Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị: Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.89 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI ANH TUN

thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của đảng giai đoạn hiện nay
Chuyờn ngnh: Xõy dng ng Cng sn Việt Nam
Mã số:

62 31 23 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2015


Cơng trình được hồn thành tại
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS, TS. Ngô Huy Tiếp
2. TS. Ngô Kim Ngân

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt quan tâm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đảng ta luôn
khẳng định: lãnh đạo mà khơng kiểm tra thì coi như khơng lãnh đạo; kiểm
tra là chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung của phương thức lãnh
đạo, là bộ phận quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng.
Trong q trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra, xác
minh là một khâu hoạt động rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, nếu chưa
thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu đáo thì chưa
thể kết thúc kiểm tra và như thế cũng có nghĩa là chưa thể kết luận, xử lý
đối với nội dung và đối tượng kiểm tra. Chất lượng và kết quả của hoạt
động thẩm tra, xác minh có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc kết luận
và quyết định xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng
kiểm tra. Phương châm “cơng minh, chính xác, kịp thời” của việc thi hành
kỷ luật trong Đảng được thực hiện tốt hay không, đạt được đến mức độ
nào đều phụ thuộc vào mức độ, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh.
Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào cơng cuộc đổi mới
tồn diện và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, công tác kiểm tra nói chung và
hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng của các tổ chức đảng và ủy ban
kiểm tra các cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực
trong cơng tác xây dựng Đảng. Khi tiến hành thẩm tra xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã bám sát và tuân thủ thực
hiện đúng các nguyên tắc thẩm tra, xác minh, bám sát nội dung kiểm tra;
thực hiện dân chủ, khách quan, công khai; thực hiện đúng các nguyên tắc,
quy định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Do làm
tốt thẩm tra, xác minh nên nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối
tượng được kiểm tra “tâm phục”, “khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý
cơng minh, chính xác, kịp thời, có tác dụng góp phần nâng cao trách
nhiệm, chất lượng cơng tác xây dựng Đảng ở nơi được kiểm tra.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những kết quả đạt được, hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra cũng đã và đang bộc lộ
những khó khăn, hạn chế cần nhanh chóng được khắc phục. Một số cấp
ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra
chưa thật sự quan tâm, coi trọng vị trí, vai trị của hoạt động thẩm tra, xác
minh. Một số vụ việc tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, không đầy


2
đủ, chưa sâu, chưa tìm được bằng chứng xác thực, làm ảnh hưởng đến tính
chính xác, khách quan khi kết luận nội dung kiểm tra. Chất lượng chứng
cứ sau một số cuộc thẩm tra, xác minh không đầy đủ và xác đáng để làm
cơ sở kết luận nội dung và đối tượng kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác
minh - theo nguyên tắc và phương pháp công tác đảng - phải lấy việc tự
phê bình và phê bình làm biện pháp chính; tuy nhiên, trong thực tế, hiệu
quả của việc thực hiện biện pháp chính yếu này khơng phải là như nhau và
lúc nào cũng có vai trị tích cực, nhất là trong bối cảnh những tổ chức đảng
mất đoàn kết nội bộ, ý thức đảng chưa cao. Đặc biệt, nhiều vụ việc, hành
vi của đối tượng kiểm tra không chỉ dừng trong nội bộ Đảng, mà còn liên
quan đến pháp luật, đến nhiều lĩnh vực khác, kể cả những mối quan hệ xã
hội của đối tượng kiểm tra… Điều đó địi hỏi hoạt động thẩm tra, xác minh
muốn có hiệu quả cần phải có sự cộng tác, phối hợp của nhiều hoạt động,

nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Biện pháp tự phê bình và phê
bình trong nội bộ tổ chức đảng để tiến hành thẩm tra, xác minh cũng cần
được hoàn thiện, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay trên
cơ sở đặc điểm thực trạng của tổ chức cơ sở đảng có đối tượng kiểm tra.
Những hạn chế trong hoạt động thẩm tra, xác minh dẫn đến quyết
định xử lý không chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi
phạm, tiêu cực hoặc không bảo vệ được chân lý và các nhân tố tích cực…
Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: tính phức tạp của
các vụ việc, sự yếu kém về tính tự giác của đối tượng kiểm tra, thực trạng
nội bộ tổ chức đảng thiếu tính chiến đấu,... song nguyên nhân cơ bản là về
quan điểm và phương pháp, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng
như quy trình tiến hành thẩm tra, xác minh chưa có sự đổi mới, nâng cao
chất lượng cho phù hợp với tình hình mới.
Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những
mặt hạn chế, yếu kém trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động
thẩm tra, xác minh nói riêng thời gian qua nhằm đáp ứng những yêu cầu
của công cuộc đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc
nghiên cứu đề tài “Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
giai đoạn hiện nay” là rất cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề
xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.


3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.

- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số
kinh nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng giai đoạn hiện nay.
- Phân tích những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và một số
giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về lĩnh vực nghiên cứu, luận án đi sâu nghiên cứu thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trên tất cả
các đối tượng, nhiệm vụ kiểm tra.
Phạm vi nghiên cứu của luận án về thời gian từ năm 2001 đến nay;
phương hướng giải pháp của luận án có giá trị định hướng đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm
tra, về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng;
nghiên cứu một số Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, như: Luật Tố cáo; Luật
Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính… Luận án cịn kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa
học có liên quan đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng việc tổng kết thực tiễn,
điều tra, khảo sát, phương pháp chun gia, hệ thống, kết hợp chặt chẽ

lơgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận giải, làm rõ hơn, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về cơng
tác kiểm tra của Đảng, trong đó tập trung vào hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng.


4
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi nhằm thực hiện
tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai
đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối
với ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng; trong bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ làm
công tác kiểm tra của Đảng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập
mơn xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước trong các học viện, nhà
trường trong cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận các danh muc cơng trình của tác giả
liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội chính của
luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KINH NGHIỆM
CỦA NƯỚC NGỒI

1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu có tác giả là người nước ngồi
Tác giả Lý Quang Diệu (Xingapo), Bí quyết hóa rồng - Lịch sử
Singapore: 1965-2000; Hồng Vĩ (Trung Quốc, năm 1998), Các biện pháp
chống tham nhũng ở Trung Quốc; Báo cáo kết quả công tác nhiệm kỳ Đại
hội XVII (2007 - 2012) của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc; Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành
Xây dựng Đảng của Phuthắc Phítthanuson (2003): Cơng tác kiểm tra của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay; Luận án Tiến
sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng của Chănsyseng
Sômphu (2011): Chất lượng công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra Đảng
và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hồ Dân chủ Nhân
dân Lào trong giai đoạn hiện nay.


