Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.65 KB, 14 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
So sánh về kích thước của những hành tinh của Hệ Mặt Trời
Sao Mộc, chụp bởi một trong hai Voyager
<b>Đặc điểm của quỹ đạo (Kỷ nguyênJ2000)</b>
<b>Bán trục lớn</b>
778.412.027 kmhay
5,20336301 đơn vị
thiên văn.
<b>Chu vi</b>
4,888 × 109<sub> km </sub><sub>hay</sub>
32,675 đơn vị thiên văn
hay
5,2 lần Trái Đất.
<b>Độ lệch tâm</b> 0,04839266 <sub>2,928 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>Cận điểm</b>
740.742.598 km hay
4,95155843 đơn vị
<b>Viễn điểm</b>
816.081.455 km hay
5,45516759 đơn vị
thiên văn.
<b>Chu kỳ theo sao</b> 4335,3545 ngàyhay
11,857 lần Trái Đất.
<b>Chu kỳ giao hội</b> 398,86 ngày <sub>1,1 năm.</sub> hay
<b>Vận tốc quỹ đạo</b>:
<b>- trung bình</b> 13,050 km/<sub>0,439 lần Trái Đất.</sub>shay
<b>- tối đa</b> 13,705 km/s <sub>0,453 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>- tối thiểu</b> 12,440 km/s <sub>0,425 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>Độ nghiêng</b>
1,304° với Hoàng Đạo
hay
6,1° với xích đạo Mặt
Trời.
<b>Hồng kinh của điểm </b>
<b>nút lên</b> 100,556°
<b>Acgumen của điểm </b>
<b>cận nhật</b> 274,198°
<b>Tổng số vệ tinh</b> 63
<b>Đặc điểm của hành tinh</b>
<b>Đường kính</b>:
<b>- tại xích đạo</b> 142.984 km <sub>11,209 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>- qua hai cực</b> 133.709 km <sub>10,517 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>Độ dẹt</b> 0,06487
<b>Diện tích</b> 61,4 × 10<sub>120,5 lần Trái Đất.</sub>9km²hay
<b>Thể tích</b> 1338 × 10<sub>1235,6 lần Trái Đất.</sub>12km³hay
<b>Khối lượng riêng</b> 1326 kg/<sub>0,240 lần Trái Đất.</sub>m³hay
<b>Gia tốc trọng trường</b>
<b>tại xích đạo</b> 23,12 2,358 lần Trái Đất.m/s²hay
<b>Vận tốc thoát ly</b> 59,54 km/s <sub>5,32 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>Chu kỳ quay quanh </b>
<b>trục</b>
0,41351 ngày hay
9.933 giờ hay
0,415 lần Trái Đất.
<b>Vận tốc quay quanh </b>
<b>trục</b>
<b>tại xích đạo</b>
45.300 km/hhay
27,055 lần Trái Đất.
<b>Độ nghiêng trục quay</b> 3,13° <sub>0,133 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>Xích kinh của cực bắc</b> 17 <sub>268,05°)</sub>h 52 m 12 s (hay
<b>Xích vĩ của cực bắc</b> 64,48°
<b>Hệ số phản xạ</b> 0,52 <sub>1,42 lần Trái Đất.</sub>hay
<b>Nhiệt độ tại bề mặt</b>:
<b>- tối thiểu</b> 110K (hay -163°C)
<b>- trung bình</b> 152K (hay -121°C)
<b>- tối đa</b> K (hay °C)
<b>Áp suất khí quyển</b>
<b>tại bề mặt</b>
70 kPahay
0,7 lần Trái Đất.
