương lai của đất nước.
Chính vì những lẽ trên, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên phải có
những nét nhân cách đặc trưng sau:
Phẩm chất của người giáo viên
+ Người giáo viên phải có thế giới quan khoa học. Đó là thế giới quan duy vật biện
chứng, bao hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Thế giới quan duy vật biện chứng là kim chỉ nam giúp cho người giáo viên đi tiên
phong trong đội ngũ những người xây dựng xã hội chủ nghóa, xây dựng niềm tin cho thế hệ đang
lớn lên.
+ Người giáo viên phải có lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Đây là hạt nhân trong cấu trúc
nhân cách người giáo viên. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người giáo viên biểu hiện ra bên
ngoài bằng lòng say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hy sinh với
công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân tình…Những cái đó

tạo nên sức mạnh giúp người giáo viên vượt qua mọi khó khăn về tinh thần và vật chất, hoàn
thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ.


+ Người giáo viên phải có lòng yêu trẻ. Đây là một phẩm chất đạo đức đặc trưng, cao quý
trong nhân cách người giáo viên. Lòng yêu trẻ càng sâu sắc bao nhiêu thì càng làm được nhiều
việc vì thế hệ trẻ bấy nhiêu. Lòng yêu trẻ của người giáo viên được thể hiện ở sự vui sướng khi
được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ; ở thái độ quan tâm đầy thiện ý và
ân cần đối với trẻ; ở tinh thần giúp đỡ trẻ bằng ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của mình
một cách chân thành và giản dị…
+ Người giáo viên phải có lòng yêu nghề, yêu lao động sư phạm. “Càng yêu người bao
nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu”. Lòng yêu nghề thể hiện ở tinh thần làm việc trách nhiệm
cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thỏa mãn với trình độ hiểu biết và tay
nghề của mình.
+ Ngoài ra, người giáo viên còn phải có những phẩm chất đạo đức và những phẩm chất ý
chí đặc trưng như: tinh thần nghóa vụ, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân đạo, thái độ tôn trọng,
công bằng, chính trực, tính tình ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn, tính mục đích, tính kỷ luật, tính
tổ chức…
Năng lực sư phạm của người giáo viên
+ Người giáo viên trước hết phải có năng lực dạy học. Năng lực dạy học bao gồm: năng
lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục; tri thức và tầm hiểu biết rộng; năng lực
chế biến tài liệu học tập; nắm vững kỹ thuật dạy học; năng lực ngôn ngữ…
+ Người giáo viên còn phải có năng lực giáo dục bởi người thầy không chỉ “dạy chữ” mà
còn “dạy người”. Năng lực giáo dục bao gồm: năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học
sinh; năng lực giao tiếp sư phạm; năng lực cảm hóa học sinh; năng lực đối xử khéo léo sư
phạm…
+ Ngoài ra, người giáo viên còn phải có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm bởi người
giáo viên vừa là người tổ chức lao động cho cá nhân và tập thể học sinh trong những điều kiện
sư phạm khác nhau, vừa là hạt nhân để gắn học sinh thành một tập thể, vừa là người tuyên
truyền và liên kết phối hợp các lực lượng giáo dục. Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm của

người giáo viên thể hiện ở: việc tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập; biết
đoàn kết học sinh thành một tập thể thống nhất, lành mạnh, có kỹ luật, có nề nếp; biết tổ chức


