Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.86 KB, 10 trang )

KHƠNG GIAN VĂN HĨA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUN
I. Nguồn gốc, đặc điểm:
- Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử
rất lâu đời.
- Theo dịng lịch sử văn hố cồng chiêng được bắt nguồn từ văn minh
Đông Sơn cổ đại được biết đến với tư cách là một nền văn hoá trống đồng nổi
tiếng ở Đông Nam Á. Nghệ thuật cồng chiêng của Việt Nam đã phát triển đến
một trình độ cao so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Giá trị văn hóa
của cồng chiêng ở Việt Nam có vị thế đặc biệt nổi bật trong hệ nhạc khí cổ
truyền bởi nó bắt nguồn từ sự tổng hồ các giá trị văn hóa đa dạng như: Giá trị
biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa vùng; Giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc
người hoặc nhóm tộc người; Giá trị phản ánh đa chiều; Giá trị nghệ thuật; Giá trị
sử dụng đa dạng; Giá trị vật chất; Giá trị biểu thị sự giàu sang và quyền uy; Giá
thị tinh thần; Giá trị cố kết cộng đồng và Giá trị lịch sử. Cồng chiêng được xem
là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu của con người, thần thánh và thế giới siêu nhiên,
những chiếc cồng chiêng của mỗi gia đình xưa kia cịn biểu hiện cho sự giàu có,
thịnh vượng của những con người nơi đây .
- Cồng chiêng rất phổ biến ở Đơng Nam Á, thậm chí nó là nét văn hóa
mang tính chất cơ tầng của khu vực này. Nhưng nhiều nước đã biến văn hóa
cồng chiêng của mình thành chuyên nghiệp và cung đình như: Indonexia, Thái
Lan, Malayxia, Mianma, Lào. Còn riêng ở Việt Nam, cồng chiêng vẫn ở trong
tay người dân, vẫn là của cộng đồng, là tài sản của tồn dân chứ khơng bó
hẹp của các tầng lớp quý tộc như các nước khác. Thêm nữa, nghẹ thuật cồng
chiêng gắn chặt với đời sống con người,người ta có thể ví “cuộc đời dài như
tiếng chiêng”. Rồi bất cứ hiện tượng quan trọng nào cũng đều có sự góp mặt của
cồng chiêng.


- Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng Tây Nguyên là
“hậu duệ” của đàn đá. Trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại
công cụ đá: cồng đá, chiêng đá…tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có cồng


chiêng. Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống
đồng, biểu hiện của tín ngưỡng – là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên. Âm
thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thơi thúc trầm hung, hịa quyện với tiếng suối,
tiếng gió với tiếng long người, sống mãi cùng đất trời và con người Tây Nguyên.
Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh cho đến lễ bỏ mả, lễ
cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu…Hay trong
buổi nghe khan…đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng
chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.
- Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh: Kon
Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn
hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơ
ho, Rơ măm, Êđê, Giarai… Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của
người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diến tả
niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và trong sinh hoạt hàng
ngày của họ.
- Cồng, chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc
hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng khơng có núm. Cá dàn cồng chiêng
thường gồm nhiều bộ. Mỗi bộ có số lượng khác nhau và đảm nhiệm những chức
năng riêng trong cuộc hòa tấu. Nhạc cụ cồng chiêng có nhiều cỡ, đường kính từ
20,50 đến 60 cm, loại cực đại là 90 đến 120cm. Cồng chiêng có thể dùng đơn lẻ
hoặc dùng theo dàn, một bộ có từ 2 đến 12-13 chiếc, thậm chí có nơi 18-20
chiếc. Trong một bộ chiêng có chiêng mẹ ( chiêng cái) là quan trọng nhất. Các
dàn cồng chiêng không chỉ làm nhiệm vụ điểm nhịp, đi tiết tấu hoặc giai điệu
một bè mà còn hòa tấu nhạc đa âm. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc


đấm bằng tay. Có bộ tộc cịn áp dụng kỹ thuật chặn âm bằng tay trái hoặc tạo giai
điệu trên một chiếc chiêng. Mỗi bài chiêng đều có rất nhiều bè, trong đó mỗi cá
nhân sẽ dùng một cái chiêng, bài chiêng có bao nhiêu chiêng thì có bấy nhiêu
người đánh. Các nghệ sĩ cồng chiêng nhớ rõ các tiết tấu trong đầu và kết hợp với

nhau rất hài hòa. Cách phối hợp âm thanh giữa các dàn cồng chiêng giữa các
chiếc cồng để làm thành thang điệu thức là điều rất đặc biệt.
- Theo số liệu thống kê, không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bao
trùm 5 tỉnh Tây Nguyên, tập hợp của 17 dân tộc thiểu số. Số lượng cồng chiêng
còn lại đến nay ở Đăk Lăk vào khoảng 3.825 bộ (27. 428 chiếc chiêng) . Ở Gia
Lai có khoảng 5.117 bộ cồng chiêng đang được lưu giữ tại các bn làng. Bình
qn mỗi làng có 2 đến 3 bộ; điều đáng nói là số lượng nghệ nhân ở một số địa
phương của Gia Lai ngày một nhiều, trong 9.110 người biết sử dụng thì có
khoảng 900 nghệ nhân giỏi và hơn 60 nghệ nhân biết sửa chữa, nắn chỉnh cồng
chiêng để có được thứ âm thanh như ý muốn. Số nghệ nhân này chính là linh hồn
truyền cảm và cũng là những người “thổi hồn” cho cồng chiêng rung ngân những
bản nhạc trầm bổng, có lúc bồng bềnh theo mây, nơ giỡn cùng gió và ánh nắng
tự nhiên; lại có lúc như hồ cuộn với ánh trăng và ánh lửa bập bùng réo rắt, rung
động lòng người.
- Tháng 11/2005, Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được
công nhận là “Kiệt tác truyển khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại”. Khác với
Nhã nhạc cung đình Huế - di sản phi vật thể được cơng nhận trước đó. Cồng
chiêng Tây Ngun được cơng nhận không chỉ ở “bản chất âm nhạc” mà cả ở “
khơng gian văn hóa”- mơi hữu sinh cơ của âm nhạc cồng chiêng.
II. Cồng chiêng – vật thiêng của người Tây Nguyên.
- Loại nghệ thuật này không chỉ mang tính chất giải trí cho người dân Tây
Nguyên mà giá trị chính của nó là gắn liền với các lễ hội những sự kiện quan
trọng.


- Hầu hết những sinh hoạt trọng bộ tộc đều gắn liền vs tiếng cồng tiếng
chiêng. Từ đứa trẻ mới lọt đã thì già làng sử dụng cái cồng xưa cổ nhất đến bên
giường đánh lên để cho những âm thanh đầu tiên lọt vào tai đứa bé là tiếng của
bộ lạc, khẳng định nó là một phần của cộng đồng bộ tộc. Khi đứa trẻ lớn lên thì
mỗi giai đoạn của đời sống đều gắn liền theo tiếng cồng chiêng, từ việc đồng áng

như gieo mạ, gặt lúa; cho đến những buổi gặp gỡ nam nữ, cuộc chia ly hay tang
lễ đều có những bản riêng.
- Cồng chiêng như sợi dây nối giữa con người với tâm linh, theo quan niệm
van vật hữu linh.
- Theo quan niệm của người Tây nguyên thì trong mỗi chiếc chiêng đều
chứa một vị thần, cồng chiêng càng cổ thì vị thần trong đó có sức mạnh càng
cao. Mang ý nghĩa tâm linh.
- Cồng chiêng là vật quý giá biểu hiện về quyền lực và sự giàu sang.
- Cồng chiêng gắn bó với đời sống thường ngày, đem cái thiêng vào cuộc
sống làm cho con người cảm thấy an tồn trong một khơng gian huyền ảo.
- Người Tây Nguyên dùng tiếng cồng chiêng để nới lên vẻ đẹp của núi rừng
Tây Nguyên cũng như khat vọng của con người nơi đây.
III. Những đặc trưng cơ bản của cồng chiêng Tây Nguyên:
1. Đặc trưng về người diễn xướng:
- Hầu như các nghệ nhân đánh cồng chiêng ở Tây nguyên là nam giới kể cả
hai tộc người Êđê và Giarai đang duy trì chế độ mẫu hệ hoặc người Bana,
Xơđăng đang duy trì cả chế độ mẫu hệ lẫn phụ hệ. Riêng ngành Bih của Êđê thì
chỉ phụ nữ mới được đánh cồng, người Mạ thì cả 2 giới đều được đánh chiêng
nhưng chia làm 2 dàn: dàn chiêng nam và dàn chiêng nữ. Ngày nay có dàn
chiêng hỗn hợp nghệ nhân nam và nghệ nhân nữ. Việc phụ nữ đánh chiêng cho
thấy vị trí xã hội và vai trò của họ trong tâm thức các tộc người này.


