Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bài thu hoạch lớp trung cấp LLCT giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển ở đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.87 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ K 28B-22
***

BÀI THU HOẠCH
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
Đề tài:

Giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển
ở Đà Nẵng

Người thực hiện: Trần Ngọc Hân
Đơn vị cơng tác: Phịng tài ngun môi trường
Huyện Thuận Thành

Hà Nội, Tháng 05 năm 2020

0


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đà Nẵng được xtôi là điểm trung chuyển quan trọng trên con đường di
sản miền Trung, thành phố Đà Nẵng được bao bọc bởi 3 di sản văn hóa thế
giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút nữa là di sản thiên nhiên thế giới
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng và Động Thiên Đường. Chính vị trí này
đã làm nổi rõ vai trò của thành phố Đà nẵng trong khu vực, đó là nơi đón tiếp,
phục vụ, trung chuyển khách.
Thành phố có diện tích 1.256,53 km² gồm 06 quận (Hải Châu, Thanh
Khê, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Cẩm Lệ) và 02 huyện Hịa Vang,
huyện đảo Hồng Sa.


Bãi biển Mỹ Khê, được tạp chí Forbes (Mỹ) bình chọn là "một trong sáu
bãi biển quyến rũ nhất hành tinh". Trong những năm gần đây, Đà Nẵng tích cực
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và
được coi là "Thành phố đáng sống nhất Việt Nam". Năm 2018, Đà Nẵng được
chọn đại diện cho Việt Nam lọt vào Top 10 Địa điểm Tốt nhất để Sống ở Nước
ngoài do Tạp chí Du lịch Live and Invest Overseas (LIO) bình chọn.
Là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực; trung tâm chính trị - kinh tế
- xã hội với vai trị là trung tâm cơng nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa,
giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ, khởi nghiệp, đổi
mới sáng tạo của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ
chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Thành phố Đà Nẵng đóng vai trị hạt
nhân, quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng là
một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam, đô thị loại I, trung
tâm cấp quốc gia, cùng với Hải Phòng và Cần Thơ.
Với nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, Đà Nẵng là một trong những
thành phố có tiềm năng phái triển mạnh về kinh tế biển. Tuy nhiên,, việc phát
triển kinh tế biển một cách bền vững là thách thức khơng nhỏ, vì vậy tơi đã lực
chọn đề tài “Giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển ở Đà Nẵng”
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
phát triển kinh tế biển .
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu về giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững ở Đà Nẵng.
1


PHẦN II- NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Phát triển kinh tế là sự tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế gắn với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, nâng cao chất lượng sống của

dân cư.
Phát triển bền vững là sự phát triển của hiện tại, không làm tổn hại hay cản
trở đến sự phát triển của mai sau Đà Nẵng có bờ biển dài khoảng 70 km, có
vịnh nước sâu các của biển Liên Chiểu, Tiên Sa, có vùng lãnh hải thềm lục địa
với độ sâu 200m, tạo thành vành đai nước nông rộng lớn thích hợp cho phát
triển kinh tế biển tổng hợp và giao lưu với nước ngồi. Bờ biển có nhiều bãi
tắm đẹp như Non Nước, Mỹ Khê, Thanh Khê, Nam Ô với nhiều cảnh quan
thiên nhiên kỳ thú, có giá trị lớn cho phát triển du lịch và nghĩ dưỡng.
Khả năng phát triển kinh tế thủy sản của thành phố là khá lớn. Vùng biển
Đà Nẵng có trữ lượng hải sản lớn, khả năng khai thác hàng năm khoảng 60-70
ngàn tấn. Sản lượng khai thác trung bình hàng năm đặt trên 40 ngàn tấn, chủ
yếu là cá nổi ven bờ… Thành phố cịn có hơn 670 ha mặt nước có khả năng
nuôi trồng thủy sản, tạo điều kiện tốt để xây dựng vùng ni các nước ngọt tại
các xã Hịa Khương, Hòa Phong, Hòa Liên, Hòa Sơn thuộc huyện Hòa Vang .
Biển và hải đảo ngày càng trở thành nguồn lực kinh tế to lớn, có ý nghĩa
quan trọng về an ninh, quốc phòng đối với bất kỳ quốc gia nào có biển. Vươn
ra biển, khai thác đại dương đã trở thành khẩu hiệu hành động mang tính chiến
lược của thế giới. Đối với Việt Nam, trong tương lai gần, ngành kinh tế biển
giữ vai trò chủ yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo
cho dân tộc ta giàu mạnh và phát triển. Do đó, cần phải nhìn nhận kinh tế biển,
đảo một cách tồn diện, phát triển kinh tế biển, đảo theo hướng bền vững, bảo
đảm quyền lợi lâu dài của đất nước, đưa nước ta trở thành quốc gia giàu mạnh
về biển, đảo, bảo đảm vững chắc chủ quyền trên biển..
2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
a. Phát triển kinh tế biển: Cần có tầm nhìn chiến lược
Xác định được vị trí và tầm quan trọng chiến lược của mình, thành phố
đã ban hành Quy hoạch phát triển kinh tế vùng biển đảo thuộc địa bàn thành
phố Đà Nẵng đến năm 2020. Trong đó tập trung phát triển kinh tế - xã hội đối
với các ngành, địa phương tại địa bàn vùng biển, ven biển nhằm phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững; xây dựng phương hướng phát triển kinh tế - xã