5
1.1.2. Các cơng trình có tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về
kinh nghiệm của nước ngồi
Ban Nội chính Trung ương (2005), Kinh nghiệm phòng, chống tham
nhũng của một số nước trên thế giới; các Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về
công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng và cơng tác đấu tranh phịng, chống
tham nhũng tại Trung Quốc của các đồn cơng tác của Uỷ ban Kiểm tra
Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng - Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra
Chính phủ (giai đoạn 2008-2014).
1.2. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC

1.2.1. Các đề tài khoa học

Đề tài khoa học cấp Bộ KHBĐ-0015 (2000-2001) “Cơ sở lý luận,
thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng” do Nguyễn Anh Liên làm Chủ nhiệm; Đề tài khoa học
cấp Bộ KHBĐ (2007)-02 “Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng” do Thạc sỹ Phạm Thị Ngạn làm Chủ
nhiệm; Đề tài khoa học cấp Bộ KHBĐ (2008)-24 “Thực trạng và giải
pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra trong giai đoạn
mới” do Tiến sỹ Tô Quang Thu làm Chủ nhiệm…
1.2.2. Sách
GS, TS Nguyễn Thị Doan (chủ biên, 2006), Đổi mới công tác kiểm
tra, kỷ luật nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách
mạng mới; Bùi Văn Thể (chủ biên, 2009), Một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong cơng tác kiểm tra, kỷ
luật đảng; TS Lê Hồng Liêm (chủ biên, 2010), Một số giải pháp cơ bản
tháo gỡ khó khăn, trở ngại khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các
cấp; TS Lê Văn Giảng (chủ biên, 2011), Một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng; Cao Văn Thống (chủ biên, 2011), Những vấn
đề cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; TS Lê Hồng
Liêm (chủ biên, 2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng,
chống tham nhũng trong tình hình hiện nay - Thực trạng và giải pháp; ThS
Nguyễn Công Học (chủ biên, 2012), Một số giải pháp đảm bảo việc chấp
hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật đảng trong tình hình hiện nay; Cao
Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất (đồng chủ biên, 2012), Nâng cao chất lượng
kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.


6
1.2.3. Luận án, luận văn

Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam của Trương Thị Thông (1996): Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện
nay; Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam của Lê Tiến Hào (2004): Công tác kiểm tra của Thành
uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay; Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Thế Tư
(2004): Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay;
Luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học của
Nguyễn Hồng Minh (2011): Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ
tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.4. Các bài báo khoa học
Lê Khắc Khoa (2010), “Về ngơn ngữ nói trong thẩm tra, xác minh”,
Tạp chí Kiểm tra, số 2 (188), tháng 02; Phạm Đình Phi (2010), “Kinh
nghiệm thẩm tra, xác minh trong giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng”, Tạp
chí Kiểm tra, số 8 (194), tháng 8; Đỗ Hùng Cường (2012), “Một số vấn đề
về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, số 10
(220) tháng 10; Phạm Thành Đồng (2012), “Chứng cứ trong kiểm tra dấu
hiệu vi phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định”, Tạp chí Kiểm tra, số
11 (221), tháng 11; Phạm Thị Ngạn (2013), “Các yếu tố cấu thành trình độ
nghiệp vụ thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, số 6
(228), tháng 6; Vũ Đình Lợi (2013), “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan
trọng trong giải quyết tố cáo”, Tạp chí Kiểm tra, số 9 (231), tháng 9;
Nguyễn Trung Dong (2014), “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong giải
quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản
lý”, Tạp chí Kiểm tra, số 4 (238), tháng 4.
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều là những sản phẩm
khoa học trí tuệ, nghiêm túc, chất lượng, hết sức có giá trị dù ở những mức
độ khác nhau. Tuy nhiên, các cơng trình đều chỉ nghiên cứu về thẩm tra,

xác minh ở những khía cạnh, góc độ nhất định, một “bộ phận” cần phân
tích, đánh giá trong tổng thể chung về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng.
Ngoại trừ Đề tài khoa học cấp Bộ KHBĐ-0015 “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi
mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng”, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt
về thẩm tra, xác minh.


7
Vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Cộng
sản cầm quyền nói riêng, của các đảng chính trị cầm quyền nói chung một
phần do hồn cảnh, điều kiện, yếu tố chính trị, một phần do điều kiện sưu
tầm, tìm tịi, thu thập (cả ở trong nước và ngồi nước) cịn hạn chế, nên cho
thấy các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này khơng nhiều. Bên cạnh đó, do
đặc điểm, hồn cảnh, yếu tố, thể chế chính trị (ngay cả trong những nước có
Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền) khác nhau, nên kinh nghiệm, bài học
của mỗi nước cũng có những điểm đặc thù, không thể tiếp nhận, tiếp thu một
cách tuyệt đối, máy móc, cơ học mà địi hỏi có sự gạn lọc, đánh giá, suy xét
hợp lý để cùng trao đổi, thực hiện cho phù hợp.
Tình hình nghiên cứu trên đặt ra cho tác giả luận án yêu cầu phải
nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện hơn, hệ thống cả về phương diện
lý luận cũng như hoạt động nghiệp vụ thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam; việc tiến hành hoạt động thẩm
tra, xác minh cả trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của
Điều lệ Đảng cũng như trong thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao của ủy ban
kiểm tra các cấp. Tình hình mới với những đặc điểm, hồn cảnh mới tác
động đến công tác kiểm tra, đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng cũng là vấn đề, yêu cầu nhiệm vụ xuyên suốt mà
luận án sẽ phải giải quyết.
Chương 2

THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trị cơng tác kiểm tra của Đảng
2.1.1.1. Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng
* Khái niệm kiểm tra:
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét". Từ điển Luật học nêu: kiểm tra là "xem xét tình hình
thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay
một cơng tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét". Còn theo Sách tra
cứu các mục từ về tổ chức thì kiểm tra là: "Xem xét tình hình thực tế thi
hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một cơng tác
cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người để đánh giá,
nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người đó".


