Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

bài tập lớn môn lịch sử văn minh thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.41 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----oOo-----

BÀI TẬP LỚN
MÔN: Lịch sử văn minh thế giới
ĐỀ BÀI: Ảnh hưởng của Nho giáo trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, nghe
thuật trong nền văn minh Trung Quốc thời trung đại”

HỌ VÀ TÊN
LỚP
MSSV

:
:
:

Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................2
NỘI DUNG................................................................................................................2
1


1. Khái quát về Nho giáo Trung Quốc...................................................................2
1.1. Định nghĩa Nho giáo.......................................................................................2
1.2. Sự hình thành và các giai đoạn phát triển Nho giáo.......................................3
1.2.1. Sự hình thành...............................................................................................3
1.2.2. Lịch sử phát triển Nho giáo tại Trung Quốc................................................3
2. Ảnh hưởng của Nho giáo trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, nghệ thuật
trong nền văn minh Trung Quốc thời trung đại......................................................6
2.1. Ảnh hưởng tích cực của nho giáo đến trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc.....7


2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đến trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc....9
KẾT LUẬN..............................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................11

2


MỞ ĐẦU
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã
hơn 2.500 năm. Trong suốt chiều dài lịch sử, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều
nước phương Đơng, trong đó có Việt Nam. Đi sâu vào vấn đề này, em xin chọn đề
bài số 2: “Ảnh hưởng của Nho giáo trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, nghe
thuật trong nền văn minh Trung Quốc thời trung đại”
NỘI DUNG
1. Khái quát về Nho giáo Trung Quốc
1.1. Định nghĩa Nho giáo
Chữ “nho” theo Hán tự là do chữ nhân (人) và chữ nhu人人人ghép lại mà thành.
Nhân là người, nhu là cần dùng hay cịn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức
chờ đợi người ta cần dùng và gọi đến thì đem tài sức ra giúp đời. Hiểu được nghĩa
của chữ “nho” thì hiểu được rằng: “Nhà Nho là những hạng người học thông đạo lý
của Thánh Hiền, biết được lẽ Trời Đất và Người, để hướng dẫn người phải ăn ở và
cư xử thế nào cho hợp với Đạo Trời, hợp với lịng người”.
Sách Pháp Ngơn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho” nghĩa là: Người
biết rõ cả Thiên văn, Địa lý, thì mới gọi là Nho. Phàm những nhà Nho học thì
chuyên về mặt áp dụng thực tế, chứ không chú trọng nhiều về mặt lý tưởng. Bởi
vậy, từ xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời,
làm ích nước lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ Phật giáo hay Lão giáo, họ chỉ thiên
về việc lo tu độc thiện kỳ thân hay việc xuất thế.
Chữ “giáo” là dạy, tôn giáo hay một mối đạo. Như vậy, Nho giáo được hiểu
là một tôn giáo hay một học thuyết có một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết

lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của
ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị, có phương pháp, dạy về
Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm người trong gia đình xã hội. Hệ thống của Nho
3


giáo theo chủ nghĩa: “ Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và
muôn vật đều đồng một thể với nhau.
Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu
hành làm căn bản. Học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu:
Thứ nhất về tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng “Thiên Nhân tương dữ”, nghĩa
là: Trời và người tương quan với nhau.
Thứ hai về thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.
Thứ ba về trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
1.2. Sự hình thành và các giai đoạn phát triển Nho giáo
1.2.1. Sự hình thành
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu (từ thế kỷ 17 - 771
TCN), đặc biệt với sự đóng góp của Chu Cơng Đán, cịn gọi là Chu Cơng. Đến thời
Xn Thu (từ 722 - 481 TCN) xã hội loạn lạc, khoảng cuối thời nhà Châu, đời vua
Linh Vương, có Khổng Tử (551-479 TCN) tên là Khâu, tê tự là Trọng Ni, là người
ấp Tâu (nay là thành phố Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông) thuộc nước Lỗ. Ông là người
đã chỉnh đốn và phát triển tư tưởng của Chu Cơng, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho
giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mâu Ni,
Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách
trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ơng bằng các ghi chép do các học trị
của ông để lại.
Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần,vào khoảng hai
trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời, khiến cho việc tìm hiểu tư tưởng gốc của

Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm
hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.
4


Nho giáo hình thành và phát triển qua năm thời kỳ: Nho giáo thời kỳ nguyên
thủy (Tiên Tần), Hán Nho, Tống Nho, Nho giáo trong thế kỷ XX và thời kỳ cuối là
giai đoạn phục hưng Nho giai đến nay. Sau này tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn
từ thời Hán Vũ Đế (thời kỳ thứ hai: Hán Nho), trở thành hệ tư tưởng chính thống cả
về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho
giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều
Tiên và Việt Nam.
1.2.2. Lịch sử phát triển Nho giáo tại Trung Quốc
Thời kỳ Tiên Tần Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải
thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân
Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường
được gọi là Ngũ kinh. Tư tưởng quan trọng của Khổng Tử thực tế chỉ là một chữ
“Nhân”, ý nghĩa của chữ này bao gồm mọi đạo đức tốt đẹp. “Nhân” là gì? Khổng
Tử nói: “Nhân giả ái nhân”, có nghĩa là con người yêu thương lẫn nhau. Yêu
thương bằng cách nào? Là “suy kỉ cập nhân”, vừa là “kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ
dục đạt nhi đạt nhân”, nhường điều có lợi mà mình muốn có cho người khác; vừa là
“kỉ sử bất dục, vật thi vu nhân”, thứ mà bản thân mình khơng muốn có và việc
mình khơng muốn làm thì khoog nên miễn cưỡng gán cho người khác. Người có
“Nhân” thì phải “cư sử cung,chấp sự kính, dữ nhân trung”, cần phải “ngôn trung
tín,hành đốc kính”. Nếu như làm được những 4 điều này thì “chí sĩ nhân dân, vô
cầu sinh nhĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân”. Làm được như vậy thì mỗi
người sẽ có được nhân cách lý tưởng. Khổng Tử đã thể hiện được sự đối xử bình
đẳng, tơn trọng người khác và sự theo đuổi nhân cách đạo đức hoàn thiện, đây là sự
thể hiện rõ ràng về “tư tưởng chủ nghĩa nhân bản”. Khổng Tử mất, học trò của ông
tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử

là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng
Tử là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các
5


tư tưởng mà sau này học trị của ơng chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến
Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo thời kỳ Tiên Tần (trước đời Tần), Khổng giáo
hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
Thời kỳ Hán Nho (111- 87 trước Công nguyên) Dưới đời vua Hán Vũ Đế,
Nho giáo chiếm vị trí độc tôn và được dùng như là một công cụ thống nhất đất
nước về mặt tư tưởng. Cũng từ đây mà Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến của Trung Quốc. Đến thời kỳ này, Nho giáo có rất
nhiều điểm khác biệt so với Nho giáo Tiên Tần. Đó là đề cao quyền lực của giai cấp
thống trị, đồng thời Hán Nho đã thay thế cho tên gọi Nho giáo lúc trước. Trong vấn
đề tư tưởng triết học Nho giáo và chính trị, có hai học thuyết đáng chú ý nhất là: “
Trời trao chính quyền” và “ Trời và người có thể thơng quan nhau, hiểu biết lẫn
nhau” ( thiên nhân tương dữ). Đổng Trọng Thư cho rằng mọi hiên tượng tự nhiên
xã hội và trật tự của nó đều xuất phát và được sắp đặt theo ý Trời, thân thể và ý
thức của con người đều do thượng đế ban cho, chính vì vậy mà mọi hoạt động tốt
xấu của giai cấp thống trị dưới trần thế đều sẽ được nhận lại những điều tương ứng.
Thời Kỳ Tống Nho (960-1297) Thời kỳ này, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng
chủ yếu của phong kiến Trung Quốc. Nhưng cũng trong thời gian này, Phật giáo và
Đạo giáo đã bắt đầu có ảnh hưởng ở Trung Quốc, chính vì vậy mà các nhà Nho đã
tiếp thu những tu tưởng triết học của Phật giáo và vũ trụ quan của Đạo giáo để bổ
sung cho triết lý Nho giáo thêm phần sâu sắc. Đặc điểm chung của các nhà Nho
thời Tống đó là giải thích vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất
mà Nho học gọi là lý và khí. Những nhân vật tiêu biểu của Phái lý học là Chu Đơn
Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy…
Nho giáo trong thế kỷ XX Với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất
vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970

khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trung Quốc đứng
6


trước sự suy thoái của đạo đức xã hội. - Nho giáo Trung Quốc từ 1911 đến 1915 Có
thể nói đây là thời kỳ chuyển giao thời đại, thời kỳ Nho giáo chịu những tác động
mạnh mẽ nhất, mở ra thể chế mới và gạt bỏ tất yếu vị thế của Nho giáo.
Từ cách mạng Tân Hợi đến Ngũ tứ vận động, Nho học chịu ba lần tấn công
dữ dội, đó là: Q trình xác lập hiến pháp mới, nền chính trị mới, nền giáo dục mới
đã kết thúc vị trí hiển học quan phương chính thống mà Nho học đã từng có suốt
mấy nghìn năm; việc phê phán phong trào khôi phục nền đế chế của Viên Thế Khải
do ông lợi dụng Nho học làm chỗ dựa tư tưởng để khôi phục nền đế chế; cuối cũng
là phong trào Tân văn hóa vận động, phê phán Nho giáo ở tầng học thuật chiều sâu.
- Nho giáo Trung Quốc 1921- 1927 Ở Trung Quốc thời kỳ này xuất hiện 3
kiểu thái độ đối với Nho học, tạo thành 3 xu thế tư tưởng chính. Đó là: Thái độ chủ
trương phê bình Nho giáo; tư tưởng thừa kế những thành tựu của Nho học; tư tưởng
dùng học thuyết Nho giáo làm cơ sở giải thích chủ nghĩ Tam dân.
- Nho giáo giai đoạn 1927- 1936 Có bốn tư trào liên quan đến Nho học. Đó
là, (1) Quốc dân đảng lợi dụng Nho học với nội dung như: Tưởng Giới Thạch đề
cao Nho học là gốc của việc lập quốc; “ Phong trào đời sống mới” với Nho học;
Nho học trong “ Duy sinh luận” của Trần Lập Phu; (2) Tư tưởng và hoạt động phục
hưng Nho học của Lương Thấu Minh và Hùng Thập Lực;(3) Phùng Hữu Lan lý
giải Nho học bằng phương pháp của giai cấp tư sản phương Tây qua tác phẩm
Trung Quốc triết học sử; (4) Quách Mạt Nhược, Lữ Chấn Vũ bình giá Nho học
bằng quan niệm duy vật lịch sử. - Nho giáo giai đoạn 1937 – 1949 Quốc Dân đảng
lợi dụng Nho học để duy trì sự thống trị của mình, đặc biệt trong thời gian kháng
chiến chống Nhật, thông qua Cương lĩnh Kháng chiến kiến quốc với quy dịnh “chú
trọng đến việc tu dưỡng đạo dức quốc dân”. Tưởng Giới Thạch lợi dụng những mặt
bảo thủ của Nho học để ngăn chặn sự truyền bá tư tưởng tự do dân chủ và tư tưởng
khoa học xã hội chủ nghĩa tại Trung Quốc. Đây cũng là thời kỳ, Tiền Mục, Phùng