và vận động nhân dân, cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục
theo một mục tiêu xác định;…
Để có được những phẩm chất và năng lực đặc trưng cho nghề sư phạm nói trên, người
giáo viên phải tích cực học tập và rèn luyện trong suốt những năm tháng học tập từ phổ thông
đến chuyên nghiệp và còn tiếp tục học và tự học trong suốt những năm tháng tham gia công tác
dạy học. Có như vậy họ mới có thể đứng vững với nghề, mới thực hiện đầy đủ nhiệm vụ mà xã
hội giao phó cho người giáo viên.
Giáo viên tiểu học
Giáo viên tiểu học là những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tại các trường tiểu học. Họ
là những người bằng chính nhân cách của mình góp phần đặt nền móng cho sự phát triển nhân
cách của thế hệ trẻ. Giáo viên tiểu học được ví là những người thầy “đầu tiên”, những người thầy
“tổng thể” bởi chính tính chất nghề của họ.
Trong giai đoạn hiện nay, khi giáo dục Việt Nam đang có những thay đổi lớn, thì người
giáo viên tiểu học cũng đang đứng trước những nhiệm vụ và thử thách to lớn và đầy trách
nhiệm: xây dựng một bậc tiểu học vững chắc, bảo đảm cho trẻ em học tập tốt bậc học nền tảng
này.
Nhà trường nói chung, nhà trường tiểu học nói riêng được xây dựng vì học sinh, nhưng
nhà trường bắt đầu từ người giáo viên. Người giáo viên giữ vai trò quyết định đối với chất lượng
và hiệu quả giáo dục. Trong thời kỳ này, người giáo viên không chỉ là người truyền đạt kiến
thức cho học sinh, mà phải là người hướng dẫn mọi hoạt động của trẻ nhằm hình thành và phát
triển nhân cách theo yêu cầu của mục đích giáo dục. Vai trò này càng quan trọng đối với người
giáo viên tiểu học, bởi học sinh tiểu học còn rất bỡ ngỡ với môi trường sinh hoạt mới và với
nghóa vụ học tập mới. Sự tác động của người giáo viên tiểu học không chỉ ảnh hưởng đến cuộc
sống học đường của trẻ mà còn có một dấu ấn lâu dài trong cả cuộc đời các em.
Xét dưới góc độ xã hội, giáo viên tiểu học là viên chức chuyên môn, nghiệp vụ chịu
trách nhiệm giảng dạy, tạo điều kiện để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc

tiếp thu kiến thức các môn học và thực hiện công tác giáo dục toàn diện đối với học sinh tiểu
học theo đúng chương trình kế hoạch của cơ quan quản lý giáo dục các cấp quy ñònh.


Giáo viên tiểu học có các nhiệm vụ cơ bản là: thực hiện công tác giảng dạy và giáo dục
học sinh; tham gia học tập, bồi dưỡng và sinh hoạt các chuyên đề nhằm không ngừng nâng cao
năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; phấn đấu rèn luyện để đạt chuâån giáo viên tiểu học
đáp ứng yêu cầu về chất lượng giảng dạy và chất lượng giáo dục; tham gia các hoạt động công
tác xã hội…
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, đòi hỏi người giáo viên tiểu học phải không ngừng
học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bằng mọi hình thức.
Đặc điểm nghề của người giáo viên tiểu học
Từ cách nhìn nhận về người giáo viên nói chung, ta có thể thấy người giáo viên tiểu học
có những đặc điểm riêng:
+ Đối tượng lao động trực tiếp của người giáo viên tiểu học là trẻ em trong độ tuổi từ 6
đến 11 – 12 tuổi. Các em học sinh có quy luật phát triển tâm sinh lý riêng. Đây là lứa tuổi đang
tiềm ẩn khả năng rất lớn. Do đó, người giáo viên phải có tình yêu thương, lòng tin và sự tôn
trọng đối với trẻ em, đối xử công bằng, dân chủ, lạc quan và tế nhị, mềm dẻo nhưng lại kiên
quyết.
+ Công cụ lao động của người giáo viên tiểu học là trí tuệ và phẩm chất của mình. Người
giáo viên dùng trí tuệ của mình để tác động vào đối tượng, đặc biệt là trí tuệ học sinh, dùng
nhân cách của mình để tác động lên nhân cách đang còn non trẻ, đang cần rèn luyện của học
sinh. Công cụ này sẽ tác động có hiệu quả khi người giáo viên có uy tín cao.
+ Vì mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành, khả năng phát triển còn bỏ
ngỏ, sự phát triển lại rất nhanh chóng nên lao động của người giáo viên tiểu học không cho
phép máy móc, rập khuôn. Mà đòi hỏi phải có nội dung phong phú, cách thức tiến hành sáng
tạo trong quá trình dạy học và giáo dục học sinh.
+ Đặc điểm công việc của người giáo viên tiểu học thể hiện ở hoạt động xây dựng, tức là
việc thiết kế, lựa chọn, chế biến nội dung dạy học và giáo dục cũng như hoạt động của người
giáo viên và học sinh. Hoạt động này mang đặc điểm khác với giáo viên ở cấp học khác là khối