8
* Khái niệm kiểm tra của Đảng
Là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là việc các tổ chức
đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của
cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
* Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng
Là việc chủ thể kiểm tra thơng qua thực hiện các phương pháp, hình
thức, biện pháp để xem xét tình hình thực tế, nhận xét, đánh giá, kết luận
về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối tượng kiểm tra
trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị

quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đưa ra những yêu cầu,
kiến nghị với đối tượng kiểm tra, các tổ chức, cá nhân có liên quan theo
mục tiêu, yêu cầu đã đề ra.
2.1.1.2. Vị trí, vai trị cơng tác kiểm tra của Đảng
Một là, kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng;
hai là, kiểm tra là một bộ phận quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng
Đảng; ba là, cơng tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng, là nhiệm vụ
trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên.
2.1.2. Nội dung, phương pháp công tác kiểm tra của Đảng
2.1.2.1. Nội dung công tác kiểm tra
Nội dung công tác kiểm tra của Đảng bao gồm kiểm tra việc thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, việc thực hiện những nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ cơng tác xây dựng Đảng có quan hệ đến chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên
2.1.2.2. Phương pháp công tác kiểm tra
Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng là hệ thống các cách thức
tiến hành trong hoạt động kiểm tra của Đảng mà mọi tổ chức đảng và đảng
viên (chủ thể, đối tượng) phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
công tác kiểm tra. Khi tiến hành công tác kiểm tra, phải sử dụng đồng bộ,
linh hoạt năm phương pháp cơ bản có mối quan hệ mật thiết, khơng tách
rời của công tác kiểm tra đảng: Thứ nhất, dựa vào tổ chức đảng; thứ hai,
phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; thứ ba, phát huy
trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân; thứ tư, làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh; thứ năm, khi tiến hành cơng tác kiểm tra, cần có sự phối hợp giữa


9
ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân
dân và các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan.

2.2. THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

2.2.1. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.1.1. Khái niệm thẩm tra trong công tác kiểm tra của Đảng
Trong công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra là hoạt động của tổ chức
đảng tiến hành nắm tình hình, tìm kiếm, thu thập thơng tin, tài liệu để xem
xét, nghiên cứu về những thông tin, sự kiện, sự việc có liên quan đến nội
dung, đối tượng kiểm tra.
2.2.1.2. Khái niệm xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Trong công tác kiểm tra của Đảng, xác minh là tiến hành các hoạt
động mang tính xem xét, tra cứu, phân tích, so sánh, thẩm định, đối chiếu
các chứng cứ thu thập được trong quá trình thẩm tra với thực tế, với các quy
định của Đảng, Nhà nước để tìm ra các chứng cứ liên quan đến nội dung,
đối tượng kiểm tra.
2.2.1.3. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Từ khái niệm chung về thẩm tra, xác minh, kế thừa quan điểm của
các tác giả và thực tiễn vừa qua, tác giả luận án đưa ra khái niệm như sau:
Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động nghiệp
vụ khi tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành của chủ thể kiểm tra, được thực hiện thông qua một số cán
bộ, nhằm tìm ra các bằng chứng, chứng cứ cụ thể, xác thực, qua đó thẩm
định, phân tích để làm rõ sự thật, làm căn cứ để chủ thể kiểm tra nhận xét,
đánh giá, kết luận và xử lý công minh, chính xác đối tượng kiểm tra.
Khái niệm trên đây làm rõ được bản chất của thẩm tra, xác minh như
vị trí, tính chất, chủ thể chỉ đạo, chủ thể thực hiện, mục tiêu của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong cơng tác kiểm tra của Đảng.
Có thể xem xét, phân tích khái niệm thẩm tra, xác minh từ một số
khía cạnh chủ yếu sau: Một là, thẩm tra, xác minh như là một công cụ
quan trọng, một nguyên tắc cơ bản trong khâu tìm kiếm, phát hiện, thu
thập thơng tin, chứng cứ liên quan đến nội dung, đối tượng cần thẩm tra,

xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Đây cũng là phương pháp hiệu
quả để tìm ra sự thật, bản chất sự việc giúp các cấp ủy, tổ chức đảng có
thẩm quyền xem xét kết luận, xử lý một cách nghiêm minh, chính xác đối
với các nội dung và đối tượng vi phạm. Hai là, hoạt động thẩm tra, xác
minh là khâu rất quan trọng trong công tác kiểm tra của Đảng, nhưng phải
luôn thực hiện công khai, dân chủ, tự phê bình và phê bình để xem xét, tra


10
cứu, thẩm định, đánh giá, phân tích và sử dụng các chứng cứ nhằm làm rõ
bản chất của sự việc và hành vi, nội dung và đối tượng kiểm tra để kết luận
rõ đúng sai đảm bảo đúng nguyên tắc, phương pháp cơng tác đảng. Ba là,
mục đích, u cầu cơ bản của thẩm tra, xác minh là tìm ra bản chất, làm
rõ sự thật bằng chứng cứ xác thực trên cơ sở khoa học, khách quan. Từ
chứng cứ qua thẩm tra, xác minh đã được thẩm định giúp cho các tổ chức
đảng có thẩm quyền kết luận và ra quyết định đối với các nội dung, đối
tượng kiểm tra. Độ chính xác và hiệu quả của các kết luận, quyết định xử
lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra chủ yếu tùy
thuộc vào kết quả và độ chính xác của các chứng cứ thu thập được qua
thẩm tra, xác minh.
2.2.2. Vị trí, vai trị, đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong cơng
tác kiểm tra của Đảng
2.2.2.1. Vị trí, vai trị của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng
Một là, thẩm tra, xác minh là khâu quan trọng, không thể thiếu được
trong tồn bộ quy trình thực hiện cơng tác kiểm tra của Đảng; hai là, chất
lượng và kết quả của hoạt động thẩm tra, xác minh trực tiếp quyết định độ
chính xác của các kết luận và độ xác đáng của các quyết định xử lý của tổ
chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra; ba là, thẩm tra, xác
minh góp phần giúp cơng tác kiểm tra giữ gìn tính nghiêm minh của kỷ luật

đảng, bảo đảm sự công bằng trong tổ chức, xây dựng nội bộ đoàn kết, trong
sạch, vững mạnh; bốn là, thẩm tra, xác minh góp phần thúc đẩy tính tự giác,
trung thực tiên phong của đảng viên.
2.2.2.2. Đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Một là, thẩm tra, xác minh là hoạt động trong nội bộ Đảng, liên quan
đến sự lãnh đạo, thực hiện và kỷ luật đảng, chủ yếu giữa các tổ chức đảng
và từng đảng viên. Tuy nhiên, do Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo
toàn bộ xã hội, nên nhiều vấn đề trong nội bộ Đảng cũng liên quan đến
quần chúng nhân dân, đến các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Hai là, nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh tập trung vào những
hành vi có liên quan đến kỷ luật đảng; đối với dấu hiệu vi phạm pháp luật
của Nhà nước thì phối hợp với cơ quan pháp luật xem xét, xử lý hoặc
chuyển cho cơ quan điều tra giải quyết và báo cáo kết quả với tổ chức
đảng có thẩm quyền để xem xét, xử lý.
Ba là, thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng được tiến
hành theo nguyên tắc và phương pháp công tác đảng: công khai, dân chủ,