7


Hữu Lan, Hạ Lân, Lương Thấu Minh đưa ra các tư tưởng, ấn phẩm nhằm phát huy
Nho giáo truyền thống. Phương châm “ phê phán và kế thừa” của Mao Trạch Đông
và sự phân tích của ông về Nho gia, để xây dựng nền văn hóa mới của chủ nghĩa
dân chủ mới.
- Nho giáo giai đoạn từ 1950- 1976 Đây là thời kỳ sau khi Đảng Cộng sản
Trung Quốc giành được quyền lực, và có thể coi đây là thời kỳ mà Đảng cộng sản
đã tập trung nguồn lực đất nước vào việc phá hủy nền văn hóa truyền thống thơng
qua việc “ cách mạng hóa”, khiến con người ta xa rời các giá trị truyền thống, lao
vào cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ gia đình hồng tộc, việc sử dụng các
thủ đoạn âm mưu, và việc thực hiện chế độ độc tài chuyên quyền, và tạo ra một ấn
tượng sai lầm là “ văn hóa Đảng” là một sự kế thừa của văn hóa truyền thống Trung
Quốc, thậm chí cịn lợi dụng nó để kích động việc từ bỏ văn hóa truyền thống
Trung Quốc đích thực. Truyền thống lâu đời của văn hóa Trung Quốc – dựa trên tín
ngưỡng và tôn trọng đạo đức và Nho giáo cùng với Đạo giáo và Phật giáo cũng vì
vậy mà ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân Trung Quốc. Đảng tiến hành
cùng một lúc tiêu diệt Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo bằng cách phá hủy các văn
vật, phá hủy các tín ngưỡng tinh thần.
Thời kỳ phục hưng Nho giáo đến nay Đến đầu thế kỷ 21, đứng trước sự suy
thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con
người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước
Đông Á. Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đơng Á,
nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo
quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và
Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã
kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế.

8



2. Ảnh hưởng của Nho giáo trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, nghệ thuật

trong nền văn minh Trung Quốc thời trung đại
Nho giáo được sinh ra từ Trung Quốc, cho nên Nho giáo tại Trung Quốc
không phải trải qua giai đoạn du nhập, càng khơng có sự lựa chọn tiếp thu những
cái hay từ Nho giáo như ở Nhật Bản. Ở một đất nước đa dạng về tôn giáo như
Trung Quốc mà hệ tư tưởng chính trị - đạo đức của Nho giáo lại được nhiều triều
đại phong kiến Trung Quốc, cũng như những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc tơn trọng và áp dụng để cai quản đất nước, duy trì sự tồn tại và thịnh
vượng của triều đại. Từ đó có thể thấy, Nho giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới
chính trị, pháp luật, nghệ thuật như sau:
a. Ảnh hưởng đến đời sống chính trị:
+ Nguyên tắc tổ chức – hình thức Nhà nước: Quan điểm chính trị pháp lý của
Nho giáo là các quan điểm Pháp Tiên Vương, Chính danh, Thiên mệnh, Tôn Quân
quyền và Đức trị. Mà nguyên tắc cơ bản nhất là nguyên tắc Tơn qn quyền có
nghĩa là quyền lực tập trung cao trong tay nhà vua chính vì vậy nó quyết định hình
thức chính thể là qn chủ chuyên chế. Nhà vua được coi là thiên tử, do tư tưởng
thiên mệnh của nho giáo. Nhà vua có các quyền lực đó là vương quyền và thần
quyền.
+ Đội ngũ giúp việc cho nhà vua: xuất phát từ quan điểm của nho giáo các
quan chức và lạc viên được tuyển chọn thơng qua hình thức khoa cử để chọn người
có tài, có đức. Những người bất hiếu, con của những người làm nghề cá kỹ sẽ
không được dự các kỳ thi.
b. Ảnh hưởng đến pháp luật:
+ Nguồn hình thành pháp luật phong kiến Trung Quốc: Các lễ nghi Nho giáo
được thể chế hóa vào các quy định của pháp luật