hội phù hợp, gắn với bảo vệ an ninh quốc phòng đối với vùng biển đảo, nhằm
2


phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đảo, tạo bước đột phá trong
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong thời gian tới, đồng thời định
hướng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước về các lĩnh vực, dự án đầu tư
sản xuất kinh doanh tại vùng biển đảo và ven biển của thànhphố.
Đối với Đà Nẵng , biển không chỉ đtôi lại nhiều nguồn lợi to lớn để phát
triển kinh tế, mà còn là địa thế quốc phòng, an ninh mang tính chiến lược hàng
đầu của đất nước. Đặc biệt, trước những mục tiêu mang tính chiến lược của các
nước trong khu vực đều có liên quan và tạo sức ép lớn đối với nước ta, mục
tiêu phát triển kinh tế biển gắn liền với tăng cường sức mạnh quốc phịng, an
ninh quốc gia và bảo vệ tài ngun, mơi trường biển là yêu cầu cấp thiết không
chỉ trong giai đoạn hiện nay mà còn mang ý nghĩa lâu dài.
b. Thành tựu của Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng được thành lập từ năm 1888, từ xa xưa đã là hải
cảng quan trọng của Việt Nam, nay là một trung tâm kinh tế, một thành phố lớn
nhất miền Trung. Đà Nẵng khơng chỉ gắn bó mật thiết với Quảng Nam mà cịn
với cả miền Trung, Tây Ngun, nam Lào, đơng bắc Cam-pu-chia.
Đà Nẵng có khu vực cảng Đà Nẵng với cảng biển Tiên Sa (cảng sâu) và 9
cầu cảng dọc sông Hàn, có sân bay quốc tế Đà Nẵng, có hệ thống thơng tin liên
lạc hiện đại. Đà Nẵng cịn là nơi hội tụ các xí nghiệp lớn của các ngành dệt, sản
xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, cơng nghiệp
sản xuất vật liệu xây dựng.
Đến với vùng đất Đà Nẵng, du khách sẽ có dịp đi thăm các danh lam
thắng cảnh nổi tiếng như núi Bà Ná, Ngũ Hành Sơn, đèo Hải Vân, bán đảo Sơn
Trà… và có thể bơi lội thoả thích ở các bãi biển đẹp, cát trắng mịn kéo dài hàng
chục ki lô mét. Tiềm năng du lịch của vùng đất Đà Nẵng thật to lớn với thành
phố với các tiêu chí 5 “khơng”, 3 “có” , 4 “an”

 5 “khơng”:


Khơng hộ đói



Khơng mù chữ



Khơng lang thang xin ăn



Khơng ma t



Khơng giết người cướp của
 3 “có”:



Có nhà ở
3





Có việc làm



Có lối sống văn minh đơ thị.
 4 “an”



An ninh trật tự



An tồn giao thơng



An tồn vệ sinh thực phẩm



An sinh xã hội.
c. Xây dựng Đà Nẵng thành điểm đến mang tầm thế giới

Thành phố Đà Nẵng có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát
triển du lịch với lợi thế về cảng biển và sân bay quốc tế, cửa ngõ đi và đến các
di sản thế giới ở miền Trung. Tiếp nối những thành tựu đã đạt được, thành phố
Đà Nẵng đang nỗ lực tập trung phát triển du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn
theo tinh thần của Nghị quyết 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển Đà
Nẵng trở thành đô thị biển.