lượng công việc rất lớn. Một người giáo viên tiểu học phải soạn thảo, chế biến rất nhiều giáo


án. Mỗi bộ môn là một giáo án. Do đó đòi hỏi người giáo viên tiểu học phải có trình độ tri thức
tổng quát cao, có khả năng điều hòa và phân phối thời gian hợp lý, một bộ óc tư duy sáng tạo.
+ Đặc điểm công việc của người giáo viên tiểu học còn thể hiện qua hoạt động tổ chức,
nó bao gồm nhiều yếu tố đòi hòi người giáo viên tiểu học phải thực hiện đó là việc phân tích
hiện trạng vấn đề liên quan đến học sinh tiểu học, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học,
đề ra mục đích, xác định nhiệm vụ và con đường, lập kế hoạch tiến hành công việc thiết kế bài
dạy và tổ chức thực hiện, chỉ dẫn, giúp đỡ, khuyến khích, động viên, kiểm tra, điều chỉnh, phân
tích, đánh giá tiến trình, kết quả công việc của học sinh và của bản thân. Do đó, bản thân người
giáo viên tiểu học cần tự nhận thức rõ về vai trò, nhiệm vụ, tầm quan trọng và khối lượng công
việc của mình để tạo tâm thế và tính sẵn sàng làm việc.
Hiệu quả của hoạt động dạy học và giáo dục của người giáo viên tiểu học phụ thuộc vào
những phẩm chất và năng lực của người giáo viên. Đòi hỏi bản thân người giáo viên tiểu học
cần rèn luyện để trở thành người giáo viên mẫu mực cho tương lai, làm tấm gương sáng cho
những nhân cách đang non nớt nhưng phát triển nhanh và mạnh về mọi mặt.
1.2.1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của giáo viên tiểu học
Hoạt động là sự tương tác tích cực của chủ thể với đối tượng, nhằm biến đổi đối tượng
theo mục tiêu mà chủ thể tự giác đặt ra, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Theo nghóa này thì
hoạt động là nội dung cuộc sống của con người, là phương thức của sự tồn tại và phát triển của
con người. Thật vậy, quá trình sống của con người là quá trình con người luôn tác động vào cá c
đối tượng xung quanh, cải biến chúng thành những sản phẩm, nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày
càng phát triển của mình. Con người muốn trở thành nhân cách bắt buộc phải tái tạo trong bản
thân kinh nghiệm xã hội – lịch sử do các thế hệ trước đã tích lũy được bằng chính hoạt động của
mình. Như vậy, hoạt động giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong sự hình thành và phát triển tâm
lý của con người.
Hoạt động chính yếu của người giáo viên nói chung và người giáo viên tiểu học nói riêng
là hoạt động dạy học. Đây là hoạt động chuyên biệt của người lớn (người được đào tạo nghề
dạy học) tổ chức và điều khiển hoạt động của trò nhằm giúp chúng lónh hội nền văn hoá xã hội,

tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Tuy nhiên, như đã nói, giáo viên tiểu học là
những người đã trưởng thành, đã tham gia học tập từ phổ thông đến chuyên nghiệp và đang