11
dựa vào tổ chức đảng, phát huy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên,
phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng, đối tượng kiểm tra
đồng thời là chủ thể kiểm tra nên vừa có quyền, vừa có trách nhiệm tự
kiểm tra.
Phương pháp thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động nội bộ của Đảng - nên, phải lấy tự phê bình và phê bình làm
biện pháp chính yếu. Khi tiến hành thẩm tra, xác minh phải dùng phương
pháp vận động, thuyết phục, cảm hoá, nêu gương là chủ yếu, không được
“cài bẫy”, ép buộc hoặc hứa hẹn vô nguyên tắc.
Bốn là, trong quá trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng không sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ
pháp luật như sử dụng cơ sơ bí mật, đặc tình, ngoại tuyến…

Năm là, hoạt động thẩm tra, xác minh được thực hiện theo các khâu:
lập kế hoạch thẩm tra, xác minh, tiến hành thẩm tra, xác minh, báo cáo kết
quả thẩm tra, xác minh và sử dụng kết quả thẩm tra, xác minh để kết luận
và xử lý (nếu có vi phạm) theo thẩm quyền được quy định trong Điều lệ
Đảng và các quy định khác trong Đảng.
2.2.3. Nguyên tắc và thẩm quyền, trách nhiệm thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.3.1. Nguyên tắc thẩm tra, xác minh
Một là, phải bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra; hai là,
tiến hành thẩm tra, xác minh phải dân chủ, công khai, thận trọng, chặt
chẽ, công tâm, khách quan; không bị chi phối bởi bất kỳ sức ép nào; ba
là, thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và phương pháp
công tác kiểm tra đảng.
2.2.3.2. Thẩm quyền, trách nhiệm thẩm tra, xác minh
Thẩm quyền thẩm tra, xác minh gắn liền với thẩm quyền kiểm tra.
Tổ chức đảng nào quyết định kiểm tra thì thẩm quyền thẩm tra, xác minh
thuộc tổ chức đó. Việc quyết định và chỉ đạo thẩm tra, xác minh thuộc
thẩm quyền của chủ thể kiểm tra, còn việc tiến hành thẩm tra, xác minh do
đội ngũ cán bộ kiểm tra thực hiện.
Đối với đồn (tổ) và cán bộ kiểm tra phải có trách nhiệm thực hiện
đúng mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra và sự chỉ đạo của chủ thể kiểm tra
về hoạt động thẩm tra, xác minh. Thẩm tra, xác minh không đầy đủ, chính
xác, trung thực là trách nhiệm của cán bộ và đoàn (tổ) kiểm tra.


12
2.2.4. Nội dung, đối tượng, quy trình, phương pháp thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.4.1. Nội dung thẩm tra, xác minh
Nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung kiểm tra có vấn đề

cần được xem xét, làm rõ. Mỗi nhiệm vụ kiểm tra và vụ việc kiểm tra có
nội dung riêng nên nội dung thẩm tra, xác minh rất đa dạng, tùy thuộc vào
nội dung kiểm tra. Nội dung thẩm tra, xác minh bao gồm: những mâu
thuẫn giữa sự việc so với các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
những vấn đề có tố cáo, hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng,
các nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần đi sâu
nghiên cứu; những vấn đề đã gợi ý kiểm điểm, giải trình nhưng chưa được
các đối tượng kiểm tra báo cáo, làm rõ.
2.2.4.2. Đối tượng thẩm tra, xác minh
Đối tượng thẩm tra, xác minh là những thông tin, tư liệu, sự việc,
hiện vật và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến đối tượng và nội dung
cần kiểm tra.
2.2.4.3. Quy trình tiến hành thẩm tra, xác minh
Quy trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là
những quy định về trình tự thủ tục các hoạt động chủ yếu để tiến hành xem
xét, tra cứu, thẩm định nhằm mục tiêu tìm ra sự thật của những thơng tin,
sự kiện, hành vi có liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra của
Đảng.
Trong quy trình thẩm tra, xác minh có nhiều khâu, nhiều động tác
hoạt động và có thể chia thành nhiều bước cụ thể. Tuy nhiên, quy trình tiến
hành thẩm tra, xác minh hiện nay vẫn thường được quy tụ và thực hiện
theo 3 bước cơ bản mang tính tổng quát như sau:
Bước thứ nhất, chuẩn bị và xây dựng kế hoạch.
Bước thứ hai, tiến hành các hoạt động thẩm tra, xác minh.
Bước thứ ba, thống nhất nội dung báo cáo thẩm tra, xác minh trình
cấp có thẩm quyền kết luận.
2.2.4.4. Phương pháp tiến hành thẩm tra, xác minh
Một là, thu thập bằng chứng: hai là, nghiên cứu, phân tích, xử lý tài
liệu, thơng tin, bằng chứng đã thu thập được; ba là, trưng cầu ý kiến giám
định của các cơ quan nghiệp vụ đối với những vấn đề cần thiết; bốn là, khi

tiến hành thẩm tra, xác minh, chủ thể kiểm tra phải thường xuyên tiếp xúc
với tổ chức đảng, đảng viên có liên quan và đối tượng kiểm tra; thực hiện
nghiêm túc việc phê bình; năm là, thẩm định, rà soát lại và trao đổi một số
nội dung liên quan; sáu là, viết báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh.


13
2.2.5. Tiêu chí đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh trong cơng
tác kiểm tra của Đảng
Có thể đánh giá chất lượng hoạt động thẩm tra, xác minh qua một số
tiêu chí sau đây: Một là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải thực hiện đúng
nguyên tắc, theo kế hoạch đã được xác định; hai là, nắm chắc nội dung
kiểm tra để xác định và lựa chọn đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác
minh; ba là, thực hiện đúng quy trình, phương pháp thẩm tra, xác minh
trong cơng tác kiểm tra của Đảng; bốn là, tìm ra các chứng cứ xác đáng,
khách quan, làm căn cứ, cơ sở chính xác đảm bảo cho kết luận kiểm tra và
quyết định xử lý của chủ thể kiểm tra được đúng đắn; năm là, góp phần tác
động đến chất lượng hoạt động và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các
tổ chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Chương 3
THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