Đồng thời, Đà Nẵng liên kết với các tỉnh, thành phố trong khu vực xây
dựng thành điểm đến du lịch mang tầm thế giới.
d. Đà Nẵng - Điểm đến an toàn và thân thiện
Thành phố Đà Nẵng có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát
triển du lịch. Với lợi thế về cảng biển và sân bay quốc tế, cửa ngõ đi và đến các
di sản thế giới ở miền Trung, cùng với nguồn tài nguyên du lịch phong phú và
đa dạng, các bãi tắm đẹp, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch khá đồng
bộ, môi trường du lịch được đảm bảo, Đà Nẵng đã và đang trở thành điểm đến
an toàn, thân thiện của du khách.
Đà Nẵng còn biết đến với những cây cầu xinh đẹp như cầu Sông Hàn, cầu
Thuận Phước, cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý... Đồng thời, thành phố có vị trí địa
lý thuận lợi, phía Bắc được thiên nhiên bao bọc bởi núi cao với đèo Hải Vân
được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan;” phía Tây là Khu Du lịch Bà
Nà Hills - một trong những điểm có tiềm năng hút khách du lịch rất lớn; phía
Đơng Bắc là bán đảo Sơn Trà với nhiều điểm đến ấn tượng mà du khách không
thể bỏ qua như chùa Linh Ứng, đỉnh Bàn Cờ... cùng các bãi tắm biển đẹp trải
dài từ bán đảo Sơn Trà đến Non Nước; phía Đơng Nam là danh thắng Ngũ
Hành Sơn.

4


Đà Nẵng cịn có hệ thống các thiết chế văn hóa nổi tiếng như Bảo tàng
Nghệ thuật điêu khắc Chăm, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Mỹ Thuật, Nhà thờ
Con Gà... thu hút đông đảo khách du lịch đến tham quan về nét văn hóa miền
Trung Việt Nam.
Các sản phẩm du lịch của Đà Nẵng ngày càng đa dạng và nâng cao về
chất lượng, nhiều khu, điểm tham quan du lịch được bổ sung phục vụ du khách
như Khu làng Pháp, Fantasy Park của Khu du lịch Bà Nà Hills; suối khống
nóng núi Thần Tài, khu giải trí Helio Center...

Ơng Nguyễn Xn Bình, Phó Giám đốc Sở Du lịch Đà Nẵng, cho biết
thành phố đã tổ chức thành công nhiều lễ hội mang tầm cỡ quốc tế như Lễ hội
pháo hoa quốc tế, Hội chợ Du lịch quốc tế về nghỉ dưỡng biển và M.I.C.E, Lễ
hội Cocofest 2016, Cuộc thi Marathon quốc tế, Cuộc đua thuyền buồm quốc tế
Clipper Race, Cuộc thi Iron Man 70.3 Việt Nam... Qua đó, thương hiệu điểm
đến du lịch Đà Nẵng từng bước được khẳng định.
Sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo thành phố, thúc đẩy các ngành,
các địa phương cùng vào cuộc tạo đã điều kiện hỗ trợ du lịch phát triển; nâng
cao nhận thức người dân thành phố trong việc cùng chung sức phát triển du
lịch, gìn giữ mơi trường du lịch, tạo hình ảnh du lịch Đà Nẵng thân thiện, mến
khách.
Bên cạnh đó, với các cơ chế chính sách hỗ trợ, kêu gọi thu hút được các
nhà đầu tư chiến lược..., du lịch Đà Nẵng có những bước phát triển khá nhanh,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện và
nâng cao chất lượng sống cho người dân thành phố.
Số lượng khách đến tham quan du lịch Đà Nẵng có những bước tăng
trưởng khá nhanh, năm 2004 đón 649.106 lượt khách, đến năm 2018 đón
khoảng 7,66 triệu lượt khách.
Cơng tác xúc tiến quảng bá du lịch đã được thành phố đầu tư và có sự
chuyển biến thơng qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm du lịch; quảng bá
đến các thị trường quốc tế với quy mô ngày càng tăng về số lượng và chất
lượng.
Điểm đến Đà Nẵng đã được nhiều du khách, doanh nghiệp, các tổ chức
du lịch, các tạp chí, trang mạng chuyên về du lịch trên thế giới bình chọn và
đánh giá cao, với các danh hiệu được bình chọn như tốp 10 điểm đến hấp dẫn
hàng đầu châu Á (từ năm 2013-2016); tốp 10 điểm đến mới nổi sáng giá nhất
thế giới năm 2015.
5