<b>Cấu tạo của khí quyển</b>
H2
He
CH4
H2O
NH3
C2H6
<b>Sao Mộc</b> (hay <b>Mộc Tinh</b>) là hành tinh to lớn nhất của Thái Dương Hệ và đứng thứ năm
nếu đếm từ Mặt Trời trở ra. Sao Mộc được cấu tạo bởi các chất khí ở thể lỏng vì nhiệt độ
thấp; loại hành tinh này, do đó, khơng có đất và đá và thường thường lớn hơn loại hành
tinh có đất và đá giống như Trái Đất. Đơi khi người ta cịn gọi loại hành tinh này là các
"sao lùn nâu" (<i>brown dawrf</i>) vì nếu khối lượng của hành tinh chỉ cần khoảng 100 lần
nặng hơn thì sức hút của trọng lực đã đủ mạnh để tạo nên phản ứng hợp hạt nhân của các
Tên tiếng Việt của hành tinh này dựa vào nguyên tố <i>mộc</i> của Ngũ Hành; chữ Nho viết là
木星. Các văn hóa Tây phương dùng tên thần Jupiter, vị thần quan trọng nhất trong thần
thoại La Mã, để đặt tên cho hành tinh này; trong thần thoại Hy Lạp tên của vị thần này là
Zeus (Δίας). Điều này rất dễ hiểu vì Sao Mộc là một hành tinh vĩ đại, nặng hơn gấp hai
lần của tất cả 8 hành tinh còn lại của Thái Dương Hệ cộng lại.
Sao Mộc cũng là nơi mà nền móng của giả thuyết cho rằng Trái Đất là trung tâm của vũ
trụ bị lung lay khi Galileo Galilei khám phá ra 4 thiên thể quay chung quanh hành tinh
này vào năm 1610 – thay vì chung quanh Trái Đất.
Sao Mộc có một lõi bằng đá tương đối nhỏ so với kích thước của nó. Ngoại trừ phần lõi
ra, sao Mộc có thể được xem như hồn tồn tạo bởi khinh khí (H2). Nằm ngay trên lõi là
một lớp khinh khí ở thể đặc, có nhiều tính chất vật lý giống như một kim loại, và trên nữa
là lớp khinh khí ở thể lỏng biến dần dần sang một lớp ở thể khí. Ranh giới giữa ba thể
khơng cách nào được xác định rõ ràng vì sự biến dạng từ thể này sang thể khác không
xẩy ra một cách đột ngột.
Khí quyển của sao Mộc bao gồm khoảng 86% khinh khí và 14% hêli (He), cũng như một
phần rất nhỏ của các chất khác. Càng xuống sâu, tỉ lệ các chất khác càng tăng lên và bầu
khí quyển càng trở nên dầy đặc hơn cho đến khi biến sang thể lỏng. Ranh giới giữa bầu
khí quyển và "bề mặt" của Sao Mộc, do đó, cũng không rõ ràng.
Vào năm 1690, Giovanni Domenico Cassini khám phá ra các vùng khí quyển của Sao
Mộc quay với vận tốc khác nhau: khơng khí gần cực quay chậm hơn khơng khí gần quỹ
đạo vào khoảng 5 phút. Hơn thế nữa, mây ở các vĩ tuyến khác nhau bay với hai chiều
Một của những dấu đặc biệt rõ ràng nhất của Sao Mộc là Vết Đỏ Lớn ở gần phía nam của
xích đạo. Vết này là một cơn lốc khổng lồ – đường kính gấp ba lần đường kính của Trái
Đất – đang thổi dữ dội từ hơn 300 năm nay. So với 100 năm trước đây thì đốm này chỉ
cịn độ nửa về kích thước. Người ta khơng biết chắc rằng có phải hiện tượng này xảy ra
do sự dao động trong khí quyển của sao Mộc, cũng như đốm này có đang từ từ biến đi
theo thời gian hay không.
Vì Sao Mộc được tạo ra bởi các chất khí ở thể lỏng nên mỗi vùng có một vận tốc quay
khác nhau. Một điểm nằm gần xích đạo, giữa vĩ tuyến 10° bắc và vĩ tuyến 10° nam, làm
một vòng chung quanh Sao Mộc trong 9 giờ 50 phút 30 giây. Vùng này được gọi là
System I của Sao Mộc. Phần còn lại, gọi là System II, quay chậm hơn vùng gần xích đạo
hơn 5 phút, hay 9 giờ 55 phút 41 giây.
Sao Mộc là hành tinh có vận tốc quay cao nhất của Hệ Mặt Trời.