3.1.1. Những ưu điểm của hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng
Thứ nhất, chủ thể kiểm tra, cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra đã
từng bước có nhận thức đúng về vị trí, vai trị của thẩm tra, xác minh

trong cơng tác kiểm tra của Đảng, làm tiền đề để lãnh đạo, chỉ đạo và
thực hiện thẩm tra, xác minh: Các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên vừa
là chủ thể kiểm tra và tự kiểm tra, đồng thời là đối tượng kiểm tra, là chỗ
dựa khi cấp trên tiến hành kiểm tra đã từng bước nhận thức đúng và rõ hơn
về vị trí, vai trị, ý nghĩa của hoạt động thẩm tra, xác minh khi tiến hành
các cuộc kiểm tra.
Thứ hai, luôn bám sát nội dung kiểm tra, từ đó xác định chính xác
nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh: Phần lớn đội ngũ cán bộ kiểm tra
có kiến thức, vốn sống thực tiễn phong phú và khả năng hình thành chính
kiến nhanh. Nhìn chung, đại đa số cán bộ kiểm tra có tác phong sâu sát,
tìm cách thâm nhập thực tiễn để nắm bắt thông tin đa dạng, đa chiều trong
quá trình thẩm tra, xác minh; tuân thủ đúng nguyên tắc và phương pháp
công tác, coi trọng cách làm việc khách quan, cơng tâm, chính xác, thận


14
trọng và nghiêm túc, cách xem xét, kết luận có lý, có tình và tơn trọng đối
tượng tiếp xúc.
Thứ ba, thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, cách thức, thủ tục
thẩm tra, xác minh: các đoàn (tổ) kiểm tra đã căn cứ nội dung và đối tượng
kiểm tra để lựa chọn, xác định đúng, cụ thể các nội dung và đối tượng cần tập
trung thẩm tra, xác minh và dự kiến các đối tượng có thể phát sinh khác.
Thứ tư, trình độ nghiệp vụ, vốn sống thực tiễn, phong cách làm việc,
ý chí quyết tâm và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ kiểm tra được
nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ: Quá trình tiến hành thẩm
tra, xác minh, ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra đã luôn bám chắc và thực
hiện đúng các phương pháp công tác kiểm tra; quán triệt và chấp hành
đúng phương pháp thẩm tra, xác minh phải tuân thủ phương pháp công tác
Đảng, là công tác nội bộ trong Đảng; thực hiện đúng quy trình, thủ tục.
Thứ năm, qua thẩm tra, xác minh đã làm rõ, kết luận và xử lý nhiều

vụ, việc vi phạm phức tạp, củng cố niềm tin cho đảng viên và quần chúng
nhân dân: Khi tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã luôn bám sát và tuân thủ thực hiện đúng
các nguyên tắc thẩm tra, xác minh, đó là: Bám sát nội dung kiểm tra; phải
dân chủ, khách quan, công khai; phải thực hiện đúng các nguyên tắc, quy
định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra của Đảng.
3.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm của hoạt động thẩm tra, xác
minh trong cơng tác kiểm tra của Đảng
Một là, sau khi có kế hoạch kiểm tra, chưa quan tâm đến việc lập kế
hoạch thẩm tra, xác minh; kế hoạch không cụ thể, tỷ mỉ, chính xác, dẫn
đến khó khăn khi thực hiện, hạn chế kết quả thẩm tra, xác minh; hai là,
việc thu thập thơng tin, tài liệu, bằng chứng cịn lúng túng, chưa linh hoạt,
nhiều trường hợp khơng đủ, khơng chính xác; ba là, việc nghiên cứu, phân
tích, xử lý các văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng không kỹ, không
sâu dẫn đến nhiều cuộc kiểm tra bị kéo dài, kết luận nội dung và đối tượng
kiểm tra khơng chính xác; bốn là, chất lượng báo cáo kết quả thẩm tra, xác
minh chưa tốt, chưa chuyển tải hết các chứng cứ để phục vụ việc kết luận
nội dung kiểm tra, làm hạn chế kết quả, chất lượng công tác kiểm tra.
3.2. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC
MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm
3.2.1.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua được
Đảng và Nhà nước tiến hành quyết liệt đã có ảnh hưởng và tác động tích


15
cực, thúc đẩy công tác kiểm tra của Đảng, trong đó có việc thẩm tra, xác
minh có chất lượng, hiệu quả hơn; hai là, xu thế dân chủ, công khai, minh

bạch trong đời sống xã hội, trong cơ quan Nhà nước ngày càng phát triển,
nhất là tình hình và kết quả chất vấn trong Quốc hội, hội đồng nhân dân các
cấp; việc các phương tiện truyền thông đại chúng đưa tin cơng khai nhiều
vụ việc đã có tác động tích cực đến công tác xây dựng, củng cố Đảng, đến
công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng; ba
là, có sự phối hợp, cộng tác tích cực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các
đồn thể nhân dân trong hệ thống chính trị và các ban, ngành có liên quan
trong q trình kiểm tra, nhất là khi thẩm tra, xác minh.
3.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp
uỷ các cấp đã kịp thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định
và luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra và
kỷ luật trong Đảng, từ đó tạo đà để việc thẩm tra, xác minh tốt hơn; hai là,
Ủy ban Kiểm tra Trung ương và uỷ ban kiểm tra các cấp đã xác định được
trách nhiệm là cơ quan chuyên trách về công tác kiểm tra của Đảng, từng
bước hoàn thiện và đổi mới quy trình, phương pháp cơng tác, tích cực chỉ
đạo việc thẩm tra, xác minh để thực hiện có kết quả các cuộc kiểm tra; ba
là, trình độ, năng lực và trách nhiệm của cán bộ trực tiếp làm công tác
kiểm tra đã được nâng lên một bước, góp phần có tính quyết định đến kết
quả thẩm tra, xác minh.
3.2.2. Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm
3.2.2.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, nội dung, đối tượng kiểm tra, thẩm tra, xác minh ngày càng
đa dạng, phong phú, phức tạp, vi phạm và cách thức vi phạm trong Đảng
ngày càng tinh vi, khó lường; hai là, sự phối hợp giữa công tác kiểm tra
của Đảng với cơng tác thanh tra, kiểm tốn Nhà nước, cơng tác kiểm tra,
giám sát của các đồn thể chính trị - xã hội, các ban, ngành có liên quan
chưa tốt, chưa hiệu quả; ba là, các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước
chưa đầy đủ, đồng bộ, cịn chồng chéo, làm ảnh hưởng đến q trình thực
hiện và kết quả thẩm tra, xác minh.