9



+ Nội dung: pháp luật của Trung Quốc là pháp luật Nho giáo hướng đến duy
trì bảo vệ một trật tự gia đình, xã hội và quốc gia của Nho giáo.
c. Ảnh hưởng đến văn học:
+ Nội dung văn học: tác phẩm Tam quốc chí diễn nghĩa nói về tư tưởng
Thiên mệnh, tư tưởng Thiên nhân cảm ứng thông qua tác phẩm Động ngao oan. Tư
tưởng của Nho giáo cũng ảnh hưởng đến cách thức xây dựng hình tượng văn học:
người phụ nữ luôn là các liệt nữ, chung thủy, tam tịng tứ đức thơng qua rất nhiều
các tiểu thuyết và các vở kịch. Xây dựng các anh hùng, quân tử: Nhân vật Tống
Giang, Lưu Bị thông qua các tiểu thuyết.
e. Ảnh hưởng đến Giáo dục:
+ Giảng dạy trong các trường học tư: Sử dụng bộ sách Tứ thư ngũ kinh hình
thành tư tưởng trong giáo dục Học cổ nhập quan (Vơ học bất thành quan) và hình
thành tư tưởng trong quan hệ Thầy trò, trò phải kính thầy như cha mẹ mình và quy
định trong pháp luật là trị không được lấy vợ của thầy sau khi thầy chết.
f. Ảnh hưởng đến Nghệ thuật
+ Kiến trúc: Kiến trúc có quy mô to lớn thể hiện cho Đế quyền nhà vua đó
chính là cung điện, lăng mộ. Vì theo tư tưởng Thiên mệnh nhà vua đại diện cho
trời. Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo nên xuất hiện thêm loại hình kiến trúc
nữa là Văn Miếu.
+ Hội họa: các Nho sỹ đều là các Họa sỹ. Hình thành nên dịng tranh Sơn
thủy theo tư tưởng thì người nhân thì thích núi người trí thích sơng. Các biểu tượng
Tùng, Cúc, Trúc, Mai.
Định hình, hình thành các mối quan hệ xã hội và phân chia các mối quan hệ
trong xã hội từ cao xuống thấp (theo tam cương), có ba quan hệ cơ bản là vua – tôi,
cha – con, chồng – vợ, nó phân định rõ ràng quyền, nghĩa vụ của từng người trong
10



từng mối quan hệ và ai là người quyết định trong mối quan hệ đó. Như trong quan
hệ cha – con thì con phải có hiếu với cha mẹ và trong quan hệ cha con thì cha là
người giữ vai trò quyết định,... Cách ứng xử trong đạo tam cương của Nho giáo ảnh
hưởng tích cực đến việc điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào
khuôn phép, khuôn khổ.
Tam cương là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định, có trật tự, có trên
có dưới, nó là cơ sở để đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Các triều đại phong
kiến Trung Quốc luôn chiếu theo tam cương mà thực hiện, vì thế thời phong kiến ở
Trung Quốc thì vị trí của thiên tử luôn được đề cao. Thiên tử là người nắm giữ
quyền lực tối cao và quyết định mọi việc của đất nước. Thiên tử được coi như là
con trời, “trên vạn người dưới một người”. Từ đó nhân dân, quần thần đều tn
mệnh thiên tử, thiên tử thậm chí cịn có quyền định đoạt cả mạng sống của con
người.
Trong triều đại phong kiến của Trung Quốc mọi ý kiến, đề xuất của các đại
thần đều phải được vua phê tấu mới được phép thực hiện, kẻ nào đề xuất ý kiến
không hợp lịng vua khơng đúng theo quy chuẩn xã hội chẳng những tấu chương
khơng được phê chuẩn mà cịn có thể bị trừng trị thích đáng. Các nhà nho mọi thời
đại đều nhấn mạnh mối quan hệ vua – tôi, xây dựng tinh thần trung thân, ái quốc
nhưng không mù quáng. Họ yêu cầu nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc
và trung hậu với nhân dân, phải là bậc quân minh. Ảnh hưởng của Nho giáo đến
trật tự, quan hệ xã hội Trung Quốc còn biểu hiện ở việc Trung Quốc có sự phân
chia các giai cấp tầng lớp.
Chế độ phong kiến Trung Quốc phân thành 2 giai cấp đó là: Giai cấp thống
trị (địa chủ phong kiến) và giai cấp bị trị (nông dân, tầng lớp cơng thương, nơ tỳ). •
Xây dựng lên hệ thống đạo đức chuẩn mực, tạo nên phẩm cách đạo đức của người