Đến năm 2004, đã có 63 vệ tinh của Sao Mộc được khám phá và được chia ra làm 7
nhóm. Trong những vệ tinh này, Io, Europa, Ganymedes và Callisto được khám phá bởi
Galileo Galilei từ đầu thế kỷ 17 và được lập thành một nhóm. Bốn vệ tinh này, cũng như
Metis, Adrastea và Amalthea của nhóm <i>Amalthea</i>, tự quay một vịng chung quanh chính
mình trong một thời gian bằng một vịng chung quanh Sao Mộc nên ln ln có một mặt
hướng về Sao Mộc và một mặt quay đi – trường hợp giống như Mặt Trăng đối với Địa
Cầu. Đại đa số những vệ tinh nhỏ còn lại tuy quay chung quanh Sao Mộc nhưng đi ngược
Bẩy nhóm vệ tinh của Sao Mộc là:
Nhóm <i>Amalthea</i>, gần Sao Mộc nhất, gồm Metis, Adrastea, Amalthea và Thebe.
Quỹ đạo của các vệ tinh này rất tròn, gần như nằm trên cùng một mặt phẳng với
xích đạo của Sao Mộc và ở từ 100 ngàn km đến 200 ngàn km nếu kể từ tâm của
Sao Mộc ra.
Metis <sub>Adrastea</sub>
Amalthea
Thebe
Nhóm <i>Galilean</i>, khám phá bởi Galileo Galilei, gồm Io, Europa, Ganymede và
Callisto. Đây là các vệ tinh lớn trong Thái Dương Hệ – Europa, nhỏ nhất trong
nhóm, lớn hơn Sao Diêm Vương trong khi Ganymede, lớn nhất trong nhóm, lớn
hơn Sao Thuỷ. Quỹ đạo của các vệ tinh này ở từ 400 ngàn km đến 2 triệu km nếu
kể từ tâm của Sao Mộc ra.
Các vệ tinh Galilean: Io, Europa,
Ganymede, Callisto.
Sao Mộc và
Io Europa Ganymede
Callisto
<i>Themisto</i> đứng một mình trong nhóm của nó. Quỹ đạo của vệ tinh này ở vào
Themisto
Nhóm <i>Himalia</i> gồm Leda, Himalia, Lysithea, Elara và S/2000 J11 (khám phá
trong năm 2000 nên chưa có tên). Quỹ đạo của các vệ tinh này ở từ 11 triệu km
đến 12 triệu km nếu kể từ tâm của Sao Mộc ra, chu kỳ 287 ngày.
Leda Himalia Lysithea
Elara
Nhóm <i>Ananke</i> gồm Euporie, Euanthe, Orthosie, Harpalyke, Praxidike, Thyone,
Ananke, Iocaste, Hermippe... Quỹ đạo của các vệ tinh này nằm nghiêng vào
khoảng 150° đối với xích đạo của Sao Mộc và ở vào khoảng 21 triệu km nếu kể từ
tâm của Sao Mộc ra. Tất cả các vệ tinh này đi ngược với chiều quay của Sao Mộc.
Nhóm <i>Carme</i> gồm Pasithee, Chaldene, Isonoe, Erinome, Kale, Aitne, Taygete,
Carme, Kalyke... Quỹ đạo của các vệ tinh này nằm nghiêng vào khoảng 160° đối
với xích đạo của Sao Mộc và ở vào khoảng 23 triệu km nếu kể từ tâm của Sao
Mộc ra. Tất cả các vệ tinh trong nhóm này đi ngược với chiều quay của Sao Mộc.