Đặc biệt, trong tháng 10/2016, thành phố Đà Nẵng nhận được giải thưởng
danh giá “Điểm đến sự kiện lễ hội hàng đầu châu Á” của Tổ chức Giải thưởng
Du lịch thế giới World Travel Awards; Khu nghỉ dưỡng Naman Retreat nhận
giải thưởng “Khu nghỉ dưỡng retreat hàng đầu châu Á;” Khu nghỉ dưỡng cao
cấp Intercontinental Danang Sun Peninsula với các danh hiệu danh giá “Khu
nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất thế giới,” “Khu nghỉ dưỡng sang trọng nhất
châu Á”...
Những danh hiệu đạt được đã góp phần định vị hình ảnh và từng bước
khẳng định thương hiệu của du lịch thành phố đến thị trường trong nước và
quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, du lịch Đà Nẵng vẫn cịn một số
tồn tại, khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục trong thời gian đến. Đó là
quy mơ của doanh nghiệp du lịch Đà Nẵng còn nhỏ, năng lực cạnh tranh còn
hạn chế, thiếu sản phẩm dịch vụ vui chơi giải trí về đêm và trung tâm thương
mại giải trí tập trung quy mơ lớn.
Nguồn nhân lực chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển nhanh. Môi
trường biển có nguy cơ ơ nhiễm. Nguy cơ q tải về khả năng cung ứng của hạ
tầng kỹ thuật thành phố (thiếu bãi đỗ xe, xử lý nước thải; ùn tắc giao thơng cục
bộ...), thiếu cơ chế chính sách và quỹ đất để thu hút đầu tư phát triển sản phẩm
du lịch, dịch vụ cũng như nguồn lực để đẩy mạnh cơng tác xúc tiến du lịch ở
nước ngồi...
Đà Nẵng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm trong hoạt động du lịch, làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường; bảo đảm an ninh, an toàn cho du khách; đảm bảo vệ sinh an tồn thực
phẩm, bảo vệ mơi trường và đặc biệt sớm xử lý nguy cơ ô nhiễm môi trường
biển. Đồng thời, thành phố tạo môi trường đầu tư tốt cho các tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch
vụ...
Đà Nẵng xúc tiến đầu tư phát triển các cụm dịch vụ du lịch biển, các bãi
tắm mới, các khu nghỉ dưỡng chất lượng cao, xtôi đây là sản phẩm chủ lực, có

khả năng cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới; tiếp tục kêu gọi đầu tư hình
thành các sản phẩm du lịch sinh thái làng quê, làng nghề truyền thống theo
hướng kết hợp bảo tồn và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch Khu Du lịch Làng
Vân, Công viên Đại Dương, Công viên Vườn thú Safari, Công viên Văn hóa
lịch sử Ngũ Hành Sơn, Hải Vân Quan.
6


Cùng với đó, Đà Nẵng phát triển du lịch sinh thái phía Tây thành phố và
Khu Du lịch quốc gia bán đảo Sơn Trà; đầu tư phát triển các điểm đến dọc các
tuyến đường thủy nội địa của thành phố.
Thành phố tiếp tục khai thác có hiệu quả loại hình du lịch công vụ
(MICE), tăng các chuyến bay quốc tế đến Đà Nẵng; nâng cao tính chuyên
nghiệp trong việc tổ chức các sự kiện du lịch. Thành phố chủ động phối hợp
với các bộ, ngành Trung ương, các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế, cơ quan
ngoại giao của Việt Nam và nước ngồi, cơ quan báo chí để đăng cai tổ chức
các sự kiện, văn hóa, thể thao, du lịch lớn tại Đà Nẵng...
e. Những hạn chế và thách thức đặt ra đối với kinh tế biển
Thực hiện chủ trương của Đảng gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thời gian qua, chúng ta đã
chủ động xây dựng và từng bước hồn thiện thế trận quốc phịng, an ninh trên
biển. Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và Hải đảo,
nay nâng cấp thành Ủy ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và Hải đảo; triển
khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khóa X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”; Quốc hội, Chính phủ
đã ban hành 7 luật, 6 pháp lệnh, 2 bản tuyên bố, 19 nghị định và 6 quyết định
liên quan đến quản lý và bảo vệ vùng biển, đảo Việt Nam; thông qua nhiều biện
pháp tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho tồn dân về vị trí, vai trị của biển, đảo
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 568/QĐ-TTg ngày 28-4-2010 về phê duyệt Quy hoạch phát

triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định phải phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững về kinh tế của hệ thống các đảo, để có bước đột
phá về phát triển kinh tế biển, đảo và ven biển nước ta, đồng thời xây dựng hệ
thống các đảo trở thành tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Về đầu tư phát triển, chúng ta đã quan tâm đầu tư, hỗ trợ phát triển nghề
đánh cá xa bờ, xây dựng hàng chục cơng trình cảng và khu dịch vụ hậu cần
nghề cá trên các đảo và một số điểm ven bờ, đóng mới nhiều tàu dịch vụ hậu
cần nghề cá; đẩy mạnh đầu tư cho các hoạt động tuyên truyền về chủ quyền
quốc gia, lợi ích quốc gia trên biển; đấu tranh quốc phòng, an ninh, ngoại giao;
nghiên cứu và điều tra cơ bản; xây dựng được nhiều hạng mục cơng trình quan
trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, đến nay, quy mơ kinh tế biển của Việt Nam cịn khá khiêm
tốn, phương thức khai thác kinh tế biển chủ yếu là sản xuất nhỏ, các cơng trình
7


hạ tầng kỹ thuật biển còn yếu kém và chưa đồng bộ. Bên cạnh cơng tác thăm dị
khai thác dầu khí, đánh bắt thủy hải sản, vận tải biển mang lại một số kết quả
nhất định, thì hoạt động du lịch chủ yếu diễn ra ở những vùng biển, đảo có vị
trí thuận lợi về hạ tầng giao thơng (sân bay, bến cảng…) như Đà Nẵng, Nha
Trang, Côn Đảo, Phú Quốc... Nhiều vùng biển, đảo như Quan Lạn, Cù lao
Chàm, Lý Sơn, Phú Quý… tuy có lợi thế lớn để thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế biển và ven biển vẫn còn một số vấn đề
chưa thực sự gắn chặt với lợi ích quốc phịng, an ninh quốc gia; cơng tác quản
lý cịn thiên về coi trọng lợi ích kinh tế mà có phần xtơi nhẹ yếu tố an sinh xã
hội; mơi trường biển chưa được quan tâm đầu tư, xử lý kịp thời. Tình trạng khai
thác tự phát, thiếu hoặc khơng tuân thủ quy hoạch biển, đảo, làm nảy sinh nhiều
mâu thuẫn lợi ích; nhiều ngành, địa phương vẫn ưu tiên khai thác tài nguyên

biển ở dạng vật chất, không tái tạo, chưa khai thác toàn diện tiềm năng biển;
các giá trị phi vật chất và có khả năng tái tạo cịn ít được chú trọng. Phương
thức khai thác tại các vùng biển, đảo của ta vẫn trùng lặp, tốc độ phát triển ồ ạt
nhưng thiếu quy hoạch tổng thể, khiến cảnh quan thiên nhiên nhiều nơi đang bị
phá vỡ, chưa có hệ thống xử lý xả thải.
Nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động dịch vụ biển, du
lịch biển, đảo đến nay còn nhiều bất cập. Công tác quy hoạch, quản lý, khai
thác thế mạnh của biển ở nhiều địa phương vẫn chưa thực sự được chú trọng.
Một số ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ tiềm năng, thế mạnh và vai
trò của biển đối với phát triển kinh tế - xã hội, cũng như cơng tác quốc phịng,
an ninh; chưa chú trọng đến sự gắn kết giữa lợi ích chung với lợi ích thiết thực
của cư dân trên các đảo, vùng ven biển.
Hệ thống luật pháp, chính sách về biển, đảo đến nay vẫn bộc lộ những bất
cập, thiếu đồng bộ, chồng chéo, hiệu lực thi hành yếu, tổ chức triển khai thiếu
sự phối hợp liên ngành, công tác hỗ trợ pháp lý cho người dân địa phương ít
được chú ý. Trong bối cảnh các quốc gia đang hướng ra biển, Biển Đông đang
trở thành khu vực tiềm ẩn những tranh chấp phức tạp, nên việc hợp tác và hội
nhập quốc tế để phát triển kinh tế ở khu vực này cịn gặp khơng ít khó khăn,
thách thức
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thời gian qua, việc phát triển kinh tế
biển theo Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã, đang đặt ra khơng ít khó
khăn, thách thức. Cùng với hạn chế về nhận thức của các cấp, ngành, địa
phương ven biển đối với vai trị, vị trí của biển, quy mơ kinh tế biển còn nhỏ
8


bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành nghề còn bất cập; việc đầu tư
xây dựng các khu kinh tế ven biển còn tràn lan, thiếu trọng tâm, trọng điểm.
Trong khi đó, tình hình khai thác, sử dụng hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền
vững (do thiếu hoặc không tuân thủ quy hoạch), làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn

lợi ích trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển và hải đảo. Theo đó, phương
thức khai thác biển chủ yếu vẫn dưới hình thức sản xuất và đầu tư nhỏ, sử dụng
công nghệ lạc hậu, mới khai thác tài nguyên ở dạng thô, theo số lượng. Các giá
trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo trong hệ thống tài nguyên
biển, như: không gian biển, các hệ sinh thái, khu văn hóa lịch sử, dự trữ sinh
quyển ven biển,… ít được chú trọng. Điều đó không chỉ tác động làm cạn kiệt
tài nguyên, mà môi trường biển cũng bị biến đổi theo chiều hướng xấu; thậm
chí, một số khu vực biển ven bờ bị ơ nhiễm, hiện tượng thủy triều đỏ xuất hiện
ngày càng nhiều, với quy mô tương đối lớn, v.v.
Mặt khác, theo đánh giá của một số tổ chức khoa học có uy tín, đa dạng
sinh học biển và nguồn lợi thủy, hải sản nước ta đã, đang có chiều hướng giảm
dần cả về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt. Hiện đã có khoảng
100 lồi hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa
vào sách đỏ Việt Nam. Nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ bị khai thác quá
mức, hiệu suất khai thác giảm rõ rệt theo từng năm. Chỉ tính riêng năng suất
ni tơm quảng canh, nếu năm 1980 sản lượng đạt khoảng 200kg/ha/vụ thì đến
nay con số này chỉ là 80kg/ha/vụ.
Cùng với đó, cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển, nhất là hệ thống cảng
biển, đường giao thơng cịn yếu kém, manh mún, lạc hậu, chưa tạo thế liên kết
các thành phố, khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển thành một hệ thống kinh
tế biển liên hoàn. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển;
đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo
thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,… ở ven biển cịn ít về
số lượng, nhỏ về quy mô và trang, thiết bị hết sức thô sơ. Đây cũng là một
trong những thách thức không nhỏ đối với mục tiêu phát triển kinh tế biển mà
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã đề ra.
Ngoài ra, việc quản lý vùng hải đảo và ven biển nước ta cho đến nay vẫn
theo cách tiếp cận mở, theo kiểu “điền tư, ngư chung”, dẫn đến sự chồng chéo
về quản lý giữa nhiều bộ, ngành. Trong khi đó, sự tham gia của chính quyền địa
phương vào tiến trình quản lý đất và mặt nước ven biển cịn thụ động, nhất là

việc kiểm tra, kiểm soát, quản lý hoạt động khai thác, sử dụng biển còn nhiều

9


bất cập, hiệu quả thấp, gây nên sự lãng phí trong quản lý, khai thác tài nguyên
biển trên nhiều khu vực.
Có thể thấy, những thách thức nêu trên nếu khơng sớm khắc phục sẽ trở
thành rào cản lớn đối với tiến trình phát triển kinh tế biển của nước ta. Điều đó
địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta phải trên cơ sở đánh giá toàn diện
tiềm năng, thách thức, có nhiều giải pháp đồng bộ, đưa kinh tế biển phát triển
nhanh, bền vững, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
g. Ngun nhân dẫn đến hạn chế của kinh tế biển.
Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế biển và ven biển khó đạt được vào năm
2020. Một số ngành, lĩnh vực kinh tế biển được xác định ưu tiên đầu tư nhưng
phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Đầu tư phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng ven biển, nhất là hệ thống cảng biển và mạng lưới giao
thơng kết nối cịn dàn trải, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
Quy hoạch các khu vực ven biển và một số ngành, lĩnh vực còn nhiều bất
cập. Nguy cơ ô nhiễm môi trường biển, đảo vẫn lớn; biến đổi khí hậu, nước
biển dâng diễn biến phức tạp và có tác động tiêu cực ngày càng rõ nét. Đầu tư
cho điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học-công nghệ và phát triển nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Quản lý nhà nước về biển, đảo còn lúng túng,
hiệu lực, hiệu quả chưa cao…
3. Một số giải pháp và kiến nghị để phát triển bền vững kinh tế biển
Để phát triển kinh tế biển đạt được mục tiêu đã đề ra, cùng với việc phát
huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém, việc phát
triển kinh tế biển cần gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng, an ninh quốc
gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và đưa kinh tế nước ta tăng trưởng từ

nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Cụ thể, thời gian tới cần chú trọng
tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm
quốc phòng – an ninh, hợp tác quốc tế. Cùng với việc tiếp tục khẳng định chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, chuẩn bị tốt các điều kiện
cần thiết để bảo đảm về quốc phòng – an ninh, kiên quyết bảo vệ vững chắc các
vùng biển và hải đảo của Việt Nam, cần tiếp tục mở rộng và tăng cường hợp tác
hữu nghị với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng như với các tổ
chức quốc tế về các vấn đề có liên quan đến biển, đảo trên cơ sở tơn trọng chủ
quyền, lợi ích quốc gia và pháp luật quốc tế; cùng nhau xây dựng khu vực hòa
10


bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Triển khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí
dân cư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; ban
hành chính sách và tạo điều kiện để người dân định cư sinh sống ổn định lâu
dài trên đảo và làm ăn trên biển dài ngày. Các địa phương có biển, đảo cần xây
dựng và triển khai các chương trình, giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng
cường phát triển kinh tế theo điều kiện thực tế, thậm chí liên kết giữa các địa
phương và giữa các địa phương với các ngành để đầu tư, khai thác các lợi ích
từ biển, đảo một cách quy mơ, hiệu quả; gắn phát triển kinh tế với bảo đảm
quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, cần chú trọng quy hoạch và tiếp tục hồn thiện hệ thống cơ chế
chính sách và luật pháp về lĩnh vực biển, đảo và có cơ chế phù hợp để hỗ trợ
phát triển kinh tế biển, đảo. Trên cơ sở chủ trương, định hướng phát triển chung
của cả nước, cần có quy hoạch tổng thể chung cũng như đối với từng khu vực,
địa phương, ngành nghề phát triển. Cần tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm” dẫn
đến sự phân tán, nhỏ lẻ thiếu tập trung giữa các địa phương với cả vùng, giữa
địa phương với từng ngành, mà cần có sự liên kết, phối hợp với nhau. Hệ thống
cơ chế chính sách đồng bộ và tổ chức thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần quản

lý tài nguyên, mơi trường biển và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi từ biển
đảo cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Nhân rộng các mơ hình, kinh
nghiệm hay trong tổ chức sản xuất trên biển, đảo; đồng thời có biện pháp hỗ trợ
ngư dân khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản, xây dựng các mơ hình tổ chức
sản xuất tiên tiến trên biển, đảo, phát triển du lịch kết hợp với việc triển khai
các dịch vụ cơng ích trên biển và thiết lập quan hệ sản xuất kinh doanh giữa
biển, đảo với các địa bàn khác trên bờ và trong nội địa. Mặt khác, ở mức độ
phù hợp cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp ngồi nước để
thu hút nguồn vốn đầu tư, hình thành những dự án phát triển kinh tế liên hoàn,
tăng cường trao đổi, xuất khẩu.
Thứ ba, hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn phù hợp với lợi
thế của vùng đảo như: du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng hải sản.
Chuyển hướng mạnh mẽ cơ cấu sản xuất từ nghề cá gần bờ, ven đảo sang nghề
cá xa bờ, gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Tăng cường năng lực khai thác xa
bờ cho các đảo có điều kiện thuận lợi, đồng thời, khai thác tối đa các điều kiện
tự nhiên thuận lợi vào nuôi trồng hải sản, dịch vụ hàng hải, dịch vụ nghề cá.
Các cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng, bến cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo
đậu tránh bão cho tàu, thuyền và hạ tầng nuôi trồng hải sản cũng cần được đầu
tư xây dựng đồng bộ, có quy mơ lớn. Phát triển du lịch cũng là một trong
những hướng trọng điểm, mang tính đột phá trong phát triển kinh tế biển, đảo
11