11


qn tử, đồng thời cũng góp phần vào sự hình thành nên trật tự trong xã hội, sự ổn

định và giữ gìn trật tự quan hệ xã hội.
Sở dĩ nói Nho giáo góp phần tạo nên phẩm cách đạo đức của con người là
sau khi đã định ra các quan hệ cơ bản cho xã hội, Nho giáo không quên dựng lên
chuẩn mực đạo đức, một hệ thống quy tắc xã hội, được biểu hiện qua ngũ thường
với năm đạo đức cơ bản của đạo làm người: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Từ đây con
người luôn tuân theo chuẩn mực đạo đức này, nhân dân Trung Quốc đặt chữ nhân
lên hàng đầu “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, coi trọng lễ “Tiên học lễ, hậu
học văn”,... Khi con người tuân thủ theo chuẩn mực đạo đức sự ổn định của trật tự
quan hệ xã hội cũng được duy trì.
Khiến cho con người ý thức được trách nhiệm nghĩa vụ của mình một cách
rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Từ đó tu thân để ngày một tốt hơn. Điều này
thể hiện rõ qua thuyết chính danh của nho giáo.
Góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn với phạm
vi là toàn đất nước. Ai ai cũng đề cao chữ tín thì xã hội khơng cịn điều dối trá, lịng
tin giữa người với người càng được nâng cao, dễ dàng kết giao bạn bè, khiến cho
tình cảm trong các mối quan hệ thân thiết hơn, các mối quan hệ càng thêm bề chặt.
Ngồi ra, Nho giáo cịn góp phần xây dựng quan hệ trong gia đình bền chặt
hơn, có tơn ty hơn nhờ tuân theo 3 học thuyết tam cương, ngũ thường, chính danh
và đặc biệt hơn là vai trò quan trọng của chữ hiếu như lời cuả Khổng Tử nói với
Tăng Tử: “Này đây, hiếu là căn bản của đức, do giáo dục mà sinh ra. Hãy ngồi trở
xuống, ta nói cho ngươi biết. Thân thể, hình hài, tóc tai, da thịt là do cha mẹ sinh ra
không được gây hư hại là nết đầu của chữ Hiếu. Sau lo lập thân, hành đạo để lại
tiếng thơm cho đời sau là nết cùng của chữ Hiếu. Này đây, chữ Hiếu lấy việc phụng
dưỡng cha mẹ làm đầu, kế đến thờ vua, sau rốt là lập thân.".

12


KẾT LUẬN
Nho giáo ra đời và tồn tại ở Trung Quốc hàng chục thế kỷ qua. Tại mỗi thời

điểm, mỗi giai đoạn, Nho giáo lại xuất hiện với những bộ mặt khác nhau, in đậm
dấu ấn văn hóa-chính trị thời kỳ đó. Tuy phải trải qua nhiều thăng trầm biến cố
trong lịch sử, có những lúc các giá trị tốt đẹp của Nho giáo hoàn toàn bị xã hội phủ
nhận, lên án gay gắt, nhưng cho đến ngày nay Nho giáo vẫn tiếp tục khẳng định sức
sống bền lâu của nó khơng chỉ ở tại Trung Quốc đại lục mà ở hầu hết các quốc gia
trong vịng cung văn hóa Hán. Nho giáo có sức ảnh hưởng (tích cực và tiêu cực) to
lớn đến trật tự xã hội của Trung Quốc nói riêng và các nước Đơng Bắc Á nói
chung. Cần phát huy và duy trì những điểm tích cực của Nho giáo và xóa bỏ những
tư tưởng bảo thủ lạc hậu không phù hợp trong thời đại mới là cơng việc khó khăn
gian nan nhưng cần phải được thực hiện nếu muốn tiến tới một xã hội phát triển
văn minh, cơng bằng và bình đẳng. Để có thể phát huy tối đa những mặt tích cực
của tư tưởng Nho giáo trong mọi mặt đời sống cần đi đôi với việc tiếp thu và phát
triển khoa học kỹ thuật hiện đại.

13


1.
2.
3.
4.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Trọng Kim; Nho Giáo Trọn Bộ, Nxb Văn Học, 2003;
Phan Ngọc; Bản sắc văn hoá Việt Nam; Nxb Văn học, 2006;
/> />
%C4%91%E1%BB%A9c
5. />6. />7. />8. />9. Một số tài liệu tham khảo khác.

14




×