3.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có
ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra nói chung và cán bộ trực tiếp tiến hành
thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa đầy đủ; hai là, chất lượng đội ngũ cán bộ
trực tiếp làm cơng tác kiểm tra nhìn chung cịn bất cập, chưa đáp ứng yêu


16
cầu địi hỏi ngày càng cao của cơng tác kiểm tra nói chung và hoạt động
thẩm tra, xác minh nói riêng; ba là, ngun tắc, phương pháp, quy trình
cơng tác kiểm tra nói chung và trong hoạt động thẩm tra, xác minh còn
thiếu cụ thể, bất cập, chưa phù hợp thực tế trong nội bộ Đảng hiện nay.
3.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA QUA THỰC
TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM
TRA CỦA ĐẢNG

3.3.1. Một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng
Để làm tốt việc thẩm tra, xác minh, xuất phát từ thực tiễn công tác kiểm
tra trong Đảng thời gian qua, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
Một là, ban thường vụ cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng,
ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp làm cơng tác kiểm tra các cấp phải có
nhận thức đúng, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, vị trí, vai trị của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong cơng tác kiểm tra của Đảng; hai là, phải ln có
sự quan tâm chỉ đạo cụ thể, kịp thời, sát sao và kiên quyết của thường trực
cấp ủy, thường trực ủy ban kiểm tra trong quá trình thẩm tra, xác minh; ba
là, bám sát nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh; quá trình tiến hành
thẩm tra, xác minh phải năng động, sáng tạo, linh hoạt trong phương pháp,
cách thức tiến hành; bốn là, có đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm
tra đủ “tâm”, đủ “tầm”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, tính phức tạp của cơng

tác kiểm tra nói chung và việc thực hiện thẩm tra, xác minh nói riêng.
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra qua hoạt động thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Đảng
Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng thời gian qua có nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu, làm rõ để
giải quyết và thực hiện tốt hơn trong thời gian tới; trước mắt xin nêu một
số nội dung sau đây:
Một là, cần nghiên cứu, làm rõ sự bất cập và hạn chế của nguyên tắc,
phương pháp thẩm tra, xác minh để vận dụng, thực hiện cho phù hợp với
tình hình thực tế trong Đảng hiện nay; hai là, trình độ, năng lực của đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra đang hạn chế, bất cập trước yêu
cầu, nhiệm vụ là làm rõ các hành vi vi phạm của tổ chức đảng và đảng
viên khi tiến hành thẩm tra, xác minh; ba là, cần có sự giám sát quá trình
thẩm tra, xác minh và phản biện kết quả thẩm tra, xác minh, coi đây là
nhân tố tác động quan trọng để nâng cao chất lượng thẩm tra, xác minh nói
riêng và cơng tác kiểm tra nói chung; bốn là, phải coi thẩm tra, xác minh là
kỹ năng nghiệp vụ mang tính khoa học và thực tiễn, cần được nghiên cứu,
tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để ngày càng làm tốt hơn trong thời gian tới.


17
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH
TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. DỰ BÁO MỘT SỐ TÌNH HÌNH CĨ LIÊN QUAN VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM
TRA CỦA ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1.1. Dự báo một số tình hình có liên quan

4.1.1.1. Những nhân tố tác động, làm nảy sinh và gia tăng vi phạm
kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian tới
Từ nay đến năm 2020, tình hình thế giới, khu vực và trong nước sẽ
có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Điều đó tạo ra cả
thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề
mới, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng.
Trong bối cảnh đó, có những nhân tố, điều kiện tác động đến Đảng, làm
nảy sinh, gia tăng tình hình vi phạm của kỷ luật của tổ chức đảng và
đảng viên:
Một là, những mặt trái, tiêu cực của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, công cuộc đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố cùng với quá hội nhập, mở rộng hợp tác, đa
phương, đa dạng hóa đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào nhận thức và
hành động của cán bộ, đảng viên.
Hai là, trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, là Đảng duy
nhất lãnh đạo tồn bộ xã hội, đang cịn thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực,
nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, bên cạnh thuận lợi là cơ bản cũng
nảy sinh nhiều nguy cơ như: chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, xa dân, độc
đoán, chuyên quyền, đặc quyền đặc lợi, có thể dẫn đến tha hóa, biến chất,
mất lịng tin; xuất hiện tâm lý hoài nghi mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Ba là, các thế lực thù địch, phản động quốc tế sẽ tăng cường cấu kết
với các tổ chức phản động trong nước để tiếp tục thực hiện “diễn biến hịa
bình”, làm diễn biến, chuyển hóa (kể cả tự diễn biến, tự chuyển hóa) từ
trong nội bộ Đảng, trước hết là chuyển hóa về tư tưởng chính trị. Chúng
tiếp tục dùng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền để tấn công, ép buộc ta,
lợi dụng chiêu bài dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực để kích
động các phần tử cực đoan, bất mãn chống đối, chia rẽ Đảng, Nhà nước
với nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.



18
Bốn là, q trình thực hiện thí điểm một số chủ trương, chính sách về
quản lý hành chính, về sản xuất, kinh doanh, nếu khơng có cơ chế phân cấp,
phân quyền, quản lý, kiểm soát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kịp thời để điều
chỉnh, chấn chỉnh cho phù hợp trong quá trình thực hiện sẽ tạo điều kiện
cho một bộ phận tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên lợi dụng để làm trái, trục
lợi, gây thất thoát, thiệt hại cho lợi ích của Đảng, Nhà nước, của nhân dân.
Năm là, tình trạng các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước
chồng chéo, thiếu đồng bộ, không bao quát hết các hành vi, tạo khuôn khổ
pháp lý để cán bộ, đảng viên tuân theo; trong khi, một số cán bộ, đảng viên
lại lợi dụng kẽ hở, “lách luật” để khơng làm hoặc làm sai.
Những nhân tố trên có thể tác động, làm nảy sinh và gia tăng vi
phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian tới, đặt ra cho
cơng tác kiểm tra nói chung, hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng khối
lượng nhiệm vụ nặng nề hơn, yêu cầu chủ động hơn trong việc nắm bắt,
nhận dạng để có biện pháp đấu tranh, phịng ngừa, ngăn chặn và xử lý
thích hợp, hiệu quả.
4.1.1.2. Tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên
và sự tác động đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng trong thời gian tới
Từ các nhân tố tác động nêu trên đối với hoạt động, sinh hoạt, việc
chấp hành kỷ luật đảng của tổ chức đảng và đảng viên cũng ảnh hưởng đến
tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
- Tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra
hết sức đa dạng, phức tạp, tinh vi và có chiều hướng gia tăng ở các tất cả
các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, lĩnh vực tư
pháp, lĩnh vực dịch vụ công, sản xuất - kinh doanh, thực hiện chính sách an
sinh, xã hội...
- Vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra ở tất cả các cấp,
các ngành (cơ quan đảng, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp,

lực lượng vũ trang, đồn thể chính trị - xã hội, đơn vị sản xuất - kinh
doanh), các khu vực (khu vực đô thị, khu vực nông thôn, khu vực miền
núi...), cả ở trong nước và ngồi nước (nơi có đảng viên cơng tác, làm việc,
học tập, lao động ở nước ngoài).
- Vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra ở phạm vi rộng,
ở tất cả các lĩnh vực, sẽ xuất hiện những nội dung vi phạm mới trong
những lĩnh vực hoạt động mối của đời sống xã hội…
- Cùng với các vi phạm mang tính cá nhân, sẽ xuất hiện vi phạm theo
nhóm, mang tính tập thể, có tổ chức, cấu kết theo chuỗi (cán bộ chính