Nhóm <i>Pasiphặ</i> gồm Eurydome, Pasiphặ, Sponde, Megaclite, Callirrhoe,
Sinope, Autonone... Tất cả các vệ tinh trong nhóm này đi ngược với chiều quay
<b>15 vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc</b>
Tên Bán kính củavệ tinh
(km)
Khối lượng của
vệ tinh
(kg)
Bán kính của
quỹ đạo
(km)
Chu kỳ của
quỹ đạo
(ngày)
Adrastea 13 × 10 × 8 20 × 1015 <sub>129,0 × 10</sub>3 <sub>0,298260 S</sub> <i><sub>Amalthea</sub></i>
Amalthea 131 × 73 × 67 7,5 × 1018 <sub>181,4 × 10</sub>3 <sub>0,498179 S</sub> <i><sub>Amalthea</sub></i>
Thebe 55 × 45 × 67 0,8 × 1018 <sub>221,9 × 10</sub>3 <sub>0,6745</sub> <i><sub>Amalthea</sub></i>
Io 1821,6 89,32 × 1021 <sub>421,6 × 10</sub>3 <sub>1,769138 S</sub> <i><sub>Galilean</sub></i>
Europa 1560,8 48 × 1021 <sub>670,9 × 10</sub>3 <sub>3,551181 S</sub> <i><sub>Galilean</sub></i>
Ganymede 2631,2 148,2 × 1021 <sub>1070,4 × 10</sub>3 <sub>7,154553 S</sub> <i><sub>Galilean</sub></i>
Callisto 2410,3 1075,9 × 1021 <sub>1882,7 × 10</sub>3 <sub>16,689018 S</sub> <i><sub>Galilean</sub></i>
Himalia 85 9,5 × 1018 <sub>11460 × 10</sub>3 <sub>250,5662</sub> <i><sub>Himalia</sub></i>
Chung quanh Sao Mộc có một số vòng đai tạo bởi bụi và đá. Sự hiện diện của những
vòng đai này mới được xác nhận vào 1979. So sánh với các vòng đai của Sao Thổ, những
vòng đai này nhỏ và mờ hơn rất nhiều.
Hiện nay (2004) các nhà thiên văn học xác nhận là Sao Mộc có 3 vịng đai được tạo ra
bởi bụi và đá từ 4 vệ tinh thuộc nhóm <i>Amalthea</i>, kể từ tâm của Sao Mộc ra:
Vòng đai thứ nhất (vành Halo) nằm từ 100 ngàn đến 122,8 ngàn km, là vành đai
trong cùng và dày đặc nhất
Vành đai Halo
Vịng thứ hai (vành đai chính) từ 122,8 ngàn đến 129,2 ngàn km
Vành đai chính, do Galeleo quan sát được
Vành đai chính, 05/01/07
Vịng thứ ba (vành đai của nhóm Amalthea) từ 129,2 ngàn đến 214,2 ngàn km, là
một vành đai rất mờ nhạt
Một vòng đai nữa (vành đai Thebe) ở rất xa về phía ngồi chưa được xác nhận
chính thức. Đặc biệt là vịng đai ngồi cùng này, giống như các vệ tinh phía ngồi,
quay ngược chiều với chiều quay của sao Mộc.
Vào tháng 12 năm 1973, Pioneer 10 trở thành phi thuyền đầu tiên bay ngang Sao Mộc.
Đúng một năm sau đó Pioneer 11 cũng đến nơi. Cả hai phi thuyền đều được dùng để
nghiên cứu về từ trường của Sao Mộc. Trong năm 1979 có hai phi thuyền bay ngang
hành tinh, Voyager 1 vào tháng 3 và Voyager 2 vào tháng 7. Cả hai được dùng để nghiên
cứu các vệ tinh của nhóm <i>Galilean</i> nhưng, đồng thời, đã khám phá ra các vòng đai của
hành tinh. Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Sao Mộc là Galileo, đến nơi vào tháng 7 năm
1995. Galileo thả một máy thám hiểm nhỏ (<i>probe</i>) xuống Sao Mộc để nghiên cứu về bầu
khí quyển của hành tinh này và làm nhiều cuộc bay ngang các vệ tinh. Galileo đã bị chấm
dứt vào tháng 9 năm 2003. Để tránh trường hợp Galileo có thể rơi vào một vệ tinh và làm
ô nhiễm vệ tinh này, NASA đã điều khiển cho Galileo đâm thẳng vào Sao Mộc và hoàn
toàn cháy tan tại đây.
Mặt trời đang hoạt động mạnh
Nhật thực ngày 1/8/2008
Các mặt trăng của sao Thổ
Mặt trăngvà Quả đất
Nhật thực ở Vạn Lý Trường thành
Sao Thiên vương
Sao Hải vương
Sao Thổ
Sao Mộc
Sao Hoả
Quả đất
Sao Kim
Sao Thuỷ
Sao chổi
Cấu trúc Mặt trời
Sao Mộc (Jupiter)
Hải Vương tinh
Những ngôi sao trong vũ trụ
Mặt Trời nổi giận
Bốn vụ nổ thuộc loại "Big Bang
Vụ nổ của các thiên thạch