hành nghề sư phạm với những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được trong quá trình học tập trên.
Nhưng không dừng lại ở đó, muốn làm tốt công tác của mình họ phải không ngừng học tập, rèn
luyện. Như vậy, ngoài hoạt động chính là dạy học, họ còn phải tham gia hoạt động học tập.
Hoạt động học tập là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự
giác là lónh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng
hoạt động nhất định. Khác với những đối tượng khác (học sinh – sinh viên), đối với người giáo
viên, hoạt động học tập không còn là hoạt động chính yếu, cơ bản, chiếm hầu hết thời gian của
họ mà chỉ là một trong những hoạt động đa dạng, phong phú của họ mà thôi. Tuy nhiên, nó lại
là một hoạt động quan trọng, không thể thiếu để đảm bảo cho người giáo viên tiểu học có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nói cách khác, hoạt động học tập của giáo viên là một loại
hoạt động nhận thức cơ bản của giáo viên, được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau (các
lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, các lớp tại chức, học từ xa, tự học…) nhằm củng cố và
bổ sung hệ thống kiến thức và kỹ năng nghề sư phạm, làm cơ sở nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và hoàn thiện nhân cách của người giáo viên.
Hoạt động học tập của giáo viên mang những đặc điểm đặc trưng sau:
+ Tính cập nhật cao: những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy trước đây không đủ để người
giáo viên sử dụng hết quãng đời dạy học của mình. Trong khi đó, xã hội ngày càng phát triển,
khoa học – kỹ thuật ngày càng hiện đại, kiến thức nhân loại ngày càng phong phú, đòi hỏi của
xã hội đối với con người ngày càng cao, nếu không học tập, cập nhật kịp thời, họ sẽ trở nên lạc
hậu với thời cuộc, không đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng cao của học sinh. Vả lại, xu hướng
hiện nay là áp dụng những tiến bộ mới của khoa học – kỹ thuật, tin học hiện đại…vào trong giáo
dục và dạy học. Chính điều này càng làm cho hoạt động học tập của người giáo viên phải luôn
cập nhật.
+ Tính độc lập: không giống như hoạt động học tập của học sinh – sinh viên, hoạt
động học tập của người giáo viên phải luôn độc lập, tích cực. Yếu tố tự học, tự kiểm tra đánh
giá được đặt lên hàng đầu. Hướng dẫn của giảng viên chỉ mang tính gợi mở, định hướng. Giáo

viên là những người đã trưởng thành. Họ tham gia hoạt động học tập với mục đích rõ ràng, cụ
thể, không còn mơ hồ như trước đây. Họ vừa tham gia giảng dạy, vừa tham gia học tập. Họ học
những gì mà họ còn thiếu, những gì mà họ đang cần, học sinh họ đang cần và sẽ cần.


+ Tính sáng tạo: là mức độ biểu hiện cao của trí tuệ, là nguồn gốc của tài năng và của
mọi thành tựu trong các lónh vực hoạt động của con người. Nó thể hiện ở chỗ luôn tìm tòi cá i
mới, không đi theo “lối mòn”, dũng cảm chấp nhận rủi ro và thất bại. Bất cứ ngành nghề nào
cũng cần sáng tạo thì mới đạt chất lượng và hiệu quả cao. Nghề dạy học cũng là một nghề sáng
tạo. Người giáo viên phải có tính sáng tạo để hoạt động dạy học và giáo dục đạt hiệu quả cao.
Tính sáng tạo thể hiện trong tất cả các hoạt động của người giáo viên, trong đó có hoạt động
học tập. Tính sáng tạo trong hoạt động học tập của người giáo viên thể hiện ở chỗ biết biến
những kiến thức được học, đã được cập nhật phù hợp với yêu cầu dạy học, không rập khuôn,
giáo điều.
+ Gắn với thực tiễn dạy học: nếu học sinh – sinh viên học tập nhằm tiếp thu những kiến
thức lý thuyết để sau đó mang áp dụng vào thực tiễn thì hoạt động học tập của người giáo viên
không chỉ thế. Ngoài việc tiếp thu những kiến thức mới, những kiến thức bổ sung họ còn có thể
đối chiếu thực tiễn dạy học với những gì họ được tiếp thu. Bởi họ đã tham gia hoạt động dạy
học, đã cọ sát với thực tiễn dạy học, họ biết cái gì cần và cái gì không cần, cái nào phù hợp và
cái nào không phù hợp với quá trình dạy học. Điều này làm cho sự tiếp thu của họ mang tính
chọn lọc cao.
Từ những đặc điểm trên, ta có thể khẳng định: Hoạt động học tập của giáo viên tiểu
học là hoạt động nhằm củng cố và bổ sung hệ thống kiến thức, kỹ năng về chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm phù hợp với bậc tiểu học, nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của người giáo
viên tiểu học.
1.2.2. Lý luận về nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học
1.2.2.1. Nhu cầu
Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu với tư cách là một hiện tượng tâm lý, chi phối mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống
tâm lý con người. Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nào đó. Nhu