19
quyền, doanh nghiệp, xã hội đen...) cũng gia tăng với tính chất, mức độ
nghiêm trọng, phức tạp, thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều loại đối tượng…
- Tính tự giác, tự phê bình trong một bộ phận tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp có khuyết điểm, vi phạm ngày càng giảm
sút, chưa thể khắc phục được ngay trong một thời gian ngắn.
Những xu hướng, dấu hiệu vi phạm kỷ luật như trên của một bộ phận
cán bộ, đảng viên sẽ khiến cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng gặp nhiều khó khăn, phức tạp hơn, địi hỏi phải
được tiến hành công phu, kỹ lưỡng hơn, với phạm vi, nội dung, đối tượng
rộng hơn và yêu cầu có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên hơn.
4.1.2. Phương hướng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khố X về tăng cường cơng tác
kiểm tra, giám sát của Đảng; Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm
2020 và một số văn bản khác của Trung ương về công tác kiểm tra, giám

sát là căn cứ, định hướng cho công tác kiểm tra nói chung, cho hoạt động
thẩm tra, xác minh trong cơng tác kiểm tra của Đảng nói riêng. Trên cơ sở
đó và xuất phát từ thực trạng thời gian qua, hoạt động thẩm tra, xác minh
trong thời gian tới cần quán triệt và thực hiện phương hướng sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về hoạt động thẩm tra, xác minh;
bổ sung, hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, phấn đấu nâng cao
hơn nữa chất lượng thẩm tra, xác minh để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của công tác kiểm tra là xem xét, kết luận đúng, kịp thời và xử lý nghiêm
minh vi phạm trong Đảng. Đề cao trách nhiệm của chủ thể kiểm tra và cán
bộ kiểm tra được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh.
Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải gắn liền với các phương
pháp công tác kiểm tra của Đảng, luôn bảo đảm sự chỉ đạo của thường trực
cấp uỷ và thường trực uỷ ban kiểm tra, bám sát mục tiêu, yêu cầu cuộc kiểm
tra, thực hiện đúng các nguyên tắc sinh hoạt trong Đảng. Quá trình thẩm tra,
xác minh phải phục vụ và nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu cuộc kiểm tra đã được
xác định, đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và sự chỉ đạo,
điều hành của chủ thể kiểm tra.


20
Ba là, tập trung cao độ xác định rõ chứng cứ, có cơ sở pháp lý,
chứng lý, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh,
nhằm làm rõ được đúng, sai nội dung kiểm tra, để xem xét, kết luận rõ
ràng, chính xác ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và xử lý kịp thời
đối tượng kiểm tra theo quy định của Đảng, góp phần làm tốt cơng tác
kiểm tra của Đảng trong tình hình mới.
Để thực hiện tốt phương hướng trên đây, cần thực hiện một số yêu
cầu sau đây:
- Tăng cường tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức tư tưởng,
trách nhiệm của chủ thể kiểm tra và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác

kiểm tra trong việc thẩm tra, xác minh.
- Phải từng bước hoàn thiện và đổi mới phương pháp và cách thức
thẩm tra, xác minh gắn liền với đổi mới, cải tiến phương pháp, quy trình
cơng tác kiểm tra; xây dựng và ban hành quy trình thẩm tra, xác minh, làm
cơ sở cho hoạt động này đi vào chiều sâu.
- Trong mỗi cuộc, vụ, việc kiểm tra, quá trình thẩm tra, xác minh cần
phải được tiến hành một cách chính xác, khách quan, cơng tâm, thận trọng,
tỷ mỉ, chặt chẽ, đúng quy định, kiên quyết và kịp thời.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG
THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

Xuất phát từ thực trạng thuận lợi, tiến bộ cũng như khó khăn, yếu
kém của hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua và căn cứ các quan
điểm định hướng của Đảng về nhiệm vụ kiểm tra trong tình hình mới, tác
giả luận án đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng thời gian tới như sau:
4.2.1. Nâng cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm
tra các cấp và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trị của thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức để tổ chức đảng và đảng
viên thấy được thẩm tra, xác minh là để làm rõ sự thật, chỉ ra đúng tính
chất, mức độ vi phạm, đồng thời minh oan cho những trường hợp không vi
phạm. Phải đấu tranh khắc phục tư tưởng mặc cảm, phản ứng, có suy nghĩ
xấu về cơng tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói
riêng, như cho rằng kiểm tra hoặc khi thẩm tra, xác minh kỹ, thận trọng thì
cho đó là "vạch lá tìm sâu", "bới bèo ra bọ"…


21
4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban

kiểm tra; sự chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và
thường trực uỷ ban kiểm tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh
Ủy ban, thường trực ủy ban kiểm tra các cấp phải thường xuyên quan
tâm chú ý, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện, hỗ trợ cho các đoàn (tổ)
kiểm tra, một mặt để định hướng, uốn nắn giúp hoạt động của đoàn (tổ)
kiểm tra đi đúng hướng, đúng trọng tâm, trọng điểm, thực hiện đúng quy
trình, quy định, cụ thể những trường hợp nào cần tập trung thẩm tra, xác
minh kỹ, sâu; mặt khác, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong q trình tiến hành thẩm tra, xác minh để vụ việc được kiểm tra sớm
hoàn thành và đạt kết quả cao.
4.2.3. Tiếp tục bổ sung, hồn thiện và đổi mới phương pháp, quy
trình, các quy định, hướng dẫn tiến hành thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng
4.2.3.1. Về phương pháp
Thời gian tới cần thực hiện bảy phương pháp đặc trưng, cụ thể: Một
là, trực tiếp, tại chỗ, “mắt thấy, tai nghe”; hai là, kết hợp thẩm tra, xác
minh của cấp trên với tự vấn, tự kiểm tra của đối tượng kiểm tra; ba là,
động viên, đối thoại, chất vấn, đối chất trong q trình thu thập, phân tích
chứng cứ; bốn là, cơng khai, minh bạch các tài liệu, chứng cứ trước tổ
chức đảng và đối tượng kiểm tra để thảo luận, xem xét, có chính kiến nhận
xét, đề nghị; năm là, phải quan niệm đúng về “án tại hồ sơ”, “trọng chứng
hơn trọng cung”, nhưng coi trọng cả “chứng” lẫn “cung”; sáu là, phân tích,
đánh giá chứng cứ với tư duy lơgíc biện chứng mang tính pháp lý và thực
tiễn; ln nghi ngờ các tài liệu, hồ sơ, chứng cứ với tinh thần cầu thị, khoa
học, phát hiện mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn, tìm ra bản chất và sự thật,
tránh cực đoan, một chiều, duy ý chí; bảy là, tổ chức giám sát chặt chẽ quá
trình thẩm tra, xác minh để bảo đảm tính chính xác, khách quan, hạn chế các
khuyết điểm trong thẩm tra, xác minh.
4.2.3.2. Về quy trình
Trong thời gian tới, cần xây dựng, hồn thiện, văn bản hóa và ban