cần được đầu tư. Một số khu du lịch sinh thái biển, đảo lớn, chất lượng cao tầm
cỡ khu vực và thế giới được hình thành sẽ tạo bước đột phá cho du lịch biển,
đảo nói riêng và du lịch cả nước nói chung.
Thứ tư, cần tổ chức phát triển hợp lý không gian kinh tế – xã hội vùng
biển và ven biển. Phát triển vùng ven biển nhằm tạo động lực lan tỏa, biến vùng
ven biển thành hậu phương, hỗ trợ cho các hoạt động trên biển thông qua các
trung tâm kinh tế hải đảo. Tập trung xây dựng nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng

trên các đảo và vùng ven biển, đảm bảo an sinh xã hội để người dân ra định cư
lâu dài trên các đảo, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ an ninh, chủ
quyền vùng biển, đảo. Dọc theo vùng ven biển phải kiến tạo các trung tâm phát
triển, thậm chí hình thành nên các đơ thị lớn ven biển, có bán kính ảnh hưởng
rộng, có khả năng cạnh tranh với các mơ hình, trung tâm phát triển lớn trong
khu vực. Tạo ra các hành lang kinh tế ven biển với sự liên kết và mang sức lan
tỏa rộng. Có chính sách thích hợp để hình thành các doanh nghiệp mạnh, đồng
thời huy động các thành phần kinh tế trong nước và nguồn lực quốc tế để khai
thác có hiệu quả các tiềm năng từ biển và hải đảo.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về quản lý
và phát triển kinh tế biển, đảo nhằm khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài
nguyên và bảo vệ mơi trường biển, đảo. Có biện pháp kịp thời ứng phó có hiệu
quả với biến đổi khí hậu, giảm thiểu tối đa sự suy thoái tài nguyên biển và hải
đảo, đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái biển. Khẩn trương triển khai các
đề tài nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực, đổi mới cơ cấu nghề nghiệp,
phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước;
áp dụng cơng nghệ hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí,
băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển… Tăng cường mở rộng
hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển
giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của
các nước.
Thứ sáu, xây dựng và mạnh dạn cho tiến hành tái cơ cấu ngành kinh tế
biển, đảo, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các
ngành, các cấp, các địa phương, có sự quản lý, tập trung của Trung ương, tạo
nên bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều
rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội
dung mới gắn phát triển kinh tế biển, đảo; đầu tư cơ sở hạ tầng cho các đảo, hệ
thống cảng biển, đô thị ven biển, giao thông liên lạc… đồng thời thúc đẩy liên
kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các
12



doanh nghiệp, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư có chọn
lọc trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển, đảo.
Thứ bảy, cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền về biển, đảo, nâng cao ý
thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi
thủy sản, các quy định của quốc tế về bảo vệ nguồn lợi thủy sản không chỉ với
cư dân biển, đảo mà cịn với tồn xã hội. Có thể mở các lớp huấn luyện, tuyên
truyền giáo dục cho ngư dân hiểu và chấp hành các điều khoản của các hiệp
ước, công ước đã ký giữa Việt Nam và các nước khác cũng như các quy định
của pháp luật để người dân nâng cao ý thức trong khai thác, hoạt động bảo vệ
môi trường.

PHẦN III- KẾT LUẬN

Qua thời gian tôi được đi thực tế chúng tôi được trải nghiệm tham quan
các danh lam thắng cảnh, các làng nghề, được nghe báo cáo tình hình phát triển
kinh tế-chính trị-xã hội tại Trường chính trị thành phố Huế , thành phố Đà
Nẵng , được dâng hương tại đài tưởng niệm Thành cổ Quảng Trị, tượng đài Mẹ
Suốt, Chùa Linh Ứng, Mộ Bác Gíap, đối với học viên trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong, chuyến đi thực tế này là hoạt động khơng thể thiếu được để có thể
nâng cao kiến thức, kinh nghiệm bản thân để từ đó rút ra những bài học quý giá.
Những kết quả thu được sau đợt đi nghiên cứu thực tế sẽ góp phần nâng cao chất
lượng học tập của học viên cũng như vận dụng vào đơn vị công tác sau khi tốt
nghiệp khóa học.
Trên đây là những cảm nhận của bản thân tôi trong thời gian được đi thực
tế tại Thành phố Đà Nẵng về lĩnh vực phát triển kinh tế biển bền vững tại Thành
phố Đà Nẵng. Quá trình nghiên cứu thực tiễn khơng được sâu, rộng nên cũng
khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy,
cô giáo

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Trần Ngọc Hân
13


14



×