- Ngoài ra ở nhiều tộc người như Churu, Xơ đăng,M’nông và đặc biệt tộc
người Bana, Giarai, phụ nữ ( nhất là các cô gái trẻ) làm thành một dàn múa đồng
hành với bản nhạc chiêng. Điều đáng nói là điệu múa này được coi là thành tố
không thể thiếu của việc diễn tấu các bài cồng chiêng ( không được dùng bên
ngồi diễn tấu cồng chiêng hoặc giải trí). Nói cách khác sinh hoạt văn hóa cồng
chiêng ở Tây Nguyên là sinh hoạt cộng đồng, cuốn hút các thành viên tham gia.
Đây là bằng chứng chứng tỏ lịch sử lâu đời của cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa

cồng chiêng Tây Nguyên.
2. Đặc trưng về cách thức diễn xướng:
- Dàn cồng chiêng có thể đứng thành hang ngang hay vịng trịn, người nghệ
nhân ln di động cịn động tác đa dạng như nghiêng mình, cúi hơngngười,
khom lưng.
- Mỗi nghệ nhân dân gian trong một dàn cồng chiêng chỉ chơi một chiếc
cồng hoặc một chiếc chiêng, mỗi nghệ nhân tượng trưng cho một nốt nhạc và
phụ trách một nốt nhạc duy nhất, họ đan nối với nhau một cách chặt chẽ để tạo
nên một tổng thể hài hòa về giai điệu.
- Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên phụ trách một dàn cồng chiêng khác nhau,
cách chơi cũng khác nhau. Có ít nhất 3 phong cách âm nhạc lớn của cồng chiêng
Tây Nguyên: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn;
cồng chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng
Bana - Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên
âm sắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh thót của cồng chiêng khơng
núm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót).
- Đặc biệt trong các buổi lễ lớn hay những dịp tôn vinh một nhân vật nào thì
đối tượng được tơn vinh phải tọa lạc ở vị trí trung tâm, và dàn cồng chiêng đi
quanh thành hình trịn cho thấy việc này có ý nghĩa để cho nhân vật ở tâm điểm
có thể thưởng thức âm thanh các cồng chiêng với khoảng cách bằng nhau, đúng


với vị trí của nó chớ khơng bị nghe tiếng gần tiếng xa như khi xếp hàng ngang.
Thêm nữa, trong buổi lễ, các nhạc công lại di chuyển ngược với chiều kim đồng
hồ, đồng nghĩa với việc ngược dòng thời tìm về dĩ vãng, nhớ lại cội nguồn.
3. Đặc trưng cơ cấu dàn nhạc:
- Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có những đặc trưng riêng của cồng chiêng.
Càng đơng người thì dàn cồng chiêng của cồng chiêng. Càng đơng người thì dàn
cồng chiêng lẻ, hoặc dùng theo dàn, theo bộ từ 2 đến 12 chiếc, cũng có bộ 18 đến
20 chiếc như bộ chiêng của người Giarai. Dàn cồng chiêng Tây Nguyên được tổ

chức như một dàn nhạc có thể diễn tấu những bản nhạc đa âm với các hình thức
hịa điệu khác nhau. Điều đặc biệt trong dàn nhạc này mỗi người chỉ đánh một
chiếc cồng, hoặc chiêng.
- Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc người
Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:
+ Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc: Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan
niệm của nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2
chiêng bằng gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3 cồng núm của người
Churu, Bana, Giarai, Gié-Triêng... cũng thuộc loại này.
+ Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biến ở nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng bằng
của người Mạ; dàn Stang của người Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm Gar,
Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnơng; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người Êđê.
Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê. Dàn chiêng 6
chiếc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih thuộc dân tộc
Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng của nhóm Noong dân tộc
Mnơng.
+ Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng
của các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh), người
Xơđăng (ngành Steng).