cầu của con người là biểu hiện của xu hướng và ước muốn, nguyện vọng đòi hỏi cần được thỏa
mãn để sống và hoạt động. Ngoài chức năng định hướng, nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu còn
là yếu tố kích thích bên trong, là nguồn gốc của tính tích cực và óc sáng tạo, là động cơ thúc đẩy
con người hoạt động.


Nhu cầu như một thuộc tính của sinh vật, đặc biệt là ở loài người, nhu cầu luôn luôn được
nảy sinh, mở rộng và ngày càng nâng cấp. Mỗi xã hội, mỗi thời kỳ, mỗi con người do những
điều kiện lịch sử xã hội quy định và trình độ phát triển của xã hội cũng như của con người, các
nhu cầu của cuộc sống là hết sức cụ thể và có tính lịch sử. Người hiện đại có nhu cầu khác với
người nguyên thủy, trẻ em có nhu cầu khác với người lớn, nhu cầu ở tuổi thanh niên khác với
người nhiều tuổi hoặc nhu cầu của giới nữ khác giới nam. Con người trong mỗi giai tầng xã hội
cũng có những nhu cầu khác nhau, như nhu cầu của người trí thức khác với nhu cầu của người
nông dân lao động. Nhu cầu của con người ở các vùng, các miền do điều kiện phát triển khác
nhau mà mức độ nhu cầu cũng khác nhau.
Nhu cầu là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hoạt động nhằm tìm phương
thức thỏa mãn nhu cầu. Trong xã hội hiên nay, chúng ta cần phải có cách nhìn nhận, xác định
đúng đắn các nhu cầu cơ bản, cấp bách, trước mắt và lâu dài trong các hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội, những nhu cầu xã hội nói chung cũng như những nhu cầu cá nhân cụ thể nói riêng để
tạo động lực cho sự phát triển xã hội.
Tóm lại, nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu của cá nhân cần thỏa mãn để tồn tại và phát
triển. Nhu cầu xuất hiện trong quá trình con người hoạt động tác động vào thế giới khách quan
và là nguồn gốc của tính tích cực và óc sáng tạo trong hoạt động của con người.
Đặc điểm nhu cầu
Tính đối tượng
Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng, khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả
năng thỏa mãn nó thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới
đối tượng. Tuy nhiên, sự tồn tại của đối tượng ấy trong tâm lý cá nhân có thể có nhiều mức độ
khác nhau. Ở mức thấp, đối tượng có thể còn “mơ hồ” chưa được xác định thật cụ thể. Ở mức
cao hơn, đối tượng của nhu cầu được phản ánh trong óc người mang nhu cầu một cách cụ thể

hơn. Cuối cùng, đối tượng của nhu cầu có thể được nhận thức về mặt đặc trưng và về ý nghóa
của nó đối với đời sống cá nhân. Chính nhờ sự tồn tại đối tượng của nhu cầu trong tâm lý cá
nhân mà cá nhân định hướng được hoạt động của mình trong môi trường.
Phương thức thỏa mãn nhu cầu


×