hành quy trình thẩm tra, xác minh trong cơng tác kiểm tra của Đảng, gồm
ba bước: bước chuẩn bị (gồm chuẩn bị kế hoạch và phân công cán bộ); bước
tiến hành thẩm tra, xác minh (Tiếp cận đối tượng kiểm tra, đối tượng thẩm
tra, xác minh, quần chúng nhân dân để thu thập tài liệu, thông tin, chứng
cứ, giám định, phân tích chứng cứ, giải trình của đối tượng kiểm tra, trao
đổi với các tổ chức đảng, tiếp tục thẩm tra, xác minh... - là bước rất quan
trọng, có tính quyết định đến chất lượng hoạt động thẩm tra, xác minh;
bước tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh.


22
4.2.3.3. Thực hiện tốt 3 chỗ dựa, 2 phối hợp, 5 khâu trong khi tiến
hành thẩm tra, xác minh
4.2.3.4. Ban hành một số quy định để làm cơ sở thực hiện tốt việc
thẩm tra, xác minh
4.2.3.5. Tổ chức phản biện kết quả thẩm tra, xác minh
4.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng giai đoạn hiện nay
Trong đó: Một là, thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan
ủy ban kiểm tra; từng bước bổ sung số lượng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ cho ủy ban kiểm tra các cấp; hai là, quan tâm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện thẩm tra, xác minh các vụ việc.
4.2.5. Tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ
chức trong hệ thống chính trị để tiến hành thẩm tra, xác minh
Thực hiện phối hợp dựa trên việc trao đổi, cung cấp thông tin, hồ sơ,
tài liệu các vụ việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết
khiếu nại kỷ luật đảng; về lĩnh vực kinh tế - xã hội, nội chính, tài sản của
Đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; các đơn
thư tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng thuộc thẩm quyền của các cấp ủy, tổ

chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp; thực hiện các biện pháp tác nghiệp
đặc thù của mỗi cơ quan; thẩm định, kết luận và có ý kiến phúc đáp chủ
thể thẩm tra, xác minh về các vấn đề, nội dung được đề nghị phối hợp
thẩm tra, xác minh…
4.2.6. Tăng cường nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Thẩm tra, xác minh cần được tổ chức tiến hành nghiên cứu một cách
thật cơ bản và có hệ thống, xây dựng những tài liệu lý luận nghiệp vụ
chuyên sâu giúp cho cán bộ kiểm tra nghiên cứu, học tập, tham khảo, vận
dụng vào thực tiễn. Hướng nghiên cứu cần tập trung vào đổi mới, tìm ra
cách tiến hành thẩm tra, xác minh thực sự khoa học, sáng tạo, thích hợp
với nội dung, đối tượng kiểm tra trong tình hình hiện nay.
Nghiên cứu các cơng trình khoa học, các đề tài, đề án, các báo cáo về
kỹ năng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh cần đi sâu vào tổng kết cả lý luận và
thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để xây dựng thành các cuốn "cẩm nang" có
tính chất chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động tác nghiệp thẩm tra, xác minh,
trang bị cho cán bộ trong toàn ngành Kiểm tra, nhất là những cán bộ trực
tiếp nắm tình hình, nắm địa bàn, trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh.


23
KẾT LUẬN
1. Công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra là cơng tác đảng, có đặc thù
riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật
những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc thù này không
những khác với các ban của cấp uỷ mà còn khác với các cơ quan bảo vệ
pháp luật của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ quan độc
lập tiến hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các phương pháp
cơ bản khác của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt hoạt động
thẩm tra, xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được cơng

minh, chính xác, kịp thời.
Thẩm tra, xác minh là khâu đặc biệt quan trọng và mang tính quyết
định trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kiểm tra của Đảng. Thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng là những hoạt động mang tính xem
xét, tra cứu, thẩm định để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất các thông tin,
vụ việc cũng như hành vi của đối tượng kiểm tra, bằng chứng cứ và chứng
lý thẩm tra, xác minh. Trên cơ sở chứng cứ và chứng lý thẩm tra, xác
minh, các tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định kết luận xử lý đối với
các nội dung và đối tượng kiểm tra. Phương châm "chủ động, chiến đấu,
giáo dục, hiệu quả" của cơng tác kiểm tra đảng và “cơng minh, chính xác,
kịp thời” trong thi hành kỷ luật đảng phụ thuộc phần lớn vào độ chính xác
và hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh.
2. Việc thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ, ưu điểm: Các cấp ủy, tổ chức
đảng và đảng viên đã từng bước nhận thức đúng và rõ hơn về vị trí, vai trò,
ý nghĩa của hoạt động thẩm tra, xác minh khi tiến hành các cuộc kiểm tra.
Trình độ nghiệp vụ của đa số cán bộ kiểm tra ngày càng được nâng cao,
vốn sống thực tiễn phong phú, phong cách làm việc khoa học, khách quan,
cơng tâm, có chính kiến trong cơng việc. Khi tiến hành thẩm tra, xác minh,
cán bộ kiểm tra các cấp đã luôn bám sát, tuân thủ các nguyên tắc thẩm tra,
xác minh; cơ bản đã lựa chọn, xác định và thực hiện đúng nội dung, đối
tượng thẩm tra, xác minh; việc thực hiện phương pháp, cách thức, thủ tục
thẩm tra, xác minh được đảm bảo thận trọng, chính xác, tỷ mỉ. Qua thẩm
tra, xác minh, đã tìm được nhiều chứng cứ xác đáng, chứng lý sắc bén, góp
phần quyết định để uỷ ban kiểm tra các cấp có căn cứ, cơ sở xem xét, đánh
giá, kết luận cuộc kiểm tra.
Tuy nhiên, thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
cũng cịn khơng ít hạn chế: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra



×