+ Các dàn chiêng có biên chế 3 chiêng trở lên thường có chiếc trống lớn
và cặp chũm choẹ. Riêng dàn 3 cồng núm của người Churu thì phải có chiếc
khèn 6 âm phối hợp.
+ Mỗi dân tộc ở Tây Ngun lại có cách chơi cồng chiêng khác nhau. Ví
dụ người Stiêng hay M"Nơng thì đánh bằng tay trong khi người Ja Rai hay Ê Đê
lại đánh bằng dùi. Dân tộc càng đơng người thì dàn cồng chiêng càng lớn và
ngược lại.
- Ngồi ra cịn có cách đánh chiêng với dùi làm bằng gỗ cứng hay mềm
khác nhau tùy theo dân tộc. Có thể gõ vào giữa mặt chiêng hay đánh ngồi rìa

tùy theo bài bản. Người Ê Đê đa số sử dụng loại dùi cứng tạo nên tiếng vang rất
to nhưng lại có nhiều tạp âm. Người Bahnar thường sử dụng dùi làm bằng cây
sắn là loại gỗ mềm hơn, tuy nét nhạc không vang bằng nhưng âm cơ bản nghe rất
rõ. Loại dùi thứ ba làm bằng gỗ thường có bọc thêm một lớp bên ngồi (xưa kia
người ta sử dụng da tinh hồn của trâu, bị hoặc dê, về sau được bọc bằng vải rồi
đổi sang bọc bằng cao su). Dùi loại này phù hợp nhất vì tạo nên âm thanh rất
hay.
4. Đặc trưng về hệ bài bản:
- Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hết là
sự đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của
lễ thức đó. Như thế, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng. Trong mỗi
nghi lễ, lại có thể có nhiều cơng đoạn có nhạc chiêng riêng: Người ngành Aráp
dân tộc Giarai ở vùng Ea H’Leo tỉnh Đắc Lắc có các bài nhạc chiêng cho các lễ
đâm trâu, khóc người chết trong tang lễ, mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng,
lễ xuống giống, lễ cầu an cho lúa, mùa gặt... Ngoài ra, cịn có những bài chiêng
dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như: Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà
mới, chúc sức khoẻ…


- Các bài chiêng cũng đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với
trạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả
thì chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi; chiêng đâm
trâu thì nhịp điệu giục giã…
- Mỗi dân tộc đều có những bản nhạc cồng chiêng riêng để diễn tả vẻ đẹp
thiên nhiên, khát vọng của con người... Người Giarai có các bài chiêng Juan,
Trum vang... Người Bana có các bài chiêng: Xa Trăng, Sakapo, Atâu, Tơrơi...
Âm thanh của cồng chiêng còn là chất men lôi cuốn gái trai vào những điệu múa
hào hứng của cả cộng đồng trong những ngày hội của bn làng. Đây là sinh
hoạt văn hóa dân gian nổi bật nhất ở nhiều dân tộc Tây Nguyên.
Âm sắc cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm ngôn ngữ và lịch sử mỗi

dân tộc. Dân tộc Ê Đê chẳng hạn là một dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ đa âm
Polynesien và có một lịch sử đấu tranh dài lâu nên âm nhạc của họ có tiết tấu
nhanh, mạnh và nhiều âm sắc cao. Trong khi đó, dân tộc M"Nơng, một dân tộc ít
biết đến những xung đột gay gắt, âm điệu êm đềm hơn”.
5. Giá trị cơ bản của cồng chiêng Tây Nguyên:
* Giá trị vật chất:
- Cồng, chiêng là tài sản quý giá biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có.
Đã có một thời một chiếc chiêng giá trị bằng 2 con voi hoặc 20 con trâu.Có thể
dùng cồng chiêng để đổi lấy trâu, bò và voi.
- Đây là một loại nhạc cụ bằng đồng được sử dụng phổ biến trong các sinh
hoạt cộng đồng, các nghi lễ và các dịp hội hè của dân tộc tiểu số.
* Giá trị tinh thần:
- Cồng chiêng đóng vai trị là phương tiện khẳng định cộng đồng và bản sắc
văn hố dân tộc của cộng đồng các dân tộc ít người ở Tây Nguyên.
- Cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị như một bằng chứng độc đáo của đặc
trưng truyền thống văn hoá.


- Được dùng trong các lễ hội, được coi như là sợi dây vơ hình để gắn kết
con người với thế giới thần linh.
* Giá trị du lịch:
- Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên có khả năng hấp dẫn, thu
hút khách du lịch. Đây là cơ hội tốt để tuyên truyền, quảng bá về giá trị của di
sản.
- Cần tạo ra các tour du lịch, đưa khach du lịch đến xem, nghe trình diễn
cồng chiêng cộng đồng.
- Một số lễ hội thu hút khách du lịch: Hội đua voi ở Buôn Đôn, Hội Xuân
Tây Nguyên, Lễ hội cồng chiêng.
* Giá trị sử dụng :
Cồng, chiêng đại diện cho văn hoá Tây Nguyên, được sử dụng trong nhiều

nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Người Gia-rai, khi đứa trẻ được sinh ra, trong lễ
hội "thổi tai", tiếng chiêng sẽ cấp cho đứa bé những tín hiệu đầu tiên của văn hố
dân tộc. Chiêng cịn sử dụng khi làm đám cưới, làm nhà mới, làm rẫy, đưa người
chết ra mồ và cả khi bỏ nhà mồ…
*Giá trị âm nhạc:
Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên không những là một giá trị nghệ thuật đã
từ lâu được khẳng định trong đời sống xã hội mà cịn là kết tinh của hồn thiêng
sơng núi qua bao thế hệ.
6. So sánh với các quốc gia khác:
- Ngồi sự gắn kết giữa khơng gian văn hóa là sự phong phú trong cơ cấu
của các dàn chiêng (riêng người Giarai trước đây đã có tồn tại 5 dàn cồng chiêng
khác nhau theo mục đích của từng loại như dung trong lễ bỏ mả, đám rước,loại
dùng để tế thần lửa và loại cho gia đình có con là chiến sĩ trở về ) và nhất là sự
độc đáo trong cách thức diễn tấu.Cồng chiêng các nước ở Đông Nam Á lục địa
khác như Lào, Cam pu chia, Thái Lan, Myanma, … với nhiều dàn cồng chiêng


khác nhau ngồi1-2 chiếc cồng được theo trên giá thì hầu hết đều có núm nhỏ mà
mỗi cồng có 1 núm được úp trên 1 hộp bằng đồng.một số hệ thống được cố định
trên giàn tròn bằng mây hoặc giá gỗ. nói chung dàn cồng chiêng của họ được cấu
tạo như 1 cây đàn gõ ra giai điệu.
- Cồng chiêng Tây ngun thì trái lại, chế biến đa dạng khơng cố định, hình
thành nhiều loại dàn chiêng khác nhau để phục vụ cho những sinh hoạt, lễ thức
khác nhau. Điều khác biệt nữa là nhạc công dàn chiêng Tây nguyên ko ngồi yên
tại chỗ để gõ như ở các nược Lào,Thái Lan, Cam pu chia,Myanma, … mà luôn
di động (thường là xoayuquanh 1 đối tượng để tôn vinh ở vị trí trung tâm) và đa
dạng về động tác. Có 2 cách đánh ở cồng chiêng Tây nguyên đó la đánh bằng dùi
hoặc đánh bằng cườm tay.
IV. Tài liệu tham khảo:
1.


Viện văn hóa – Thơng tin: Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên. NXB Thế giới. HN 2006.
2. Trần Phong: Lễ hội Tây Nguyên. NXB Thế giới. HN 1984.



×